Nghị quyết 16/2005/NQ-CP của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 11 năm 2005
- Tóm tắt
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Nghị quyết 16/2005/NQ-CP
Cơ quan ban hành: | Chính phủ | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 16/2005/NQ-CP | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 08/12/2005 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Chính sách |
TÓM TẮT VĂN BẢN
* Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 11 năm 2005 - Theo Nghị quyết số 16/2005/NQ-CP ra ngày 08/12/2005, Chính phủ đã nghe Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo báo cáo tờ trình về đề án Phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2006-2015, nghe Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường trình bày Báo cáo kết quả kiểm tra việc thi hành Luật Đất đai, nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo về các giải pháp hạn chế nhập siêu thời kỳ 2006-2010 xem xét báo cáo kết quả giao ban về sản xuất, xuất nhập khẩu, đầu tư tháng 11 và tình hình kinh tế - xã hội 11 tháng năm 2005 do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình, Báo cáo về tình hình thương mại tháng 11 năm 2005 và dự báo tháng 12 năm 2005 do Bộ trưởng Bộ Thương mại trình. Chính phủ nhất trí thông qua các báo cáo này...
Xem chi tiết Nghị quyết 16/2005/NQ-CP tại đây
tải Nghị quyết 16/2005/NQ-CP
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
NGHỊ
QUYẾT
CỦA CHÍNH
PHỦ SỐ 16/2005/NQ-CP NGÀY 08 THÁNG 12 NĂM 2005
VỀ PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 11
NĂM 2005
Ngày 05 tháng 12
năm 2005, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng
11, bàn và quyết nghị các vấn đề sau đây:
1. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo báo cáo Tờ trình về Đề án Phát
triển giáo dục mầm non giai đoạn 2006 - 2015.
Trong những năm qua, được sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, giáo
dục mầm non đã có bước phát triển mới,
đóng góp tích cực vào sự phát triển chung của
hệ thống giáo dục quốc dân. Các chỉ tiêu phát
triển quy mô đến năm 2005 đều vượt
mức quy định tại Chiến lược phát
triển giáo dục 2001 - 2010. Chất lượng nuôi
dạy trẻ em trong các cơ sở giáo dục mầm non
ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên, so với vị trí và yêu
cầu phát triển, giáo dục mầm non vẫn còn
một số yếu kém, bất cập. Quy mô và chất
lượng giáo dục mầm non có sự chênh lệch
đáng kể giữa các vùng, miền trong cả
nước. Một tỷ lệ lớn trẻ em trong
độ tuổi mầm non chưa được chăm
sóc, nuôi dạy theo phương pháp khoa học.
Giáo dục mầm non là một bộ phận cấu
thành của hệ thống giáo dục quốc dân, có vị
trí rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển
nguồn nhân lực của đất nước, cần
được quan tâm thoả đáng. Phát triển giáo
dục mầm non là trách nhiệm của Nhà nước và
toàn dân. Thực hiện Nghị quyết số 37/2004/QH11
của Quốc hội và Luật Giáo dục năm 2005,
Chính phủ xác định, cần tập trung phát triển
giáo dục mầm non, tạo bước chuyển biến
cơ bản, vững chắc và toàn diện theo
hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá và xã hội
hoá; nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi và dạy
trẻ; mở rộng hệ thống các cơ sở giáo
dục mầm non trên các địa bàn dân cư, đặc
biệt ở nông thôn và những vùng khó khăn. Để
thực hiện được mục tiêu này, cần
tập trung xây dựng, nâng cao chất lượng
đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục
mầm non với các chế độ chính sách hợp lý
về đào tạo, tiền lương, bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế cũng như các quyền
lợi vật chất và tinh thần khác, không phân biệt
giáo viên công lập hay ngoài công lập, trong biên chế hay
ngoài biên chế; đổi mới chương trình,
nội dung, phương pháp giáo dục; đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất trường,
lớp mầm non đáp ứng yêu cầu phát triển,
nhất là ở vùng đồng bào dân tộc, vùng có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc
biệt khó khăn; tiếp tục bổ sung, hoàn thiện
các chính sách phát triển giáo dục mầm non, đẩy
mạnh xã hội hoá giáo dục mầm non theo lộ trình
hợp lý; đồng thời thực hiện mạnh
việc phân cấp quản lý, gắn với việc
tăng cường kiểm tra, bảo đảm hiệu
quả thực hiện.
Giao Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì,
phối hợp với Văn phòng Chính phủ và các cơ
quan liên quan, tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, hoàn
chỉnh Đề án Phát triển giáo dục mầm non giai
đoạn 2006 - 2015, trình Thủ tướng Chính phủ
xem xét, phê duyệt.
2. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và
Môi trường trình bày Báo cáo kết quả kiểm tra
việc thi hành Luật Đất đai.
Luật Đất đai 2003 là một trong những
đạo luật thu hút sự quan tâm đông đảo
của các tầng lớp nhân dân. Từ khi Luật có
hiệu lực thi hành đến nay, công tác quản lý
đất đai đã có bước tiến mới.
Đất đai được sử dụng có hiệu
quả hơn, thủ tục hành chính về đất
đai minh bạch, cụ thể hơn đã tạo
thuận lợi cho việc thực hiện các quyền
của người sử dụng đất. Đến
nay, đa số các tỉnh, thành phố đã hoàn chỉnh
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất... Tuy
vậy, công tác quản lý quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất vẫn còn nhiều yếu kém,
triển khai chậm. Việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất không đạt
tiến độ đề ra. Việc thu hồi
đất đối với các trường hợp vi
phạm còn thiếu kiên quyết. Công tác bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư còn
nhiều bất cập và sai phạm. Việc giải
quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về
đất đai chưa kịp thời, thiếu hiệu
quả.
Để thi hành Luật Đất đai, đưa
công tác quản lý, sử dụng đất đai đi vào
nền nếp, cần tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện chính sách, pháp luật về đất đai,
nhất là các chính sách về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư và giải quyết việc làm
đối với người có đất bị thu
hồi; tập trung chấn chỉnh những yếu kém,
tăng cường quản lý quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất, đẩy nhanh tiến
độ cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, kiên quyết thu hồi đất
đối với các trường hợp vi phạm theo quy
định của Luật đất đai; làm tốt
công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất; tăng
cường công tác kiểm tra, thanh tra việc thi hành pháp
luật đất đai, qua đó phát hiện những
vướng mắc để tháo gỡ kịp thời,
phát hiện và xử lý nghiêm những trường hợp
vi phạm; xử lý tốt tình hình tranh chấp, khiếu
nại, tố cáo về đất đai. Đặc
biệt, tập trung xử lý hết số đơn,
thư tồn đọng và hạn chế phát sinh số
đơn thư mới.
Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng
đất đai vì sự nghiệp phát triển bền
vững của đất nước là công việc quan
trọng, vừa bức xúc, vừa lâu dài, cần có sự
tham gia đồng bộ của các cơ quan trong hệ
thống chính trị. Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi
trường chủ trì, phối hợp với Văn phòng
Chính phủ và các cơ quan liên quan tiếp thu các ý kiến
tại phiên họp, trình Thủ tướng Chính phủ ban
hành Chỉ thị về xử lý những vấn
đề đặt ra sau đợt kiểm tra thi hành
Luật Đất đai.
3. Chính phủ nghe Báo cáo về các giải pháp hạn
chế nhập siêu thời kỳ 2006 - 2010 do Bộ
trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư
trình.
Tổng kim ngạch xuất khẩu của nước
ta trong giai đoạn 2001 - 2005 tăng bình quân trên 17
%/năm. Nhìn chung, xuất khẩu đã thực sự
trở thành động lực phát triển của nền
kinh tế, nhưng nhập siêu giai đoạn 2001 - 2005 còn
lớn, bằng 17,9 % tổng kim ngạch xuất khẩu.
Trong giai đoạn đầu phát triển nền kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá, việc nhập
khẩu công nghệ hiện đại và nguyên, nhiên,
vật liệu phục vụ cho sản xuất và xuất
khẩu là thực sự cần thiết đối
với mỗi nước. Thêm vào đó, yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực cùng với
việc thực hiện các cam kết về cắt
giảm thuế quan, dỡ bỏ các biện pháp phi
thuế cũng tác động tới nhập khẩu theo
chiều hướng tăng lên. Mặt khác, đối
với nước ta, tăng trưởng xuất khẩu
chưa thực sự bền vững cả về cơ
cấu hàng hoá và thị trường… Trong bối cảnh
ấy, tỷ lệ nhập siêu như vừa qua là khó tránh
khỏi và chấp nhận được. Tỷ lệ này
cũng có xu hướng giảm dần qua các thời
kỳ (giai đoạn 1991 - 1995 là 32,8% và 1996 - 2000 là 19%,
năm 2005 là 15,6%). Để hạn chế nhập siêu,
giải pháp quan trọng và tích cực nhất là đẩy
mạnh xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh
tranh của hàng hoá trong nước.
Khi nước ta hội
nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới,
đặc biệt là khi tham gia vào Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), vai trò điều
hành trực tiếp của Nhà nước sẽ giảm
dần nhưng đòi hỏi hệ thống cơ chế,
chính sách ngày càng đồng bộ và thông thoáng, vai trò
của các doanh nghiệp cần được phát huy
với tinh thần chủ động cao. Chính phủ yêu
cầu các Bộ, ngành và địa phương, doanh
nghiệp khẩn trương thực hiện những
giải pháp thiết thực vừa đẩy mạnh
xuất khẩu và vừa giảm thiểu nhập khẩu
một cách hợp lý, từng bước phấn
đấu cân bằng cán cân xuất nhập khẩu. Các
Bộ, cơ quan liên quan khẩn trương rà soát, ban hành
hoặc trình Chính phủ ban hành theo thẩm quyền các
văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ,
hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với bối cảnh hội
nhập khu vực và thế giới, tạo hành lang pháp lý
thông thoáng và điều kiện kinh doanh bình đẳng cho
các nhà đầu tư, khuyến khích phát triển doanh
nghiệp, đầu tư và thương mại. Xây
dựng kế hoạch nhập khẩu sát với nhu
cầu sản xuất, trong đó khuyến khích mua sắm,
sử dụng thiết bị, nguyên vật liệu trong
nước có đủ tiêu chuẩn kỹ thuật. Bên
cạnh đó, cần tính đến các biện pháp thích
ứng tiêu chuẩn Việt Nam với tiêu chuẩn quốc
tế, chú trọng xây dựng các hàng rào kỹ thuật,
tiêu chuẩn hàng nhập khẩu cũng như các công
cụ quản lý nhập khẩu phù hợp với tiêu
chuẩn của WTO và sử dụng linh hoạt các công
cụ tài chính tiền tệ để hạn chế
nhập siêu.
4. Chính phủ đã xem xét Báo cáo kết quả giao ban
về sản xuất, xuất nhập khẩu, đầu
tư tháng 11 và tình hình kinh tế - xã hội 11 tháng năm
2005 do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và
Đầu tư trình, Báo cáo về tình hình thương
mại tháng 11 năm 2005 và dự báo tháng 12 năm 2005 do
Bộ trưởng Bộ Thương mại trình. Chính
phủ nhất trí thông qua các báo cáo này.
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2005
có nhiều tiến bộ, tiếp tục có xu hướng
phát triển tích cực. Giá trị sản xuất công nghiệp
duy trì được tốc độ tăng
trưởng cao. Thị trường nội địa
phát triển ổn định. Hoạt động du
lịch diễn ra sôi động. Kim ngạch xuất
khẩu tiếp tục tăng nhanh, tỷ lệ nhập
siêu giảm. Thu hút đầu tư nước ngoài
vượt kế hoạch năm, thực hiện vốn
đầu tư phát triển tăng khá. Thu ngân sách Nhà
nước vượt dự toán. Các mặt công tác xã
hội tiếp tục phát triển theo chiều
hướng tích cực.
Mặc dù vậy, nền kinh tế vẫn đang
gặp nhiều khó khăn do bị ảnh hưởng
của thiên tai và dịch cúm gia cầm đang diễn
biến phức tạp, có thể tác động xấu
đến tăng trưởng kinh tế và gây ra
đại dịch cúm ở người. Chính phủ yêu
cầu các thành viên Chính phủ, Thủ trưởng các
cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương chú trọng công tác kiểm tra, chỉ
đạo sâu sát cơ sở, ngăn chặn có hiệu
quả dịch cúm gia cầm và không để xảy ra
đại dịch cúm ở người; khẩn
trương chuẩn bị các điều kiện cần
thiết để triển khai thực hiện Nghị
quyết của Quốc hội về nhiệm vụ
năm 2006; tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh đầu
tư xây dựng cơ bản, sản xuất và xuất
khẩu; kiềm chế có hiệu quả tốc
độ tăng giá, ổn định sản xuất và
đời sống, chuẩn bị tốt các điều
kiện để nhân dân đón Tết cổ truyền;
giải quyết tốt hơn nữa các vấn đề
văn hoá - xã hội, xoá đói giảm nghèo, trật tự
an toàn xã hội và kiềm chế tai nạn giao thông.
TM. Chính
phủ
Thủ
tướng
(đã ký)
Phan Văn
Khải