Chỉ thị 10/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc giảm văn bản, giấy tờ hành chính trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước
- Tóm tắt
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Chỉ thị 10/2006/CT-TTg
Cơ quan ban hành: | Thủ tướng Chính phủ | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 10/2006/CT-TTg | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Chỉ thị | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 23/03/2006 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Chính sách, Hành chính |
TÓM TẮT VĂN BẢN
* Cải cách thủ tục hành chính - Ngày 23/3/2006, Thủ tướng Phan Văn Khải đã ra Chỉ thị số 10/2006/CT-TTg về việc giảm các văn bản, giấy tờ hành chính trong hoạt động của các cơ quan hành chính. Chỉ thị nêu rõ: một trong những yếu kém bất cập phổ biến hiện nay của bộ máy hành chính là tình trạng lạm dụng quá nhiều văn bản giấy tờ hành chính trong quan hệ giải quyết công việc của các cơ quan hành chính nhà nước, in ấn, sao chụp và gửi văn bản, tài liệu tùy tiện, lãng phí, gây nhiều khó khăn, phức tạp, phiền hà về thủ tục hành chính, tác động tiêu cực đến hiệu lực, hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành và giải quyết công việc của cơ quan hành chính nhà nước... Để giảm một cách căn bản văn bản, giấy tờ hành chính trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, đưa việc phát hành và sử dụng văn bản, giấy tờ hành chính đi vào trật tự nền nếp, thực hiện cải cách, đơn giản hóa thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác chỉ đạo điều hành và phục vụ nhân dân của các cơ quan hành chính nhà nước...
Xem chi tiết Chỉ thị 10/2006/CT-TTg tại đây
tải Chỉ thị 10/2006/CT-TTg
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
CHỈ THỊ
CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH
PHỦ SỐ 10/2006/CT-TTg NGÀY 23 THÁNG 3 NĂM 2006
VỀ VIỆC GIẢM VĂN BẢN,
GIẤY TỜ HÀNH CHÍNH
TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Trong những năm qua, cùng
với quá trình đẩy mạnh cải cách hành chính,
nhất là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
quản lý, công tác văn thư và quản lý văn bản,
giấy tờ hành chính trong hoạt động của cơ
quan hành chính nhà nước ở các cấp, các ngành đã
từng bước được cải tiến, có
nhiều tiến bộ, có thêm nhiều công cụ và hình
thức để chỉ đạo, điều hành, trao đổi
thông tin với chất lượng, hiệu quả ngày càng
được nâng cao. Tuy nhiên, một trong những yếu
kém, bất cập phổ biến hiện nay của bộ
máy hành chính là tình trạng lạm dụng quá nhiều văn
bản, giấy tờ hành chính trong quan hệ giải
quyết công việc của các cơ quan hành chính nhà nước;
in ấn, sao chụp và gửi văn bản, tài liệu
tuỳ tiện, lãng phí, gây nhiều khó khăn, phức
tạp, phiền hà về
thủ tục hành chính, tác động tiêu cực đến
hiệu lực, hiệu quả công tác chỉ đạo, điều
hành và giải quyết công việc của các cơ quan hành
chính nhà nước.
Tình trạng trên có nguyên nhân
chủ yếu là do bệnh quan liêu hình thức, sính văn
bản, giấy tờ còn nặng nề trong thói quen, cách
làm việc của bộ máy hành
chính; thủ tục hành chính còn rườm rà; chậm
ứng dụng và sử dụng có hiệu quả công
nghệ thông tin vào công tác quản lý; chậm sửa đổi,
bổ sung những quy định của pháp luật
về công tác văn thư, về quản lý văn bản,
giấy tờ hành chính trong hoạt động của các cơ
quan hành chính nhà nước.
Để giảm một
cách căn bản văn bản, giấy tờ hành chính
trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước,
đưa việc phát hành và sử dụng văn bản,
giấy tờ hành chính đi vào trật tự, nền
nếp, thực hiện cải cách, đơn giản hoá
thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác chỉ đạo điều hành và
phục vụ nhân dân của các cơ quan hành chính nhà nước,
Thủ tướng Chính phủ chỉ thị:
1. Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng
cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
chỉ đạo việc rà soát, sửa đổi, bổ
sung và thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc của
cơ quan mình và của các tổ chức, đơn vị
trực thuộc, trong đó chú trọng đến việc
xây dựng, hoàn thiện quy trình tiếp nhận, xử lý
và ban hành văn bản một cách hợp lý và khoa học;
cải tiến việc in ấn, sao chụp, phát hành các
loại văn bản, giấy tờ hành chính theo tinh
thần triệt để tiết kiệm, chống lãng
phí, khắc phục bệnh hình thức.
2. Bộ Nội vụ có
trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn và
kiểm tra việc triển khai thực hiện Nghị định
số 110/2004/NĐ-CP ngày 08 tháng 4 năm 2004 của Chính
phủ về công tác văn thư trong các cơ quan hành chính
nhà nước từ trung ương đến địa
phương, từng bước hiện đại hoá,
nhanh chóng đưa công tác văn thư đi vào trật
tự, nền nếp.
Văn phòng Chính phủ
chủ trì, phối hợp với Bộ Nội vụ
tiếp tục chuẩn hoá về thể thức và kỹ
thuật trình bày các loại văn bản, giấy tờ
hành chính sử dụng thống nhất trong hệ
thống các cơ quan hành chính nhà nước. Nghiên cứu
và đưa vào ứng dụng một loại văn
bản, giấy tờ hành chính có thể thực hiện được
nhiều chức năng, giải quyết được
nhiều loại công việc.
3. Các cơ quan có thẩm
quyền ban hành các quy định về thủ tục hành
chính và quy trình tổ chức thực hiện các thủ
tục này, nhất là các thủ tục hành chính trong quan
hệ giữa cơ quan nhà nước với nhân dân và
doanh nghiệp, có trách nhiệm:
a) Rà soát các
thủ tục hành chính, quy định rõ ràng, cụ thể
và công khai hoá những giấy tờ cần thiết cho
việc giải quyết công việc của cá nhân, tổ
chức, kiên quyết loại bỏ các loại giấy
tờ bất hợp lý, không thật cần thiết. Nghiêm
cấm các cơ quan, công chức tự đặt ra
những loại giấy tờ trái quy định.
Thực hiện nguyên
tắc cá nhân, tổ chức trong quan hệ giải
quyết công việc với cơ quan nhà nước
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật
về tính trung thực, chính xác của nội dung giấy
tờ có liên quan đến việc thực hiện các
thủ tục hành chính.
b) Chuẩn hoá, ban hành đồng
bộ và công bố công khai các loại mẫu biểu
giấy tờ hành chính cần thiết để giải
quyết công việc cho cá nhân, tổ chức. Các mẫu
biểu giấy tờ hành chính phải thống nhất
trong toàn quốc về thể thức và kỹ thuật
trình bày, đơn giản, dễ hiểu, dễ sử
dụng.
4. Ứng dụng mạnh
mẽ công nghệ thông tin để giảm văn bản,
giấy tờ hành chính:
a) Thủ trưởng cơ
quan hành chính ở các cấp, các ngành có trách nhiệm chỉ
đạo việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học
và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin vào xử lý
công việc, từng bước thay thế cho việc dùng văn
bản, giấy tờ hành chính trong truyền đạt
thông tin, giải quyết công việc có liên quan.
b) Những cơ quan đã
có mạng tin học nội bộ (mạng LAN) thì nhanh chóng
thực hiện việc gửi, trao đổi và xử lý
văn bản, giấy tờ hành chính trong cơ quan và
với các cơ quan, tổ chức khác thông qua mạng tin
học, tiến tới chủ yếu thực hiện qua
mạng tin học.
Những
cơ quan chưa xây dựng được mạng tin
học nội bộ cần khẩn trương xây
dựng để nhanh chóng thực hiện được
việc nêu trên.
c) Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm hoàn
thiện, phát huy vai trò mạng tin học diện rộng
của Chính phủ trong công tác thông tin, gửi nhận và
xử lý văn bản giữa các cơ quan hành chính nhà nước;
trong quý III năm 2006 ban hành Quy chế quản lý, sử
dụng mạng tin học diện rộng của Chính
phủ, quy định cụ thể việc các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy nhân
dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
gửi các thông tin, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ thông qua mạng tin học diện rộng
của Chính phủ, không gửi văn bản qua bưu điện
hoặc bằng FAX như hiện nay.
Trong năm 2006, các Bộ,
ngành, chính quyền địa phương xây dựng và ban
hành quy chế sử dụng mạng tin học nội
bộ theo hướng dẫn thống nhất của cơ
quan có thẩm quyền; tập huấn cho cán bộ, công
chức kiến thức, kỹ năng sử dụng công
cụ tin học trong khi thực thi công vụ.
5. Thủ trưởng cơ quan, đơn
vị hành chính ở các cấp, các ngành có trách nhiệm:
a) Quy định cụ
thể và quản lý chặt chẽ việc sao chụp và
gửi các văn bản quy phạm pháp luật, các loại
văn bản, giấy tờ hành chính trong nội bộ
cũng như ra ngoài cơ quan, đơn vị mình.
Thủ trưởng cơ
quan hành chính có thẩm quyền ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, văn bản cá biệt hoặc được
giao thẩm quyền quản lý việc phát hành các loại văn
bản này có trách nhiệm quy định cụ thể danh
mục các cơ quan, tổ chức, cá nhân là "nơi
nhận" của văn bản đối với
từng loại văn bản. Văn bản quy phạm
pháp luật chỉ gửi đến cơ quan, tổ
chức có chức năng thẩm quyền tổ chức
thực hiện, giám sát, kiểm tra liên quan đến
nội dung văn bản, không gửi đến cơ quan,
tổ chức khác để biết hoặc để tham
khảo.
Sử dụng mạng tin
học nội bộ để cập nhật đầy
đủ các văn bản quy phạm pháp luật, văn
bản chỉ đạo của cấp trên phục vụ
cho việc tra cứu của cán bộ, công chức trong thừa
hành công vụ, nhằm hạn chế dần và đi
đến chấm dứt tình trạng các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân
các cấp sao chụp văn bản nhận được
từ cơ quan cấp trên để gửi cho các cơ
quan, tổ chức trực thuộc.
b) Tăng cường các
biện pháp giáo dục, tuyên truyền, động viên cán
bộ, công chức, viên chức thường xuyên nâng cao ý
thức trách nhiệm và tinh thần tiết kiệm,
chống lãng phí trong công việc; xây dựng tác phong, lề
lối làm việc khoa học, hiện đại, chủ động,
sáng tạo trong thực thi công vụ; khuyến khích phát huy
sáng kiến trong việc giảm văn bản, giấy
tờ hành chính.
6. Các văn bản,
giấy tờ hành chính cần thiết để thực
hiện các chức năng, thẩm quyền hành chính trong
xử lý công việc (như quyết định cá
biệt, chỉ thị cá biệt, công văn, chương
trình, kế hoạch, đề án, tờ trình, báo cáo và các
loại khác) phải gửi đúng địa chỉ cơ
quan, đơn vị và cá nhân có trách nhiệm, thẩm
quyền giải quyết và thực hiện công việc;
không gửi vượt cấp hoặc gửi cho những
cơ quan, đơn vị hoặc cá nhân khác để
biết hoặc để tham khảo, để thay cho báo
cáo công việc đã làm.
7. Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ
quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
phải quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm của Chánh Văn phòng Bộ, Chánh Văn
phòng Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương trong việc quản lý, phát hành và sử dụng
có hiệu quả, tiết kiệm các loại văn
bản, giấy tờ hành chính trong các cơ quan, tổ
chức trực thuộc.
8. Ngoài trách nhiệm
được quy định tại điểm 2 và 4
của Chỉ thị này, Bộ trưởng, Chủ
nhiệm Văn phòng Chính phủ còn có trách nhiệm:
a) Tăng cường năng
lực của Văn phòng Chính phủ trong việc thực
hiện các nhiệm vụ và quyền hạn về
quản lý văn bản, giấy tờ hành chính của các
cơ quan hành chính nhà nước theo quy định của
pháp luật.
b) Chủ trì, phối
hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng và ban hành
theo thẩm quyền hoặc trình Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ ban hành đồng bộ các văn
bản quy phạm pháp luật về quy trình, thủ
tục quản lý, sử dụng văn bản, giấy
tờ hành chính trong các cơ quan hành chính nhà nước.
c) Chủ trì, phối
hợp với các cơ quan có liên quan nghiên cứu, xây
dựng và ban hành quy chế về xử lý công việc
quản lý hành chính trên mạng tin học, nhất là trong
việc tiếp nhận và xử lý công việc của cá
nhân, tổ chức.
9. Bộ trưởng, Chủ
nhiệm Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm hướng
dẫn, đôn đốc và kiểm tra các Bộ, cơ quan
ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
thực hiện Chỉ thị này./.
THỦ TƯỚNG
Phan
Văn Khải