Quyết định 312/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt các đề án thuộc Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2005 đến năm 2010
- Tóm tắt
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Quyết định 312/2005/QĐ-TTg
Cơ quan ban hành: | Thủ tướng Chính phủ | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 312/2005/QĐ-TTg | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Quyết định | Người ký: | Phạm Gia Khiêm |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 30/11/2005 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày hết hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | An ninh trật tự, Chính sách |
TÓM TẮT VĂN BẢN
* Phòng, chống tội phạm - Quyết định số 312/2005/QĐ-TTg phê duyệt các đề án thuộc Chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ năm 2005 đến năm 2010. Các đề án đó là: Đề án 1: Tuyên truyền, giáo dục trong cộng đồng về phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em. Cơ quan chủ trì là Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Nội dung Đề án tập trung vào công tác tuyên truyền giáo dục về chính sách pháp luật, nâng cao ý thức của nhân dân trong công tác phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em. Đề án 2: Đấu tranh chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em, do Bộ Công an và Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng chủ trì.Nội dung tập trung vào công tác phòng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em, triển khai Đề án ở khu vực nội địa (tiểu dự án 1) do Bộ Công an chủ trì, triển khai Đề án ở khu vực biên giới (tiểu dự án 2) do Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng chủ trì. Đề án 3: Tiếp nhận và hỗ trợ những phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở về, do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội chủ trì, tập trung vào công tác tiếp nhận, hồi hương, hỗ trợ tái hoà nhập cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước ngoài trở về. Đề án 4: Xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em. Cơ quan chủ trì là Bộ Tư pháp. Nội dung Đề án tập trung công tác nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan đến công tác phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em. Thời gian thực hiện các đề án từ năm 2005 đến năm 2010 được chia làm 2 giai đoạn: từ 2005 đến 2007 và từ 2008 đến 2010. Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Xem chi tiết Quyết định 312/2005/QĐ-TTg tại đây
tải Quyết định 312/2005/QĐ-TTg
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
QUYẾT
ĐỊNH
CỦA THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 312/2005/QĐ-TTG
NGÀY 30 THÁNG 11 NĂM 2005 PHÊ DUYỆT CÁC ĐỀ ÁN THUỘC
CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG TỘI
PHẠM BUÔN BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM TỪ NĂM 2005
ĐẾN NĂM 2010
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ
Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Xét đề
nghị của Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ
trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chủ
tịch Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam,
QUYẾT
ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt
các đề án thuộc Chương trình hành động
phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ
em từ năm 2005 đến năm 2010 gồm 04
đề án cụ thể sau (kèm theo Quyết định
này):
1. Đề án 1: Tuyên truyền, giáo dục trong cộng
đồng về phòng, chống tội phạm buôn bán
phụ nữ, trẻ em.
Cơ quan chủ trì: Trung ương Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam.
Nội dung Đề án tập trung vào công tác tuyên
truyền giáo dục về chính sách pháp luật, nâng cao ý
thức của nhân dân trong công tác phòng, chống buôn bán
phụ nữ, trẻ em.
2. Đề án 2: Đấu tranh chống tội
phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em.
Cơ quan chủ trì: Bộ Công an và Bộ Tư lệnh
Bộ đội Biên phòng.
Nội dung Đề án tập trung vào công tác phòng
ngừa, ngăn chặn, phát hiện, điều tra,
xử lý tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em;
triển khai Đề án ở khu vực nội
địa (tiểu dự án 1) do Bộ Công an chủ trì,
triển khai Đề án ở khu vực biên giới
(tiểu dự án 2) do Bộ Tư lệnh Bộ
đội Biên phòng chủ trì.
3. Đề án 3: Tiếp nhận và hỗ trợ
những phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn
bán từ nước ngoài trở về.
Cơ quan chủ trì: Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội.
Nội dung Đề án tập trung vào công tác tiếp
nhận, hồi hương, hỗ trợ tái hoà nhập
cộng đồng cho phụ nữ, trẻ em bị buôn
bán từ nước ngoài trở về.
4. Đề án 4: Xây dựng và hoàn thiện hệ
thống văn bản pháp luật liên quan đến công
tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm
buôn bán phụ nữ, trẻ em.
Cơ quan chủ trì: Bộ Tư pháp.
Nội dung Đề án tập trung vào công tác nghiên
cứu, xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp
luật liên quan đến công tác phòng, chống buôn bán
phụ nữ, trẻ em.
Điều 2. Thời gian
thực hiện các đề án từ năm 2005 đến
năm 2010, gồm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn I: từ năm 2005 đến năm
2007.
- Giai đoạn II: từ năm 2008 đến năm
2010.
Điều 3. Kinh phí
thực hiện và tổ chức thực hiện các
đề án thuộc Chương trình hành động phòng,
chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em:
- Kinh phí thực hiện:
+ Từ ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương.
+ Từ các nguồn vốn hợp pháp khác trong và ngoài
nước, đóng góp của cộng đồng, tài
trợ quốc tế.
+ Các Bộ, ngành chủ trì các đề án phối
hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư bố trí kinh phí trong kế hoạch hàng
năm để thực hiện các đề án đúng
tiến độ.
- Các Bộ, ngành, đoàn thể được giao
chủ trì các đề án có trách nhiệm phối hợp
với các Bộ, ban, ngành, đoàn thể có liên quan ở
Trung ương và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương tổ chức thực
hiện các đề án đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt.
Điều 4. Quyết
định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày
đăng Công báo.
Điều 5. Giao cơ
quan thường trực Ban Chỉ đạo 130/CP của
Chính phủ có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc
việc tổ chức thực hiện các đề án trên,
định kỳ tổng hợp báo cáo Thủ
tướng Chính phủ.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính
phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương chịu trách
nhiệm thi hành Quyết định này.
KT. Thủ
tướng
Phó thủ
tướng
Phạm Gia
Khiêm - đã ký
CHƯƠNG TRÌNH
HÀNH ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM
BUÔN BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM TỪ NĂM 2005 ĐẾN
NĂM 2010
CỦA CHÍNH PHỦ
ĐỀ ÁN
TUYÊN TRUYỀN,
GIÁO DỤC TRONG CỘNG ĐỒNG VỀ
PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM BUÔN BÁN PHỤ NỮ, TRẺ
EM
TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010
I. CĂN CỨ
XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
1. Thực
trạng tình hình buôn bán phụ nữ, trẻ em (BBPNTE)
Tình hình buôn bán phụ
nữ và trẻ em trong những năm qua đã và đang
diễn ra hết sức phức tạp và nghiêm trọng và
xu hướng gia tăng không chỉ trong nước, mà
trong khu vực và trên toàn thế giới. Theo số liệu
của Bộ Công an, cho đến nay đã có hàng chục
nghìn PNTE Việt Nam bị buôn bán để làm mại dâm,
làm vợ bất hợp pháp, buộc phải lao
động trong điều kiện tồi tệ. Họ
bị bóc lột tình dục, bóc lột lao động
hoặc bị sử dụng vào những mục đích
thương mại, vô nhân đạo khác. Báo cáo của
Bộ Tư lệnh Biên phòng, từ năm 2000 đến
2004, phát hiện, bắt giữ 196 vụ/403 đối
tượng, triệt phá 53 đường dây buôn bán PNTE
qua biên giới, giải thoát cho 641 phụ nữ bị
lừa bán, phối hợp với các cơ quan chức
năng tiếp nhận 3.667 phụ nữ, trẻ em
Việt Nam bị buôn bán từ nước ngoài trở
về. Đối với tuyến biên giới phía Bắc,
từ năm 2000 đến tháng 12 năm 2004, Trung Quốc
đẩy về nước ta là 2.917 trường
hợp, qua phân loại trong đó có 947 đối
tượng bị lừa bán, 1.970 đối tượng
sang Trung Quốc trái phép với các lý do khác nhau. Đối
với tuyến biên giới Tây Nam, từ năm 2000
đến tháng 12 năm 2004 xảy ra 217 vụ/1.395 phụ
nữ, trẻ em bị lừa bán hoặc xuất cảnh
trái phép sang Cămpuchia hành nghề mại dâm, đã có hàng
nghìn trường hợp trở về.
Tội phạm trong nước liên kết với
tội phạm các nước, lừa bán PNTE từ các vùng
nông thôn, miền núi vào các nhà hàng, ổ chứa mại dâm
tại các thành phố lớn, các trung tâm kinh tế,
thương mại, qua biên giới. PNTE ở các tỉnh
phía Bắc nước ta bị bán sang Trung Quốc chủ
yếu để làm vợ, làm mại dâm. Nhiều nạn
nhân phải lấy những người đàn ông lớn
tuổi ở vùng sâu, kinh tế khó khăn; bị quản
lý chặt chẽ về thời gian và kinh tế; có
trường hợp phải phục vụ tình dục cho nhiều
người trong một gia đình. PNTE từ các các
tỉnh phía Nam chủ yếu bị đưa sang
Cămpuchia để hành nghề mại dâm tại các nhà
hàng, khách sạn, các tụ điểm mại dâm ở Phnom
Penh và các thị xã, thành phố lớn; một số PNTE
khác còn bị lừa bán cho người nước ngoài
thông qua môi giới hôn nhân, nhận làm con nuôi. ở
nước ngoài, do tình trạng nhập cư trái phép,
họ phải sống lén lút, mất quyền tự do, nhân
phẩm bị chà đạp, bất đồng về ngôn
ngữ; nhiều phụ nữ buộc phải tìm cách
trở về nước với hai bàn tay trắng, sức
khoẻ bị suy giảm, bị mắc các bệnh xã
hội, mặc cảm, khó hoà nhập cộng đồng.
Đối tượng dễ bị buôn bán chủ
yếu là phụ nữ 18 - 35, trẻ em trong độ
tuổi vị thành niên. Đối tượng này chủ
yếu thường sống ở vùng nông thôn, miền núi,
trình độ văn hoá thấp, nhận thức xã hội
hạn chế, thiếu hiểu biết, cả tin, không có
việc làm ổn định, điều kiện kinh
tế khó khăn hoặc do bị thương tổn,
đổ vỡ trong hôn nhân, hoàn cảnh gia đình éo le,
trắc trở, muốn có nhiều tiền, không có việc
làm. Trẻ em bị buôn bán thường là những trẻ
em lang thang, thiếu sự quan tâm, giáo dục, quản lý
của gia đình hoặc bị bỏ rơi, bị
bắt cóc, dụ dỗ lừa đảo đem đi bán.
BBPNTE là một loại tội phạm nguy hiểm xâm
hại trực tiếp đến danh dự, nhân phẩm,
sức khoẻ, tính mạng của phụ nữ và trẻ
em; ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình,
gây mất trật tự an toàn xã hội, an ninh biên
giới. BBPNTE không những là vi phạm thô bạo
đến quyền con người mà còn làm tăng đáng
kể nguy cơ lây nhiễm các bệnh xã hội,
HIV/AIDS trong cộng
đồng, làm mất đi nguồn nhân lực lao
động, gây thiệt hại về kinh tế cho gia
đình, cho xã hội.
2. Đánh giá hoạt động
truyền thông, giáo dục PCBBPNTE
a) Những điểm thành công:
Trong những năm qua, hoạt động truyền
thông, giáo dục, tư vấn, vận động cộng
đồng PCBBPNTE đã góp phần phòng ngừa,
đấu tranh phòng, chống tội phạm BBPNTE; nhận
thức của cán bộ, nhân dân về nguyên nhân, hậu
quả và thủ đoạn của bọn buôn
người đã có những chuyển biến rõ rệt.
Công tác phối hợp liên ngành đã phát huy sức mạnh
trong việc tuyên truyền, giáo dục ngăn ngừa
tội phạm BBPNTE.
Hoạt động tuyên truyền, giáo dục PCBBPNTE
được tổ chức với nhiều nội dung
và hình thức phong phú, đa dạng như: truyền thông
trực tiếp, băng video, đĩa CD, băng cátset,
văn hoá văn nghệ, hội thi, sinh hoạt câu lạc
bộ, sinh hoạt tổ phụ nữ, đã chuyển
tải nhiều thông tin tới đông đảo các
tầng lớp nhân dân. Đặc biệt tranh thủ
hiệu quả của hệ thống thông tin đại
chúng, góp phần làm thay đổi nhận thức của
cộng đồng, tạo sự ủng hộ và giúp
đỡ của các cấp chính quyền địa
phương trong công tác PCBBPNTE.Tại một số
địa bàn trọng điểm đã xây dựng
được các mô hình truyền thông hỗ trợ cho các
nạn nhân tái hoà nhập cộng đồng đạt
hiệu quả, mang tính thiết thực cao.
Đội ngũ tuyên truyền viên, báo cáo viên, cộng
tác viên ở những địa phương có
chương trình, dự án về PCBBPNTE đã
được tập huấn nâng cao năng lực và
tổ chức được các hoạt động
truyền thông về PCBBPNTE đạt hiệu quả
ở cộng đồng.
Hoạt động trao đổi, chia xẻ kinh
nghiệm về truyền thông PCBBPPNTE qua các hội thảo
song phương, chiến dịch truyền thông chung
PCBBPNTE, các cuộc họp thường niên giữa các ngành
của Việt Nam với Trung Quốc; hội thảo
giữa Hội LHPN Việt Nam với Hội LHPN Lào và
Bộ phụ nữ Campuchia, tham gia một số hội
thảo Quốc tế và khu vực cũng góp phần
khẳng định thêm mức độ nghiêm trọng
của tình hình BBPNTE cũng như đưa ra những
định hướng, giải pháp cụ thể nhằm
ngăn chặn và giảm dần tình trạng BBPNTE.
b) Những khó khăn và thách thức:
Kết quả khảo sát cộng đồng về
BBPNTE tại 22 xã của 7 huyện thuộc 3 tỉnh:
Quảng Ninh, An Giang, Lạng Sơn; nghiên cứu các nhóm
đối tượng truyền thông về PCBBPNTE (lãnh
đạo chính quyền địa phương, cha mẹ,
nữ thanh niên, phụ nữ 18 - 35 tuổi, nhóm trẻ em,
giáo viên, học sinh, nạn nhân) tại 8 xã của 4
tỉnh (Bắc Giang, Thanh Hoá, Quảng Ninh, Lạng Sơn);
Đề tài nghiên cứu về PCBBPNTE của Trung
ương Hội LHPN VN "Hỗ trợ cộng đồng
PCBBPNTE/RAS 98 H01"; truyền thông thí điểm băng video
tại 5 xã của 5 tỉnh (Thái Bình, Hải Dương,
Yên Bái, Tiền Giang, Sóc Trăng) cho thấy:
Nhận thức của các cơ quan chính quyền
địa phương các cấp chưa đầy
đủ, chưa thực sự quan tâm, đầu tư
đúng mức đến công tác truyền thông PCBBPNTE;
hoạt động truyền thông PCBBPNTE chưa tiến
hành thường xuyên, sâu rộng, mới chỉ tập
trung ở một số địa bàn trọng điểm
vào các đợt cao điểm, ở những tỉnh có
dự án hỗ trợ, số xã được đầu
tư truyền thông còn rất ít (chỉ đạt
khoảng 10% tổng số xã của cả nước);
các giải pháp truyền thông thiếu tính chiến
lược, do đó hiệu quả truyền thông chưa
cao. Hình thức tuyên truyền chưa thực sự phong
phú, đa dạng nên chưa thu hút được sự
tham gia đông đảo của cộng đồng vào công
tác PCBBPNTE; trình độ, năng lực của đội
ngũ tuyên truyền viên, báo cáo viên ở cấp cơ
sở, vùng sâu, vùng xa còn hạn chế, một số chưa
thực sự đáp ứng được yêu cầu; các
mô hình hiệu quả chưa được đa dạng,
chưa được phát triển nhân rộng ra
địa bàn; hoạt động sơ, tổng kết,
rút kinh nghiệm hàng năm chưa được tiến
hành thường xuyên; khen thưởng, động viên
chưa kịp thời nên chưa khuyến khích, thu hút
sự tham gia tích cực của mọi người vào công
tác truyền thông PCBBPNTE; công tác phối hợp giữa các
bộ, ngành, các đoàn thể chưa tạo
được sự đồng bộ, thống nhất
trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện các
hoạt động truyền thông; đối tượng
có nguy cơ ít được tiếp cận
được với thông tin về BBPNTE; kinh phí tổ
chức các hoạt động truyền thông PCBBPNTE còn hạn
hẹp. Tài liệu truyền thông chưa đáp ứng
được yêu cầu của các cơ sở trong
cả nước.
Những khó khăn và thách thức trên có nhiều nguyên
nhân, song tập trung ở những nguyên nhân chính sau: vấn
đề PCBBPNTE chưa thực sự được quan
tâm chỉ đạo thực hiện, ở địa
phương còn nhiều
vấn đề bức xúc cần giải quyết
như: nghèo đói, việc làm, tệ nạn xã hội,
tội phạm. ở những địa bàn trọng
điểm, do điều kiện kinh tế khó khăn,
thiếu phương tiện truyền thông đại
chúng; mặt khác, do điều kiện giao thông còn khó
khăn, trình độ dân trí thấp, một bộ
phận người dân còn không biết chữ, không
biết tiếng phổ thông nên chưa được
tiếp cận với các thông tin về PCBBPNTE; tuyên truyền
viên ở cộng đồng ít được đào
tạo, tập huấn, không có điều kiện cập
nhật thông tin cũng như kỹ năng về
truyền thông, giáo dục, tư vấn, vận
động cộng động về PCBBPNTE. Công tác
truyền thông cộng đồng PCBBPNTE chưa
được đầu tư hợp lý, nguồn lực
trong cộng đồng chưa được huy
động; diễn biến của tình hình ngày càng phức
tạp, tội phạm hoạt động với
nhiều thủ đoạn tinh vi, có sự cấu kết
giữa các tỉnh trong nước, các nước trong khu
vực; phụ nữ, trẻ em di cư tự do đi tìm
việc làm tại các thành phố, thị xã ngày càng tăng;
việc quản lý hộ tịch, hộ khẩu trên
địa bàn chưa chặt chẽ. Đó chính là những
nguyên nhân cản trở đến tuyên truyền, giáo
dục cộng đồng.
3. Cơ sở pháp lý xây dựng Đề án
- Nhà nước ta đã ký kết Công ước
Loại trừ mọi hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ (Cedaw), Công ước quốc
tế về quyền trẻ em (CRC), Công ước số
182 của Tổ chức Lao động quốc tế
về nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xoá
bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi
tệ nhất, Công ước số 138 về tuổi
tối thiểu được đi làm, Nghị
định thư về buôn bán trẻ em, mại dâm
trẻ em và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em.
- Nhà nước đã ban hành nhiều đạo
luật cơ bản có liên quan đến phụ nữ và
trẻ em như luật Bảo vệ chăm sóc và giáo
dục trẻ em, Luật Phổ cập giáo dục
tiểu học, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Bảo vệ
sức khoẻ, Luật Đất đai, Luật Lao
động, Bộ luật Tố tụng hình sự,
Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Pháp
lệnh Phòng, chống mại dâm ... và các văn bản
dưới luật nhằm đảm bảo thực
hiện quyền phụ nữ, quyền trẻ em.
- Ngày 12 tháng 02 năm 2004, Chính phủ ban hành Quyết
định số 19/2004/QĐ-TTg về việc phê
duyệt Chương trình ngăn ngừa và giải
quyết trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình
dục, trẻ em phải lao động nặng nhọc,
trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai
đoạn 2004 - 2010.
- Ngày 14 tháng 7 năm 2004 Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 130/2004/QĐ-TTg phê
duyệt Chương trình hành động phòng, chống
tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ
năm 2004 đến năm 2010 với mục tiêu tạo
sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận
thức và hành động trong các cấp, các ngành, các
đoàn thể và toàn bộ xã hội về công tác PCBBPNTE
nhằm phòng ngừa, ngăn chặn và giảm cơ
bản vào năm 2010 tình trạng phụ nữ, trẻ em
bị buôn bán. Thực hiện chương trình hành
động này, có 4 đề án được xây dựng.
Hội LHPN Việt Nam được phân công chủ trì xây
dựng đề án "Tuyên truyền, giáo dục trong
cộng đồng về phòng, chống tội phạm
buôn bán phụ nữ trẻ em"
II. MỤC TIÊU VÀ
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
1. Mục tiêu
tổng quát
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục trong
cộng đồng về phòng, chống tội phạm
buôn bán phụ nữ, trẻ em nhằm tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành
động, sự tham gia tích cực của toàn xã hội,
các đối tượng phụ nữ trong lĩnh
vực phòng ngừa, phát hiện tố giác tội phạm
buôn bán phụ nữ, trẻ em; giảm cơ bản tình
trạng phụ nữ, trẻ em bị buôn bán vào năm
2010.
2. Các mục tiêu
cụ thể và giải pháp thực hiện
a) Mục tiêu 1:
Nâng cao nhận thức của các đối
tượng phụ nữ, trẻ em, người dân
cộng đồng về thủ đoạn, nguyên nhân,
hậu quả của tệ nạn BBPNTE, biết cách
bảo vệ bản thân, gia đình và cộng đồng
trong PCBBPNTE; nâng cao sự hiểu biết, ý thức
chấp hành pháp luật trong phòng ngừa, đấu tranh
phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ
em thông qua các hoạt động truyền thông cộng
đồng.
- Kết quả 1:
Tăng bình quân mỗi năm 10% số phụ nữ
từ 18 đến 35 tuổi, trẻ em gái vị thành niên
và gia đình nhận biết được thủ
đoạn, hậu quả, cách phòng, chống buôn bán
phụ nữ, trẻ em; hiểu rõ pháp luật phòng
ngừa, đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn
bán phụ nữ, trẻ em. Đối với các xã
điểm, tăng 20%/năm.
- Các giải pháp:
+ Sử dụng có hiệu quả các kênh truyền thông:
Chương trình truyền hình phụ nữ,
chương trình phát thanh phụ nữ được phát
sóng hàng tuần trên Đài Truyền hình và Đài Tiếng
nói Việt Nam là điều kiện thuận lợi cho
việc truyền thông trên phạm vi toàn quốc về
phòng, chống buôn bán phụ nữ trẻ em. Nội dung
tuyên truyền giáo dục qua các băng video, đĩa VCD,
băng catsét, phim truyền hình, bản tin tiếng dân
tộc thiểu số, sẽ được sản
xuất và nhân bản cho đài truyền hình và đài phát
thanh các tỉnh, thành, các xã phường điểm,
đặc biệt hệ thống truyền thanh của các
địa phương; tuyên truyền trên các báo, tạp
chí, tờ tin, trang website của các ngành, các cấp, góp
phần nâng cao nhận thức và chuyển đổi hành
vi bền vững cho mỗi cá nhân và cả cộng
đồng trong phòng, chống buôn bán phụ nữ trẻ
em.
Đề án đặc biệt chú trọng vào kênh
truyền thông trực tiếp cho các nhóm đối
tượng: đối với nhóm phụ nữ 18
đến 35 tuổi, người dân ở cộng
đồng sẽ tập trung vào việc cung cấp thông
tin giúp đối tượng có được những
kiến thức cơ bản về nguyên nhân, thủ
đoạn, hậu quả và biện pháp phòng, chống buôn
bán phụ nữ trẻ em, kiến thức giới,
quyền phụ nữ, trẻ em, khoa học kỹ
thuật, kỹ năng sống, cách phát hiện, tố giác
tội phạm và bảo vệ nhân chứng thông qua
việc truyền thông trên kênh thông tin đại chúng, qua
việc tổ chức chiến dịch truyền thông, mít
tinh, truyền thông nhóm nhỏ, sinh hoạt chuyên đề;
đối với nhóm trẻ em gái vị thành niên sẽ
tập trung vào các hoạt động như tổ chức
diễn đàn trao đổi, thảo luận, thi tìm
hiểu kiến thức; đối với nhóm phụ
nữ, trẻ em bị buôn bán trở về sẽ tập
trung vào hoạt động tư vấn cho cá nhân, tư
vấn cho gia đình, xây
dựng mô hình; khuyến khích chị em tham gia sinh hoạt
chuyên đề, tham gia đi tuyên truyền, vận
động; đối với gia đình sẽ tập
trung vào hoạt động toạ đàm, thăm hộ gia
đình, hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình
thông qua các hoạt động lồng ghép.
+ Xây dựng bộ công cụ truyền thông:
Xây dựng giáo trình giảng dạy về PCBBPNTE cho
đội ngũ giảng viên bao gồm: tài liệu
truyền thông về luật pháp, chính sách liên quan
đến phụ nữ, trẻ em; tài liệu truyền
thông PCBBPNTE; kỹ năng truyền thông, giáo dục, tham
vấn, tư vấn cộng đồng, truyền thông
thay đổi hành vi, kỹ năng lập kế
hoạch, giám sát, đánh giá;
bình đẳng giới; kỹ năng sống, khoa học
kỹ thuật nông nghiệp...
Bộ công cụ truyền thông về PCBBPBTE sẽ
được xây dựng bao gồm: sách lật, tờ
rơi, tranh áp phích, sổ tay cho tuyên truyền viên, lịch
và các phóng sự, phim. Các tài liệu truyền thông này sẽ
được in và phát đến các cơ quan, đoàn
thể, tổ chức chính trị - xã hội,
trường học, gia đình, đến tận tay các
đối tượng phụ nữ, trẻ em,
người dân ở các địa phương thực
hiện đề án.
+ Xây dựng mô hình phòng, chống BBPNTE ở các
địa bàn trọng điểm, có nhiều phụ
nữ, trẻ em bị buôn bán (những tỉnh biên
giới, có cửa khẩu, đường mòn - nơi trung
chuyển phụ nữ, trẻ em; thành phố, thị xã,
thị trấn, một số tỉnh đồng
bằng...). Trên cơ sở tổng kết, đánh giá,
lựa chọn những mô hình hoạt động có
hiệu quả để nhân rộng. Mỗi địa
bàn, mỗi đối tượng có mô hình truyền thông
phù hợp: đối với vùng đồng bào dân tộc
thiểu số dùng băng cát sét, băng hình tiếng dân
tộc; các thành phố, thị xã, thị trấn dùng xe
cổ động, đội văn nghệ lưu
động; vùng đông dân cư tập trung truyền thông
qua chiến dịch truyền thông, truyền thông trực
tiếp cho các nhóm đối tượng; tư vấn cho
đối tượng, cho gia đình nạn nhân bị buôn
bán trở về, với đối tượng phạm
tội. Đến năm 2007 có 10 mô hình/10 tỉnh và
đến năm 2010 có 30 mô hình/30 tỉnh trọng
điểm đạt hiệu quả được duy
trì.
+ Vận động sự ủng hộ và tham gia
của toàn xã hội của các cấp chính quyền, các
đoàn thể, tổ chức xã hội, các gia đình, các
nhóm đối tượng phụ nữ, trẻ em,
đặc biệt những nhóm phụ nữ và trẻ em
bị buôn bán trở về, trong việc ngăn ngừa các
hành vi buôn bán người;
tạo dư luận lên án, phát hiện tố giác
tội phạm; hỗ trợ nạn nhân tái hoà nhập
cộng đồng ổn định cuộc sống,
đầu tư nguồn lực trong công tác truyền thông
vận động xã hội, đưa hoạt
động phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em vào
các mục tiêu kinh tế - xã hội của địa
phương, các hoạt động của các tổ
chức xã hội.
b) Mục tiêu 2:
Nâng cao năng lực cho cán bộ, tuyên truyền viên,
cộng tác viên về kiến thức PCBBPNTE, luật pháp,
chính sách liên quan đến PCBBPNTE, Kỹ năng truyền
thông giáo dục thay đổi hành vi PCBBPNTE tại cộng
đồng.
- Kết quả 2:
+ Đào tạo được đội ngũ
giảng viên chủ chốt cấp Trung ương và
cấp tỉnh/thành, quận, huyện, tuyên truyền viên
các xã /phường có kiến thức và kỹ năng
truyền thông, vận động, tư vấn về phòng
chống BBPNTE.
+ 1.200 tuyên truyền viên của của 30 tỉnh
trọng điểm được trang bị kiến thức và kỹ năng
phòng, chống BBPNTE, có khả năng tổ chức các
hoạt động truyền thông PCBBPNTE có hiệu quả
tại cộng đồng.
+ Xây dựng được bộ giáo trình tập
huấn về PCBBPNTE cho giảng viên đạt hiệu
quả về cả nội dung và hình thức
được đưa vào sử dụng.
+ Xây dựng được cuốn sổ tay về
phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em; kỹ
năng phòng, chống BBPNTE; lồng ghép bình đẳng
giới với truyền thông, tham vấn, tiếp cận
đối tượng PCBBPNTE.
+ Xây dựng một bộ tài liệu truyền thông
về PCBBPNTE cho các đối tượng có hiệu
quả bao gồm: sách mỏng, tờ rơi, truyện
tranh, áp phích, lịch, sách lật.
+ Xây dựng các sản phẩm, ấn phẩm nghe, nhìn
phim truyền hình về PCBBPNTE thu băng cát sét về
PCBBPNTE (băng video, đĩa VCD, băng cát sét).
- Giải pháp thực hiện:
+ Lựa chọn và tổ chức đào tạo cho các
giảng viên chủ chốt cấp trung ương và
cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương nhằm nâng cao năng lực về PCBBPNTE,
kỹ năng truyền thông, giáo dục, vận
động, tư vấn
cộng đồng về PCBBPNTE.
+ Xây dựng mạng lưới tuyên truyền viên cơ
sở về PCBBPNTE.
+ Tổ chức các lớp tập huấn về PCBBPNTE
ở cơ sở cho tuyên truyền viên.
+ Chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng
tuyên truyền viên là những nạn nhân bị buôn bán trở
về để tăng cường hiệu quả
của công tác truyền thông qua những điển hình
người thật, việc thật, đồng thời
cũng tạo điều kiện để chị em là
nạn nhân bị buôn bán trở về nhanh chóng xoá bỏ
mặc cảm và tái hoà nhập cộng đồng.
+ Tăng cường các hoạt động trao đổi
thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, thăm quan mô hình trong
nước và các nước trong khu vực, trên thế
giới.
+ Xây dựng cơ chế song phương phòng, chống
BBPNTE, hỗ trợ phụ nữ, trẻ em bị buôn bán
trở về tái hoà nhập
cộng đồng.
III. QUAN
ĐIỂM, PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG CỦA
ĐỀ ÁN
1. Quan điểm
về truyền thông PCBBPNTE
Công tác tuyên truyền, giáo dục PCBBPNTE tại cộng
đồng sẽ tập trung vào những vùng trọng
điểm; tập trung vào đối tượng có nguy
cơ cao để phòng ngừa nhằm nâng cao nhận
thức, tiến tới thay đổi hành vi; đa dạng
hoá các kênh truyền thông, đặc biệt chú trọng vào
kênh truyền thông trực tiếp cấp cơ sở
nhằm thu hút sự tham gia của nhiều người các
cấp các ngành, cả cộng đồng; lồng ghép
truyền thông PCBBPNTE với các chương trình mục tiêu
kinh tế - xã hội của địa phương.
2. Phạm vi
Giai đoạn 1 (2006 - 2007): Đề án tập trung
ưu tiên chỉ đạo và đầu tư nguồn
lực tại những địa bàn trọng điểm,
những cơ sở chưa được truyền thông,
khó khăn: vùng biên giới, cửa khẩu; tỉnh
đồng bằng - điều kiện kinh tế gặp
nhiều khó khăn và là điểm đi của phụ
nữ trẻ em bị lừa gạt; thành phố, thị
xã, thị trấn, các khu trung tâm công nghiệp.
Giai đoạn 2 (2008 - 2010): Đề án sẽ nhân
rộng 60 xã, phường, thị
trấn, thuộc 20 tỉnh trọng điểm,
với phương châm "Mọi người đều
hành động phòng, chống tội phạm BBPNTE
để phòng ngừa cho bản thân, gia đình và cộng
đồng".
3. Đối
tượng
Tập trung vào nhóm đối tượng phụ
nữ, trẻ em có nguy cơ cao: phụ nữ trong
độ tuổi 18 - 35 (nhóm đối tượng
thiếu việc làm, có thu nhập thấp, gia đình có hoàn
cảnh khó khăn về kinh tế, phụ nữ có hoàn
cảnh gia đình éo le muốn thay đổi cuộc
sống); nhóm nữ học sinh phổ thông trung học và
phổ thông cơ sở; nhóm nữ vị thành niên, trẻ
em gái lao động sớm, trẻ em lang thang.
Nhóm phụ nữ, trẻ em bị buôn bán trở về.
Đây là nhóm ưu tiên trong quá trình truyền thông nâng cao
kiến thức, ý thức cảnh giác, tố giác tội
phạm.
Nhóm đối tượng tác động: gia đình,
người thân của nhóm đối tượng có nguy
cơ cao; gia đình của những nạn nhân bị buôn
bán trở về; nhóm chủ sử dụng lao động,
các chủ nhà trọ; cán bộ lãnh đạo, quản lý,
cán bộ chuyên môn, các ban ngành, đoàn thể, cán bộ
hội phụ nữ, đội ngũ cộng tác viên, tình
nguyện viên cấp cơ sở; đối tượng
phạm tội BBPNTE.
IV. TỔ
CHỨC THỰC HIỆN
1. Thời gian
thực hiện
a) Giai đoạn một 2006 - 2007:
Nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn này là:
đánh giá thực trạng tình hình phụ nữ, trẻ em
bị buôn bán, hiệu quả các tài liệu truyền thông
về PCBBPNTE; đánh giá được hiệu quả
của những mô hình đã tổ chức thực hiện
tại các điểm dự án trước đây và có
kế hoạch nhân rộng mô hình truyền thông, các kênh
truyền thông có hiệu quả; xây dựng được
các thông điệp truyền thông, nội dung truyền
thông, tài liệu truyền thông; mô hình truyền thông phù
hợp tại cộng đồng. Tăng cường các
hoạt động truyền thông, truyền thông thay
đổi hành vi tại cộng đồng; lồng ghép
với các hoạt động can thiệp, hỗ trợ
những nhóm phụ nữ, trẻ em có nguy cơ cao, nhóm
phụ nữ, trẻ em bị buôn bán trở về tái hoà
nhập cộng đồng. Đặc biệt tập
trung chỉ đạo 10 xã điểm/10 tỉnh, với
phương châm là huy động nguồn lực của
địa phương, ngân sách của nhà nước và
khai thác nguồn hỗ trợ của các tổ chức
quốc tế. Hoạt
động về đào tạo, tập huấn nâng
cao kiến thức, năng lực cho đội ngũ cán
bộ thực hiện đề án các cấp, đội
ngũ tuyên truyền viên, cộng tác viên cơ sở về
kiến thức và kỹ năng quản lý dự án;
kiến thức và kỹ năng truyền thông, giáo dục,
truyền thông thay đổi hành vi đối với cá
nhân, gia đình và cộng đồng sẽ được
tổ chức thực hiện cùng với các hoạt
động giám sát, đánh giá đề án. Để
tăng cường nâng cao năng lực cho cán bộ, tuyên
truyền viên, cộng tác viên, sẽ có các hội nghị,
hội thảo chia sẻ kinh nghiệm giữa các
địa phương về công tác truyền thông PCBBPNTE.
Hoạt động đánh giá, sơ kết kết quả
thực hiện đề án giai đoạn một vào
cuối năm 2007.
b) Giai đoạn hai 2008 - 2010:
Nhiệm vụ trọng tâm của giai đoạn này là:
tập trung duy trì và phát triển, nâng cao hiệu quả
đã đạt được của chương trình
trong giai đoạn một, rút kinh nghiệm trong công tác
chỉ đạo các mô hình điểm, chú trọng
lồng ghép truyền thông PCBBPNTE với các chương
trình, dự án có liên quan
đến phụ nữ, trẻ em, với các chương
trình công tác trọng tâm và phong trào thi đua yêu nước
của Hội đối với các xã được
thực hiện đề án, coi đây là nhiệm vụ
thường xuyên trong công tác tuyên truyền, giáo dục
của Hội; duy trì và nhân rộng mô hình truyền thông
vận động, truyền thông thay đổi hành vi
tại 30 tỉnh trọng điểm, hỗ trợ các
hoạt động truyền thông tại cộng
đồng đối với những xã còn lại
để thực hiện được mục tiêu
của đề án. Công tác truyền thông PCBBPNTE lồng
ghép với các chương trình, dự án có liên quan
đến phụ nữ, trẻ em, với các chương
trình công tác trọng tâm và phong trào thi đua yêu nước
của Hội; công tác truyền thông PCBBPNTE lồng ghép
với các chương trình, dự án có liên quan đến
phụ nữ, trẻ em, với các chương trình công tác
trọng tâm và phong trào thi đua yêu nước của
Hội.
Tiếp tục tập huấn nâng cao và tập huấn
lại cho đội ngũ tuyên truyền viên, cộng tác
viên cơ sở và tổ chức hội thảo chia sẻ
kinh nghiệm cấp quốc gia và khu vực về
truyền thông PCBBPNTE. Ban quản lý đề án các cấp sẽ
tổ chức hội nghị tổng kết kết
quả đề án. Trên sở kết quả đánh giá
đề án các cấp, ban quản lý đề án Trung
ương tiến hành tổng kết đánh giá kết
quả thực hiện đề án, rút ra bài học kinh
nghiệm, khuyến nghị những giải pháp can
thiệp tiếp tục duy trì tính bền vững của
đề án trong những năm tới.
2. Cơ chế
hoạt động của Ban Chỉ đạo Đề
án
a) Thành lập Ban Chỉ đạo:
- Trưởng Ban Chỉ đạo: Trung ương
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cử một
đồng chí lãnh đạo Trung ương hội làm
Trưởng ban.
- Thường trực Ban Chỉ đạo: là Ban Tuyên
giáo Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam.
- Các thành viên Ban Chỉ đạo gồm: đại
diện các ban chuyên môn thuộc Trung ương Hội Liên
hiệp Phụ nữ Việt Nam; đại diện các
Bộ, ngành Trung ương có liên quan.
- Tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương:
Ban Chỉ đạo Chương trình hành động phòng,
chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em
từ năm 2004 đến năm 2010 (theo Quyết
định số 130/2004/QĐ-TTg ngày 14 tháng 7 năm 2004
của Thủ tướng Chính phủ), đồng
thời là Ban Chỉ đạo Đề án; Hội Liên
hiệp Phụ nữ tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương là cơ quan Thường trực
giúp Ban Chỉ đạo tổ chức triển khai
thực hiện Đề án ở tại địa phương.
b) Cơ chế hoạt động:
- Ban Chỉ đạo Đề án thực hiện theo
sự chỉ đạo của Ban Chỉ đạo
Chương trình hành động phòng, chống buôn bán phụ
nữ và trẻ em từ năm 2004 đến năm 2010.
- Chịu trách nhiệm đề xuất kế
hoạch, tổ chức thực hiện các hoạt
động sau khi được Ban Chỉ đạo
chương trình phê duyệt.
- Chịu trách tổ chức kiểm tra, giám sát
định kỳ; tổng hợp, báo cáo kết quả
thực hiện Đề án cho Ban quản lý đề án
và Chính phủ.
c) Cơ chế phối hợp:
- Phối hợp với các Đề án trong
Chương trình hành động phòng, chống tội
phạm BBPNTE của Chính phủ thông qua việc lồng
ghép các hoạt động, kiểm tra liên ngành, thực
hiện tốt qui chế hoạt động của ban quản lý các cấp.
+ Phối hợp với Đề án 2 trong việc nâng
cao năng lực cho cộng đồng về nâng cao ý
thức cảnh giác, phòng ngừa BBPNTE; phát hiện, tố
giác tội phạm; tạo dư luận lên án các hành vi
BBPNTE.
+ Phối hợp với Đề án 3 trong hoạt
động lồng ghép truyền thông, tư vấn giúp
ổn định tâm lý, chăm sóc sức khoẻ, hỗ
trợ vốn vay, dạy nghề, tạo việc làm, tái
hoà nhập cộng đồng cho nạn nhân bị buôn bán
trở về; hỗ trợ tăng thu nhập, phát
triển kinh tế cho những đối tượng có
nguy cơ cao.
+ Phối hợp với Đề án 4 trong hoạt động
tuyên truyền, phổ biến nội dung, luật pháp, chính
sách liên quan đến phòng ngừa, đấu tranh tội
phạm BBPNBTE.
d) Công tác phối hợp liên ngành:
- Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em là cơ quan
quản lý nhà nước về dân số, gia đình,
trẻ em, tham mưu cho Chính phủ về xây dựng
luật pháp, chính sách liên quan đến dân số, gia
đình, trẻ em, tổ chức phối hợp liên ngành
thực hiện các chương trình quốc gia về dân
số, gia đình, trẻ em.
Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em phối
hợp với Hội LHPN về truyền thông PCBBPNTE cho
nhóm trẻ em gái vị thành niên, nhóm trẻ em lang thang, nhóm
trẻ em bị buôn bán trở về.
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là
cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực lao
động và các vấn đề xã hội. Với
nhiệm vụ dạy nghề, tạo việc làm, chăm
lo phúc lợi xã hội, thanh tra lao động, Bộ Lao
động - Thương binh
và Xã hội được phân công chủ trì Đề án
"Tiếp nhận, hỗ trợ phụ nữ, trẻ em
bị buôn bán trở về" sẽ phối hợp với
Hội LHPNVN trong lĩnh vực dạy nghề, vay vốn
phát triển sản xuất, tư vấn, giúp PNTE bị
buôn bán trở về ổn định tâm lý, xoá bỏ
mặc cảm, hoà nhập cộng đồng.
- Bộ Công an là cơ quan đầu mối điều
phối các hoạt động của đề án khác
của Chương trình phòng, chống tội phạm buôn
bán phụ nữ trẻ em phối hợp với Hội
LHPNVN trong lĩnh vực truyền thông về âm mưu,
thủ đoạn của bọn tội phạm BBPNTE; phát
hiện và tố giác tội phạm; thực hiện pháp
luật về hỗ trợ PNTE bị buôn bán trở
về.
- Bộ Tư pháp là cơ quan chịu trách nhiệm
Đề án: "Xây dựng và hoàn thiện hệ thống
văn bản pháp luật liên quan đến công tác phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm buôn bán
phụ nữ, trẻ em" phối hợp với Hội
LHPNVN trong lĩnh vực truyền thông về luật pháp,
chính sách liên quan đến phòng, chống buôn bán phụ
nữ, trẻ em.
- Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao: tăng cường chỉ đạo hệ
thống các cơ quan bảo vệ pháp luật, tổ
chức xét xử lưu động tội phạm buôn bán
phụ nữ, trẻ em để phục vụ cho
việc tuyên truyền, giáo dục trong cộng đồng
về phòng chống tội phạm buôn bán phụ nữ,
trẻ em.
- Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng chủ
trì, phối hợp với các ngành liên quan tổ chức
đấu tranh phòng chống tội phạm BBPNTE ở khu
vực biên giới; tiếp nhận và hỗ trợ ban
đầu cho số phụ nữ, trẻ em bị buôn bán
trở về qua biên giới; phối hợp với
Hội LHPNVN truyền thông về PCBBPNTE cho phụ nữ,
trẻ em và người dân các tỉnh biên giới, hải
đảo, phụ nữ người dân tộc thiểu
số.
- Bộ Văn hoá - Thông tin phối hợp với
Hội LHPNVN truyền thông về PCBBPNTE trên các kênh thông tin
đại chúng, chỉ đạo ngành văn hoá thông tin các
cấp dọc phối hợp với Hội phụ nữ
triển khai các hoạt động truyền thông trên kênh
thông tin đại chúng ở cộng đồng.
- Bộ Ngoại giao phối hợp với Hội
phụ nữ trong việc thông tin về quy định pháp
luật nước ngoài liên quan đến việc cư
trú, đi lại, làm việc, kết hôn...; tình hình phụ
nữ, trẻ em Việt Nam bị buôn bán ra nước
ngoài; tuyên truyền về những nỗ lực của
Việt Nam trong quá trình đấu tranh phòng, chống buôn bán
phụ nữ, trẻ em; phối hợp tổ chức các
hoạt động chia sẻ kinh nghiệm PCBBPNTE với
các tổ chức quốc tế, các nước trong và ngoài
khu vực; tiếp nhận những đối
tượng phụ nữ, trẻ em bị buôn bán
được trở về.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo
ngành giáo dục, đặc biệt là các trường PTCS,
THPT phối hợp truyền thông PCBBPNTE trong học sinh,
đặc biệt là học sinh nữ thông qua hoạt
động ngoại khoá.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài
chính bố trí ngân sách, hướng dẫn lập dự
toán kinh phí, nghiên cứu, đề xuất các cấp có
thẩm quyền có biện pháp huy động sự đóng
góp kinh phí từ các nguồn khác nhau để thực
hiện mục tiêu của đề án.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên (Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên
hiệp thanh niên, Hội Cựu chiến binh...) phối
hợp tuyên truyền PCBBPNTE đến các gia đình,
đoàn viên, hội viên của tổ chức, gắn
kết với các phong trào thi đua yêu nước ở
cơ sở.
3. Giám sát, đánh
giá
a) Giám sát:
- Thời gian:
+ Quá trình giám sát được thực hiện khi
đang triển khai các hoạt động.
+ Giám sát định kỳ 3 tháng, 6 tháng, 1 năm.
- Thành phần tham gia:
+ Ban quản lý Đề án Trung ương, Ban quản
lý Đề án các cấp.
+ Cán bộ thực hiện đề án các cấp
+ Các đối tượng hưởng lợi
- Nội dung giám sát:
+ Giám sát tiến độ thực hiện đề án:
giám sát các hoạt động truyền thông PCBBPNTE đã
thực hiện, so sánh với kế hoạch (bao gồm
cả thời gian, chất lượng hoạt
động, sử dụng nguồn lực); giám sát các
kết quả của từng hoạt động.
+ Giám sát hiệu quả hoạt động của
đề án: hiệu quả của hoạt động
truyền thông nâng cao nhận thức về PCBBPNTE; hiệu
quả của xây dựng bộ công cụ truyền thông
PCBBPNTE; hiệu quả đào tạo nâng cao năng lực,
xây dựng màng lưới tuyên truyền viên PCBBPNTE ở
cơ sở; hiệu quả của mô hình PCBBPNTE (mức
độ đạt được mục tiêu, những
vấn đề nảy sinh và giải pháp; những thay
đổi trong nhận thức, hành vi của các nhóm đối
tượng được tác động).
+ Hoạt động giám sát được tiến hành
thông qua: báo cáo định kỳ của ban quản lý
đề án; quyết toán hoạt động; các cuộc
họp ban quản lý đề án; họp thường
kỳ hoặc đột xuất với các nhóm đối
tượng; thăm, kiểm tra tại địa
phương; trao đổi thông tin nhanh( điện
thoại, fax, mail)
+ Báo cáo giám sát của cấp cơ sở: báo cáo
định kỳ 6 tháng, từng năm.
+ Báo cáo giám sát của cấp Trung ương: báo cáo 6
tháng, từng năm.
b) Hoạt động đánh giá:
- Đánh giá đầu kỳ: trước khi thực
hiện hoạt động tuyên truyền, giáo dục cộng đồng về
truyền thông PCBBPNTE sẽ tổ chức đánh giá nhanh
nhận thức của cộng đồng để có cơ
sở xây dựng kế hoạch, nội dung truyền thông
phù hợp với các nhóm đối tượng PNTE và có
cơ sở so sánh đánh giá hiệu quả của công tác
tuyên truyền, giáo dục PCBBPNTE sau từng năm và sau
từng giai đoạn. Phương pháp đánh giá là
phương pháp đánh giá nhanh có sự tham gia của
cộng đồng (PRA), khảo sát, điều tra xã
hội học.
- Hoạt động đánh giá giữa kỳ: hoạt
động này sẽ được thực hiện
năm 2007 nhằm đánh giá về tiến độ,
hiệu quả của đề án giai đoạn 1
(mức độ đạt được so với mục tiêu về
nhận thức, nâng cao năng lực, hiệu quả
bộ công cụ truyền thông và mô hình PCBBPNTE; bài học
kinh nghiệm về truyền thông PCBBPNTE ở cộng
đồng; xây dựng kế hoạch thực hiện hoạt
động của đề án giai đoạn 2.
- Đánh giá cuối kỳ: hoạt động này
dự kiến sẽ thực hiện vào năm 2009, ngoài
việc đánh giá tiến độ, hiệu quả
đề án, còn tập trung đánh giá hiệu suất
việc sử dụng nguồn lực cho các hoạt
động truyền thông nâng cao nhận thức PCBBPNTE, cho tài liệu
truyền thông, cho hoạt động đào tạo
giảng viên, tuyên truyền viên cơ sở PCBBPNTE; đánh
giá ảnh hưởng và tác động của đề
án truyền thông PCBBPNTE; Những bài học kinh nghiệm và
kế hoạch duy trì tính bền vững của đề án thông qua việc
lồng ghép các hoạt động truyền thông về
PCBBPNTE với các chương trình, dự án thực
hiện chương trình hành động phòng, chống buôn
bán phụ nữ, trẻ em của Chính phủ và các
chương trình dự án khác có liên quan đến bảo
vệ phụ nữ, trẻ em.
Ngoài ra có thể có đánh giá đột xuất theo yêu
cầu của ban chỉ đạo các cấp, và của
các bên liên quan.
V. HIỆU
QUẢ VÀ TÍNH BỀN VỮNG CỦA ĐỀ ÁN
1. Tính hiệu
quả
Đề án tuyên truyền, giáo dục về PCBBPNTE
được thực hiện có hiệu quả, sẽ
góp phần: phòng ngừa, ngăn chặn tiến tới
hạn chế tình trạng phụ nữ, trẻ em bị
buôn bán, bảo vệ hạnh phúc gia đình; góp phần
bảo vệ, tăng cường nguồn nhân lực cho
đất nước, đảm bảo trật tự an
toàn xã hội, an ninh quốc gia, phòng, chống tệ
nạn xã hội. Ngăn ngừa, PCBBPNTE cũng chính là thúc
đẩy bình đẳng giới, thực hiện
quyền phụ nữ, quyền trẻ em. Đồng
thời hạn chế những chi phí trong việc hỗ
trợ cho các nạn nhân tái hoà nhập cộng đồng
cũng như công tác đấu tranh chống tội
phạm BBPNTE.
2. Tính bền
vững
Đề án tuyên truyền, giáo dục trong cộng
đồng về phòng,
chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em
từ năm 2005 đến năm 2010 có tính bền
vững cao vì: những người tham gia vào đề án
là những cán bộ hội phụ nữ, cán bộ các ban,
ngành đoàn thể, các tổ chức chính trị xã hội
- là những người nhiệt tình, tâm huyết, có trách
nhiệm và kinh nghiệm trong việc tổ chức
thực hiện các hoạt động truyền thông,
vận động thu hút sự tham gia ở cộng
đồng. Đây là điều hết sức quan
trọng, những cán bộ này được tăng
cường năng lực, sẽ lồng ghép
được các hoạt động truyền thông về
PCBBPNTE vào các chương trình dự án khác đang thực
hiện ở địa phương, do đó đến
năm 2010 khi đề án kết thúc, hoạt động
truyền thông của đề án vẫn tiếp tục
được duy trì và có khả năng mở rộng sang
những tỉnh khác.Tổ chức Hội phụ nữ có
hệ thống được duy trì tại cộng
đồng là một lợi thế cho việc tiếp
tục truyền thông về PCBBPNTE. Các hoạt động
tuyên truyền, giáo dục của đề án sẽ
được lồng ghép vào các chương trình, dự
án về phòng, chống tệ nạn xã hội, ma tuý,
mại dâm, phòng, chống tội phạm, tổ phụ
nữ tín dụng tiết kiệm cho phụ nữ nghèo, và
gắn với chương trình "Xây dựng gia đình no
ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc";
Bộ công cụ truyền thông về PCBBPNTE sẽ
được tiếp tục sử dụng lồng ghép
với các chương trình dự án có liên quan đến
quyền phụ nữ, quyền trẻ em và các nội dung,
chương trình công tác của Hội phụ nữ.
VI. KINH PHÍ
HOẠT ĐỘNG
Kính phí thực hiện Đề án gồm:
- Ngân sách trung ương; hàng năm Chính phủ dành
một khoản kinh phí để thực hiện
Đề án trong Chương trình hành động phòng,
chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em;
- Ngân sách địa phương, hàng năm các
địa phương phải cân đối bố trí
một khoản ngân sách cho hoạt động tuyên truyền
giáo dục trong cộng đồng về phòng, chống
tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em.
- Tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong
nước và ngoài nước.
CHƯƠNG TRÌNH
HÀNH ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM
BUÔN BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM TỪ NĂM 2005 ĐẾN
NĂM 2010
CỦA CHÍNH PHỦ
ĐỀ ÁN
XÂY DỰNG VÀ
HOÀN THIỆN HỆ THỐNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT
LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC PHÒNG NGỪA, ĐẤU TRANH
CHỐNG
TỘI PHẠM BUÔN BÁN PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM GIAI
ĐOẠN 2005 - 2010
PHẦN THỨ
NHẤT
SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
I. THỰC
TRẠNG HỆ THỐNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ NGĂN
NGỪA, ĐẤU TRANH CHỐNG BUÔN BÁN PHỤ NỮ,
TRẺ EM,
NHỮNG HẠN CHẾ, BẤT CẬP VÀ NHU CẦU HOÀN
THIỆN
Buôn bán phụ nữ và trẻ em đang là một thách
thức không chỉ đối với các nước
đang phát triển, trong đó có Việt Nam mà đã
trở thành một vấn đề nạn mang tính toàn
cầu, thu hút sự quan tâm đặc biệt của các
quốc gia, các tổ chức quốc tế, tổ
chức phi chính phủ và những người có
lương tri trên toàn thế giới. Trong nhiều
giải pháp nhằm chống lại nạn buôn bán phụ
nữ và trẻ em thì các vấn đề liên quan
đến hệ thống pháp luật luôn là một trong
những vấn đề được đặt lên
hàng đầu. Trong những năm gần đây,
để tăng cường đấu tranh có hiệu quả
với nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em, Đảng
và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách và văn
bản pháp luật nhằm phòng ngừa, ngăn chặn,
trừng trị các tội phạm này. Chúng ta đã xây
dựng được một khung pháp luật nhằm
bảo vệ quyền con người nói chung và quyền
của phụ nữ và trẻ em nói riêng. Hiến pháp nghiêm
cấm mọi hành vi phân biệt đối xử, xúc
phạm danh dự, nhân phẩm con người, đặc
biệt là phụ nữ và trẻ em. Các văn bản pháp
luật đã được xây dựng và từng
bước hoàn thiện, tạo cơ sở pháp lý cho
việc xử lý mọi hành vi lạm dụng tình dục,
vi phạm quyền của phụ nữ và trẻ em, buôn
bán phụ nữ, trẻ em. Mặc dù không có một
đạo luật riêng về chống buôn bán phụ nữ
và trẻ em nhưng nhiều văn bản pháp luật
của chúng ta đã hàm chứa các quy định về
vấn đề này như Bộ luật Hình sự, Pháp
lệnh Xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh Phòng
chống mại dâm, Pháp lệnh Xuất cảnh, nhập
cảnh, Luật Hôn nhân và gia đình và hàng loạt văn
bản có liên quan dưới giác độ phòng ngừa,
ngăn chặn, trừng trị nghiêm khắc tội
phạm mua bán phụ nữ, trẻ em cũng như
bảo vệ, hỗ trợ, giúp đỡ nạn nhân tái
hòa nhập cộng đồng.
Tuy nhiên, trước diễn biến có chiều
hướng ngày càng phức tạp, nghiêm trọng và có xu
hướng gia tăng của loại tội phạm này,
hệ thống văn bản pháp luật về phòng,
chống buôn bán phụ nữ, trẻ em đã bộc
lộ một số bất cập, thiếu sót, làm hạn
chế hiệu quả của công tác phòng, chống loại
tội phạm này. Có thể nêu một số hạn
chế, bất cập sau đây:
1. Về các quy
định liên quan đến việc điều tra, truy
tố, xét xử các hành vi buôn bán phụ nữ, trẻ em:
Bộ luật Hình sự Việt Nam được
sửa đổi, bổ sung năm 1999 và các văn bản
hướng dẫn thi hành đã quy định một cách
tương đối toàn diện, cụ thể phần lớn các tội phạm
thường xảy ra trong quá trình buôn bán phụ nữ,
trẻ em. Bên cạnh việc
quy định tội mua bán phụ nữ (Điều 119)
và tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt
trẻ em (Điều 120), Bộ luật Hình sự còn quy
định các tội danh có thể được áp
dụng để trừng trị những hành vi tiếp
tay, hỗ trợ cho các hoạt động buôn bán phụ
nữ, trẻ em. Tuy nhiên, trong điều kiện mở
cửa và hội nhập, mở rộng hợp tác kinh tế
quốc tế, các hành vi tội phạm ngày càng trở nên
đa dạng, tinh vi, xảo quyệt hơn, chưa
được đề cập kịp thời; mặt
khác, cũng còn những hành vi như buôn bán nam giới; các
tội phạm liên quan đến cưỡng bức lao
động, các tội phạm liên quan đến việc
cho, nhận nuôi con nuôi trái pháp luật v.v.... chưa
được quy định trong pháp luật hình sự
cần được nghiên cứu, sửa đổi,
bổ sung. Bộ luật Tố tụng hình sự
được sửa đổi năm 2003 đã bổ
sung nhiều quy định mới, quy định cụ
thể về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành
tố tụng trong việc bảo vệ người
bị hại, nhân chứng và những người tham gia
tố tụng khác, quyền của nhân chứng được
yêu cầu bảo vệ, việc bảo vệ nhân
chứng tại phiên toà, là một tiến bộ của
pháp luật tố tụng hình sự nước ta, tuy
nhiên, những quy định về bảo vệ nạn
nhân và nhân chứng đa phần mới chỉ dừng
ở mức nguyên tắc, chưa cụ thể, do vậy,
các quy định liên quan đến pháp luật tố
tụng hình sự vẫn cần tiếp tục
được nghiên cứu, hoàn thiện để giúp
cơ quan điều tra khắc phục được
điều khó khăn lớn nhất hiện nay là phát
hiện, thu thập chứng cứ để xác minh, làm rõ
tình tiết của vụ án buôn bán phụ nữ, trẻ
em, tạo thuận lợi cho việc truy tố, xử lý
nghiêm minh các vụ án buôn bán phụ nữ, trẻ em,
bảo vệ nhân chứng, người bị hại.
Pháp luật xử lý vi phạm hành chính, pháp luật dân
sự cũng đã có các quy định xử lý những
hành vi liên quan đến buôn bán phụ nữ, trẻ em
chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình
sự và bồi thường thiệt hại những
tổn thất cho nạn nhân của tội phạm này,
song một số quy định còn chung chung, chưa có
hướng dẫn cụ thể hoặc đã lạc
hậu, không phù hợp. Đây cũng là vấn đề
cần thiết phải được nghiên cứu,
sửa đổi để nâng cao tính hiệu quả
của các chế tài hành chính, dân sự đối với
các hành vi liên quan đến buôn bán phụ nữ, trẻ em.
2. Về các quy
định của pháp luật liên quan đến vấn
đề hồi hương và tái hòa nhập cộng
đồng các nạn nhân bị buôn bán:
Hiện nay chúng ta chưa có những quy định riêng
biệt về thủ tục hồi hương các nạn
nhân bị buôn bán. Thay vào đó, mới chỉ có một
văn bản pháp lý quy định về việc hồi hương
công dân Việt Nam xuất cảnh trái phép không
được nước ngoài cho cư trú là Chỉ
thị số 747-TTg ngày 15 tháng 11 năm 1995 của Thủ
tướng Chính phủ. Tuy nhiên, các quy định về
việc hồi hương theo Chỉ thị này hết
sức "chặt" về đối tượng và
thủ tục, lại áp dụng chung cho việc hồi
hương người Việt Nam xuất cảnh trái phép
không được nước ngoài cho cư trú, nghĩa là
bao gồm cả việc hồi hương đối
tượng người di cư trái phép. Do vậy, các quy
định này chưa thực sự phù hợp đối
với việc hồi hương nạn nhân bị buôn bán
và hầu như không được áp dụng cho việc
hồi hương nạn nhân. Trên thực tế, việc
hồi hương nạn nhân thường được
thực hiện thông qua những trao đổi, thoả
thuận về từng vụ việc cụ thể
với các nước có liên quan mà chưa có cơ sở
pháp lý toàn diện cho vấn đề này. Do vậy,
việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp
luật về hồi hương nạn nhân bị buôn bán
là yếu tố không thể thiếu trong việc hoàn
thiện pháp luật chống buôn bán phụ nữ, trẻ
em.
Việc tái hòa nhập cộng đồng các nạn nhân
bị buôn bán cũng đã được đề
cập đến trong một số văn bản pháp
luật hiện hành như Luật Bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em, Luật Bảo vệ sức
khoẻ nhân dân, Chỉ thị số 766/TTg của Thủ
tướng Chính phủ ngày 17 tháng 9 năm 1997 về phân
công trách nhiệm thực hiện các biện pháp ngăn
chặn việc đưa trái phép phụ nữ, trẻ em
ra nước ngoài, Quyết định số
19/2004/QĐ-TTg ngày 12 tháng 02 năm 2004 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt
Chương trình ngăn ngừa và giải quyết tình
trạng trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm phạm tình
dục và trẻ em phải lao động nặng nhọc,
trong điều kiện độc hại, nguy hiểm giai
đoạn 2004 - 2010 v.v... Tuy nhiên, pháp luật hiện hành
chưa có một văn bản hoặc một hệ
thống văn bản toàn diện về lĩnh vực này
mà mới quy định lẻ tẻ, rải rác hoặc
lồng ghép trong một số văn bản về các
lĩnh vực khác, các quy định hiện hành cũng
mới chỉ đề cập một cách gián tiếp
vấn đề tái hòa nhập cộng đồng cho
nạn nhân bị buôn bán hoặc dừng lại ở
chủ trương, chính sách, còn thiếu cụ thể
v.v... Do vậy, việc xây dựng và hoàn thiện các văn
bản pháp luật về tái hòa nhập cộng
đồng cho nạn nhân bị buôn bán là một yêu cầu
bức thiết trong việc
hoàn thiện pháp luật chống buôn bán phụ nữ, trẻ
em.
3. Các quy
định của pháp luật
về phòng ngừa buôn bán phụ nữ và trẻ em:
Về các quy định của pháp luật nhằm
bảo vệ các quyền con người và phòng ngừa
sự phát sinh, phát triển các nguyên nhân và điều
kiện dẫn đến tệ buôn bán phụ nữ và
trẻ em, có thể nói, nhìn chung, chúng ta đã có một khung
pháp luật tương đối đầy đủ
về vấn đề này. Các quy định của pháp
luật từ Hiến pháp, Luật Hôn nhân gia đình,
Bộ luật Lao động, Luật Giáo dục, Luật
Bảo vệ sức khoẻ nhân dân... đã quy định
một cách toàn diện trong việc bảo đảm
quyền bình đẳng và không phân biệt đối
xử, quyền được học tập,
hưởng thụ văn hóa v.v... của mọi công dân; quyền và nghĩa vụ của
vợ chồng, nghĩa vụ của cha mẹ trong
việc giáo dục và nuôi dưỡng con cái, quy định
chặt chẽ về cho nhận con nuôi… nhằm bảo
vệ các quyền của con người nói chung, của
phụ nữ và trẻ em nói riêng. Tuy nhiên, một số quy
định vẫn còn chung, thiếu cơ chế bảo
đảm thực hiện, cần thiết phải
được bổ sung, cụ thể hóa; bên cạnh
đó, vẫn còn một số kẽ hở, thiếu sót
trong một số lĩnh vực pháp luật cần
khắc phục như lĩnh vực kết hôn với
người nước ngoài, cho nhận con nuôi
người nước ngoài, sử dụng lao
động, xuất khẩu lao động v.v... để
ngăn ngừa các nguyên nhân, hoàn cảnh, điều
kiện dẫn đến tệ nạn buôn bán
người.
4. Về các quy định của pháp luật liên quan
đến hợp tác quốc tế và khu vực trong
đấu tranh chống buôn bán người:
Do tính chất "xuyên quốc gia" của tội buôn bán
phụ nữ và trẻ em,
việc truy cứu trách nhiệm đối với bọn
tội phạm không thể tiến hành được
nếu chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ
của một quốc gia mà cần phải có sự
hợp tác song phương và đa phương giữa các
cơ quan chức năng của các quốc gia hữu quan.
Chính vì vậy, vấn đề hợp tác quốc tế
trong đấu tranh phòng, chống tệ nạn buôn bán
phụ nữ, trẻ em là hết sức quan trọng.
Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định,
thoả thuận, ghi nhớ song phương, đa
phương về vấn đề này… Tuy nhiên, cũng
cần tiếp tục nghiên cứu, đàm phán để
mở rộng phạm vi hợp tác, ký kết với các
nước, đặc biệt là các nước trong khu
vực sông Mêkông. Các thỏa thuận này nên có những cam
kết về hợp tác trong việc trao đổi thông
tin, thu thập chứng cứ, lời khai, dẫn
độ, chuyển giao tài liệu cũng như tiến
hành các hoạt động truy tìm, tạm giữ và phong
tỏa tài sản… để tạo cơ sở pháp lý
hữu hiệu hơn trong lĩnh vực hợp tác
quốc tế đấu tranh chống buôn bán người.
II. CĂN CỨ
PHÁP LÝ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN
Đề án được xây dựng trên cơ sở
các căn cứ pháp lý sau:
- Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước đối với việc bảo vệ
quyền con người, quyền của phụ nữ và
trẻ em được thể chế hóa trong Hiến
pháp, Luật Hôn nhân gia đình, Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em, Bộ luật Hình sự
và nhiều văn bản pháp luật khác.
- Nhà nước Việt Nam đã phê chuẩn nhiều
Công ước quốc tế như Công ước loại
trừ mọi hình thức phân biệt đối xử
với phụ nữ (CEDAW), Công ước quyền trẻ
em, Công ước 182 về xóa bỏ ngay các hình thức lao
động trẻ em tồi tệ nhất và nhiều
văn kiện pháp lý quan trọng khác liên quan đến
bảo vệ quyền con người, quyền của
phụ nữ và trẻ em.
- Ngày 14 tháng 7 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 130/QĐ-TTg phê
duyệt Chương trình hành động phòng, chống
tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ
năm 2004 đến năm 2010, trong đó xác định
công tác "xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy
phạm pháp luật có liên quan về phòng, chống buôn bán phụ
nữ, trẻ em" là một trong những nội dung chủ
yếu của Chương trình. Đề án "xây dựng và
hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật liên
quan đến công tác phòng ngừa, đấu tranh chống
tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em" là một
trong 4 Đề án lớn của Chương trình hành
động đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt. Đây là cơ sở pháp lý quan
trọng cho việc xây dựng và thực hiện
Đề án.
PHẦN THỨ
HAI
NỘI DUNG ĐỀ ÁN
I. MỤC TIÊU
CỦA ĐỀ ÁN
1. Mục tiêu tổng quát: hoàn thiện hệ thống
pháp luật về ngăn chặn, phòng ngừa, đấu
tranh chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ
em, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các công
cụ pháp lý đấu tranh chống tội phạm buôn bán
phụ nữ, trẻ em.
2. Mục tiêu cụ thể:
a) Rà soát, đánh giá hệ thống pháp luật hiện
hành liên quan đến công tác phòng ngừa, đấu tranh
chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em,
phát hiện những hạn chế, bất cập và
kiến nghị hướng hoàn thiện.
b) Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các văn
bản pháp luật liên quan đến công tác ngăn
chặn, phòng ngừa, đấu tranh chống tội
phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em nhằm tăng
cường khung pháp lý đấu tranh có hiệu quả
nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em.
c) Nghiên cứu, so sánh pháp luật quốc tế
để kiến nghị ký kết, gia nhập một
số điều ước quốc tế có liên quan.
II. CÁC HOẠT
ĐỘNG CHỦ YẾU CỦA ĐỂ ÁN
1. Hoạt động 1: rà soát, đánh giá hệ
thống văn bản pháp luật hiện hành về phòng
ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống buôn bán
phụ nữ, trẻ em:
a) Nội dung:
Rà soát, đánh giá hệ thống pháp luật hiện hành
về phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em trên các
phương diện: tính hợp hiến, hợp pháp, tính
đầy đủ, đồng bộ, khả thi và
hiệu quả của các quy định pháp luật
hiện hành trong việc đấu tranh chống buôn bán
phụ nữ, trẻ em cũng như tính tương thích của các quy
định hiện hành với các văn kiện quốc
tế mà Việt Nam đã ký kết và gia nhập; phát
hiện những điểm hạn chế, bất cập
trong hệ thống pháp luật và kiến nghị
hướng hoàn thiện.
b) Phạm vi rà soát, đánh giá:
Phạm vi rà soát, đánh giá là các văn bản quy
định chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng, các văn bản pháp luật
hiện hành của Nhà nước (bao gồm luật, pháp
lệnh, nghị quyết, quyết định, nghị
định, chỉ thị, thông tư), các điều
ước quốc tế song phương và đa phương
mà Việt Nam đã ký kết và gia nhập liên quan
đến ngăn chặn, phòng ngừa, đấu tranh
chống buôn bán phụ nữ, trẻ em, tập trung vào
bốn lĩnh vực sau đây:
- Điều tra, truy tố, xét xử tội phạm
buôn bán phụ nữ, trẻ em;
- Bảo vệ, hồi hương và tái hòa nhập
cộng đồng nạn nhân bị buôn bán;
- Phòng ngừa buôn bán phụ nữ và trẻ em;
- Hợp tác quốc tế và khu vực về chống
buôn bán phụ nữ, trẻ em.
c) Kết quả đầu ra:
- Một Báo cáo đánh giá hệ thống pháp luật
hiện hành về ngăn chặn, phòng ngừa, đấu
tranh chống buôn bán phụ nữ, trẻ em, những
hạn chế, bất cập và kiến nghị
hướng hoàn thiện;
- Một cuốn hệ thống hóa văn bản pháp
luật hiện hành về ngăn chặn, phòng ngừa,
đấu tranh chống buôn bán phụ nữ, trẻ em làm
cẩm nang, phục vụ hoạt động của các
cán bộ nghiên cứu, thực thi pháp luật về
vấn đề này.
2. Hoạt động 2: khảo sát thực tiễn thi
hành pháp luật về phòng ngừa, đấu tranh
chống buôn bán phụ nữ,
trẻ em.
a) Nội dung:
- Tổ chức các đoàn khảo sát liên ngành của các
cơ quan xây dựng và thực thi pháp luật về
chống buôn bán phụ nữ và trẻ em để đánh
giá tình hình áp dụng và thi hành pháp luật về phòng,
chống buôn bán phụ nữ, trẻ em trong bốn lĩnh
vực chủ yếu là: điều tra, truy tố, xét
xử tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em;
bảo vệ, hồi hương và tái hòa nhập cộng
đồng nạn nhân bị buôn bán; phòng ngừa buôn bán phụ nữ
và trẻ em; hợp tác quốc tế và khu vực về
phòng chống buôn bán phụ nữ, trẻ em. Phát hiện
những quy định của pháp luật chưa phù
hợp, không khả thi, chưa chặt chẽ, thiếu rõ
ràng, mâu thuẫn, chồng chéo làm cản trở việc áp
dụng và thi hành trong thực tiễn, những vấn
đề chưa được pháp luật điều
chỉnh;
- Trên cơ sở kết quả khảo sát, kiến
nghị hướng hoàn thiện các quy định pháp
luật nhằm tăng cường tính hiệu quả
của các quy định pháp luật hiện hành về
phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em.
b) Phạm vi, phương pháp khảo sát:
- Phạm vi:
+ Một số địa phương trong cả 3 khu
vực : miền Bắc, miền Trung và miền Nam, ưu
tiên cho việc khảo sát tại các địa bàn trọng
điểm diễn ra hoạt động buôn bán
người như một số địa bàn là nơi
tuyển mộ, trung chuyển và chuyển giao phụ
nữ, trẻ em bị buôn bán;
+ Một số cơ quan, tổ chức tiến hành các
công việc dễ bị lợi dụng để buôn bán
phụ nữ, trẻ em;
+ Một số cơ quan điều tra, Viện
Kiểm sát, Toà án;
+ Một số cơ sở dịch vụ cho nạn
nhân bị buôn bán.
- Phương pháp:
+ Khảo sát trực tiếp;
+ Khảo sát thông qua bảng hỏi, phiếu
điều tra xã hội học.
c) Kết quả
đầu ra:
Một Báo cáo kết quả khảo sát bao gồm các
đánh giá, nhận xét và kiến nghị liên quan đến
hoàn thiện hệ thống pháp luật chống buôn bán
phụ nữ, trẻ em
3. Hoạt động 3: tổ chức Hội thảo
về hoàn thiện pháp luật về phòng, chống buôn bán
phụ nữ, trẻ em
a) Nội dung:
- Chia sẻ kết quả rà soát hệ thống pháp
luật hiện hành và khảo sát thực tiễn thi hành
pháp luật về phòng, chống buôn bán phụ nữ,
trẻ em;
- Đề xuất, thảo luận về những
kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật về phòng, chống buôn bán phụ
nữ, trẻ em.
b) Thành phần tham dự:
- Đại diện của các Bộ, ngành hữu quan
như Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao,
Toà án nhân dân tối cao, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư
pháp, Tổng cục Hải quan, Bộ Ngoại giao, Bộ
Tư pháp, Ban Nội chính Trung ương, Văn phòng Chính
phủ, Văn phòng Quốc hội, Hội Liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam, Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội, Ủy ban Dân số, Gia đình
và Trẻ em, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, Ủy ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam v.v...
- Một số cán bộ, chiến sĩ trực
tiếp làm nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống
buôn bán phụ nữ, trẻ em thuộc các lực
lượng công an, bộ đội biên phòng, cảnh sát
biển, cán bộ tư pháp trung ương và địa
phương v.v...
c) Quy mô Hội thảo:
Hai hội thảo ở hai miền Bắc và Nam trên quy
mô toàn quốc.
d) Kết quả
đầu ra:
- Báo cáo kết quả Hội thảo;
- Danh mục văn bản, những vấn đề
thuộc chủ trương, chính sách cần được sửa
đổi, bổ sung, huỷ bỏ, ban hành mới
nhằm tăng cường hiệu quả phòng, chống
buôn bán phụ nữ, trẻ em.
4. Hoạt động 4: sửa đổi, bổ sung,
ban hành mới các văn bản pháp luật nhằm tăng
cường có hiệu quả việc ngăn chặn, phòng
ngừa, đấu tranh chống buôn bán phụ nữ,
trẻ em:
Trên cơ sở các hoạt động (1), (2), (3) nêu trên
và các kết quả nghiên cứu, tổng kết thi hành pháp
luật có liên quan, tiến hành
xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền sửa
đổi, bổ sung, ban hành mới các văn bản pháp
luật nhằm tăng cường có hiệu quả
việc ngăn chặn, phòng ngừa, đấu tranh
chống buôn bán phụ nữ, trẻ em theo 4 nội dung
sau:
a) Tăng cường hoàn thiện các quy định
về điều tra, truy tố, xét xử các hành vi liên quan
đến buôn bán phụ nữ, trẻ em:
- Nghiên cứu, bổ sung, hình sự hóa các hành vi liên quan
đến buôn bán phụ nữ, trẻ em cần thiết
xử lý bằng biện pháp hình sự mà Bộ luật
Hình sự hiện hành chưa đề cập tới,
bổ sung các tình tiết tăng nặng định khung
nhằm xử lý nghiêm minh các hành vi liên quan đến
tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em, nghiên
cứu, đưa ra giải thích thống nhất về
khái niệm buôn bán phụ nữ, trẻ em;
- Ban hành các văn bản hướng dẫn, quy
định chi tiết thi hành Bộ luật Tố tụng
hình sự liên quan đến việc điều tra, truy
tố, xét xử tội phạm nói chung và tội buôn bán
phụ nữ, trẻ em nói riêng, trong đó bao gồm Thông
tư liên ngành giữa Bộ Công an - Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao hướng dẫn việc tiếp nhận,
xử lý tin báo, tố giác về tội phạm, Thông tư
liên ngành giữa Bộ Công an - Tòa án nhân dân tối cao,
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn
bảo vệ người làm chứng, người tố
giác tội phạm, người bị hại và các văn
bản có liên quan khác, trong đó chú trọng đến
việc hướng dẫn các vấn đề liên quan
đến tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em;
- Sửa đổi, bổ sung, cụ thể hóa các quy
định về xử lý hành chính, bồi thường
dân sự liên quan đến hành vi buôn bán phụ nữ,
trẻ em nhằm tăng cường tính hiệu quả
của các chế tài hành chính, dân sự đối với
việc xử lý các hành vi này, trong đó, chú trọng
đến việc sửa đổi, bổ sung các quy
định về xử lý hành chính đối với các
hành vi xuất nhập cảnh trái phép, sử dụng lao
động người chưa thành niên trái pháp luật
hoặc môi giới, tổ chức cho người Việt
Nam đi lao động tại nước ngoài trái phép …
trong các Nghị định hiện hành của Chính phủ,
xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định
về xử phạt hành chính trong lĩnh vực dân số,
gia đình và trẻ em, Nghị định về xử
phạt hành chính trong lĩnh vực tư pháp, trong đó chú
trọng đến tính hiệu quả của các chế
tài xử lý hành chính đối với các hành vi vi phạm
các quy định pháp luật về bảo vệ quyền
trẻ em, dẫn dắt, ép buộc trẻ em mại dâm,
môi giới kết hôn, cho, nhận con nuôi có yếu tố
nước ngoài trái pháp luật v.v... nhằm ngăn
chặn, loại trừ những hành vi dễ dẫn
đến buôn bán người và xử lý nghiêm minh những
hành vi xâm hại quyền phụ nữ, trẻ em.
b) Sửa đổi, bổ sung, xây dựng, ban hành
mới các văn bản pháp luật, tạo khung pháp lý
đồng bộ cho việc hồi hương và tái hòa
nhập cộng đồng thành công các nạn nhân bị
buôn bán:
- Xây dựng và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành
văn bản pháp
luật (cấp Chính phủ hoặc Thủ
tướng Chính phủ) quy định trình tự, thủ
tục hồi hương các nạn nhân bị buôn bán thay
thế Chỉ thị số 747/CT-TTg ngày 15 tháng 11 năm
1995 của Thủ tướng Chính phủ;
- Xây dựng, ban hành các chính sách, chế độ hỗ
trợ phụ nữ và trẻ em là nạn nhân bị buôn
bán trở về trong thời gian ở tại các cơ
sở tiếp nhận như chế độ ăn,
ở, chữa trị, đi lại, trở về
địa phương nơi đối tượng
cư trú, các chính sách, chế độ hỗ trợ cho
phụ nữ và trẻ em là nạn nhân trở về trong
việc học nghề, vay vốn, tạo việc làm,
hỗ trợ đất đai canh tác… (văn bản
cấp Thủ tướng Chính phủ hoặc cấp
Bộ, ngành);
- Sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp
luật hiện hành nhằm tháo gỡ các khó khăn
vướng mắc về các thủ tục pháp lý như
nhập hộ khẩu, làm giấy khai sinh… cho phụ
nữ, trẻ em bị buôn bán khi trở về địa
phương.
c) Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy
định của pháp luật về ngăn ngừa buôn
bán phụ nữ và trẻ em:
- Sửa đổi, bổ sung, khắc phục
những kẽ hở, thiếu sót của các quy
định pháp luật hiện hành liên quan đến
lĩnh vực kết hôn với người nước
ngoài, cho, nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài quy
định trong Nghị định số 68/2002/NĐ-CP
ngày 10 tháng 7 năm 2002 của quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia
đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu
tố nước ngoài, Thông tư số 07/2002/TT-BTP ngày 16
tháng 12 năm 2002 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành
Nghị định số 68/2002/NĐ-CP;
- Ban hành văn bản (Thông tư/Thông tư liên tịch)
hướng dẫn và tổ chức thực hiện
Chỉ thị số 03/2005/CT-TTg ngày 25 tháng 02 năm 2005
về tăng cường quản lý hôn nhân, gia đình có
yếu tố nước ngoài;
- Nghiên cứu, hoàn thiện các văn bản có liên quan
trong lĩnh vực dân sự, lao động, y tế, giáo
dục, xóa đói, giảm nghèo, trợ cấp xã hội…
nhằm tăng cường bảo đảm hơn
nữa các quyền phụ nữ, trẻ em.
5. Hoạt động 5: nghiên cứu, cập nhật
thông tin về pháp luật quốc tế trong lĩnh
vực đấu tranh phòng, chống buôn bán phụ nữ,
trẻ em, đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu,
đề xuất ký kết và phê chuẩn hoặc gia
nhập các Hiệp định, Thoả thuận, Công
ước quốc tế có liên quan đến chống
tội phạm và buôn bán người:
- Thiết lập hệ thống thông tin về pháp
luật quốc tế và tiến trình nghiên cứu, đàm
phán, ký kết các điều ước quốc tế song
phương và đa phương phục vụ việc
nghiên cứu, ký kết và phê chuẩn hoặc gia nhập các
Hiệp định, Thoả thuận, Công ước
quốc tế có liên quan đến chống tội
phạm và buôn bán người;
- Tiếp tục nghiên cứu, đàm phán để
tăng cường phê chuẩn, ký kết các công
ước, nghị định thư, các thỏa thuận
song phương và đa phương về chống
tội phạm buôn bán người với các nước
trên thế giới, đặc biệt là với các
nước trong khu vực sông Mêkông, các nước có chung
đường biên giới thông qua một cơ quan
đầu mối (Bộ Công an) nhằm điều hành và đẩy
nhanh tiến độ của các hoạt động
hợp tác.
- Đẩy nhanh tiến độ phê chuẩn Công
ước của Liên hợp quốc về chống
tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, nghiên
cứu, ký kết Nghị định thư bổ sung Công
ước về phòng ngừa, trấn áp và trừng
trị buôn bán người, đặc biệt là phụ
nữ và trẻ em.
III. HIỆU
QUẢ CỦA ĐỀ ÁN
1. Đề án này tập trung vào việc xây dựng và
hoàn thiện các văn bản pháp luật về chống
buôn bán người sẽ góp phần hoàn thiện từng
bước hệ thống văn bản pháp luật
về ngăn ngừa, đấu tranh chống buôn bán
phụ nữ, trẻ em từ nay đến năm 2010,
tăng cường tính hiệu quả của các công
cụ pháp lý trong việc ngăn ngừa, điều tra,
truy tố, xét xử tội phạm buôn bán phụ nữ và
trẻ em, bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân của
tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em, tạo
cơ sở pháp lý đồng bộ cho việc đấu
tranh chống buôn bán phụ nữ, trẻ em.
2. Đề án được thực hiện cũng
sẽ làm tăng cường tính phù hợp và hài hòa của
hệ thống pháp luật Việt Nam với pháp luật
quốc tế và khu vực trong việc đấu tranh
chống buôn bán người, góp phần đẩy nhanh
tiến độ phê chuẩn Công ước của Liên
hợp quốc về chống tội phạm có tổ
chức xuyên quốc gia (TOC) và ký kết Nghị
định thư bổ sung Công ước về phòng
ngừa, trấn áp và trừng trị buôn bán người,
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em cũng
như tăng cường ký kết các Hiệp
định, thoả thuận song phương, đa
phương với các nước trên thế giới và
trong khu vực về vấn đề này, tăng
cường tính hiệu quả của việc hợp tác quốc
tế trong việc đấu tranh chống buôn bán
người.
IV. THỜI GIAN,
TIẾN ĐỘ VÀ KINH PHÍ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Thời gian,
tiến độ thực hiện Đề án:
Thời gian thực hiện Đề án từ 2005 - 2010
chia thành 2 giai đoạn:
a) Giai đoạn 1: từ 2005 - 2007:
- Thực hiện các hoạt động 1, 2, 3 trong
Đề án;
- Thực hiện một số nội dung cụ
thể thuộc hoạt động 4 và hoạt
động 5 (sẽ xây dựng kế hoạch cụ
thể riêng).
b) Giai đoạn 2: từ 2008 - 2010:
- Tiếp tục thực hiện hoạt động 4
và hoạt động 5;
- Đánh giá thực hiện Đề án.
2. Kinh phí thực hiện Đề án:
Kinh phí thực hiện Đề án được
lấy từ nguồn ngân sách trung ương, hàng năm
Chính phủ dành một khoản kinh phí để thực
hiện Đề án, hỗ trợ có mục tiêu cho các
hoạt động cụ thể của Đề án theo
dự toán kinh phí thực hiện Đề án hàng năm do
Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Tư pháp và các
Bộ, ngành có liên quan xây dựng, trình Chính phủ phê
duyệt.
V. TỔ
CHỨC THỰC HIỆN
1. Bộ Tư pháp có trách nhiệm chủ trì tổ
chức thực hiện Đề án, phối hợp
với các Bộ, ngành có liên quan trong việc thực
hiện Đề án; chủ trì, phối hợp với các
cơ quan có liên quan xây dựng kế hoạch cụ
thể thực hiện từng nội dung hoạt
động của Đề án; lập danh mục các văn
bản pháp luật cần sửa đổi, bổ sung,
ban hành mới và dự kiến kinh phí thực hiện, trình
cơ quan có thẩm quyền đưa vào Chương trình
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của Nhà
nước và tổ chức thực hiện; sửa
đổi, bổ sung, xây dựng các văn bản pháp
luật thuộc phạm vi được phân công trong
Kế hoạch chi tiết thực hiện Đề án và
chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật hàng năm, trình cấp có thẩm quyền ban hành;
phổ biến kết quả đầu ra các hoạt
động của Đề án các Bộ, ngành có liên quan,
định kỳ báo cáo Ban Chỉ đạo 130/CP về
kết quả thực hiện Đề án.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối
hợp với Bộ Tài chính bố trí ngân sách cho Đề
án xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản
pháp luật về ngăn ngừa, đấu tranh chống
buôn bán phụ nữ, trẻ em trong kế hoạch kinh phí
hàng năm trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê
duyệt.
3. Bộ Tài chính hướng dẫn việc lập
dự toán kinh phí thực hiện Đề án xây dựng và
hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật
về ngăn ngừa, đấu tranh chống buôn bán
phụ nữ, trẻ em đến năm 2010 theo quy
định của pháp luật về ngân sách.
4. Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng
(Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng), Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, Ủy ban Dân
số, Gia đình và Trẻ em và các Bộ, ngành có liên quan có
trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp trong
việc tổ chức thực hiện Đề án theo
chức năng, nhiệm vụ của mình; chủ trì
phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện
việc sửa đổi, bổ sung, xây dựng các văn
bản pháp luật thuộc phạm vi Bộ, ngành
được phân công trong kế hoạch chi tiết
thực hiện Đề án và chương trình xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật hàng năm, trình
cấp có thẩm quyền ban hành.
5. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương có trách nhiệm đánh giá thực
tiễn thi hành và áp dụng các văn bản pháp luật
về phòng ngừa, đấu tranh chống buôn bán phụ
nữ, trẻ em tại địa phương mình, làm báo
cáo gửi Bộ Tư pháp tổng hợp, làm căn cứ
cho việc kiến nghị sửa đổi, bổ sung,
hoàn thiện hệ thống pháp luật về chống buôn
bán người; phối hợp với Bộ Tư pháp
trong việc thực hiện hoạt động 2 của
Đề án về "Khảo sát thực tiễn thi hành
pháp luật về phòng ngừa, đấu tranh chống
buôn bán phụ nữ, trẻ em".
6. Đề nghị Tòa án nhân dân tối cao, Viện
Kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phối hợp
với Bộ Tư pháp và các Bộ, ngành hữu quan trong
việc thực hiện Đề án.
CHƯƠNG TRÌNH
HÀNH ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM BUÔN BÁN PHỤ
NỮ, TRẺ EM TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010
CỦA CHÍNH PHỦ
ĐỀ ÁN
TIẾP NHẬN
VÀ HỖ TRỢ PHỤ NỮ, TRẺ EM LÀ NẠN NHÂN
BỊ BUÔN BÁN TỪ NƯỚC NGOÀI TRỞ VỀ GIAI
ĐOẠN 2005 - 2010
I. THỰC
TRẠNG TÌNH HÌNH
1. Tình hình tiếp
nhận và hỗ trợ phụ nữ, trẻ em là nạn
nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở về
Trong những năm qua tình hình buôn bán phụ nữ,
trẻ em xảy ra ngày càng phức tạp, nghiêm trọng và
có xu hướng gia tăng, phần lớn số phụ
nữ, trẻ em bị buôn bán ra nước ngoài qua hai
tuyến biên giới phía Bắc và Tây Nam. Số phụ
nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về thời gian qua cũng ngày
càng tăng. Theo báo cáo của Bộ Tư lệnh Bộ
đội Biên phòng từ
năm 1999 đến tháng 12 năm 2004, đã phát
hiện 127 vụ với 210 đối tượng
phạm tội và hàng nghìn phụ nữ bị lừa bán
trở về. Từ năm 2000 đến tháng 12 năm
2004 Trung Quốc đẩy về 2.917 trường
hợp, qua phân loại có 947 đối tượng bị
lừa bán, 1.970 đối tượng sang Trung Quốc trái
phép với các lý do khác. Tuyến biên giới Tây Nam từ
năm 2000 đến tháng 12 năm 2004 xảy ra 217 vụ
với 1.395 phụ nữ, trẻ em bị lừa bán
hoặc xuất cảnh trái phép sang Campuchia làm mại dâm và
đã có hàng nghìn trường hợp trở về, chủ
yếu là tự về.
Tuy nhiên, thực tế số phụ nữ, trẻ em là
nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở
về còn lớn hơn nhiều so với số liệu
báo cáo của Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên
phòng, bởi điều kiện địa lý và tính
chất của sự việc nên việc thống kê
đầy đủ số liệu là vô cùng khó khăn. Qua
phân tích số liệu khảo sát tình hình nạn nhân trở
về tại một số địa phương cho
thấy, hầu hết nạn nhân tự giải thoát
trở về, một số khác được phía bạn
trả về qua con đường chính thức và một
số ít do bọn tội phạm buôn người bị
tố giác, phát hiện thả ra cho về. Nhìn chung, số
phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về chiếm tỷ lệ
rất thấp so với số phụ nữ, trẻ em
bị buôn bán. Theo kết quả khảo sát ở một
số địa phương, số này chỉ mới
chiếm 7,9% (Báo cáo kết quả của Viện Nghiên
cứu Thanh niên, NXBLĐXH, Hà Nội, năm 2004). Như
vậy, còn một số lượng rất lớn số
phụ nữ, trẻ em bị buôn bán vì nhiều lý do khác
nhau vẫn chưa xác định được.
Theo kết quả ước tính và dự báo tiến
hành những năm qua, đến năm 2005 số phụ
nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về có khoảng 10.000
người và từ năm 2006 đến năm 2010
số phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán
từ nước ngoài trở về mỗi năm
khoảng 1.000 người.
Thời gian qua, công tác tiếp nhận nạn nhân
chủ yếu dưới hình thức không chính thức, nên
việc quản lý và hỗ trợ đối tượng
gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, Nhà nước
cũng chưa có chính sách, chế độ cụ thể
để hỗ trợ cho những phụ nữ, trẻ
em là nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở
về. Trên thực tế, các đơn vị Bộ
đội Biên phòng và một số địa phương
đã chủ động thực hiện việc hỗ
trợ cho họ như: trợ cấp tiền ăn
ở, lưu trú tạm thời tại cửa khẩu, tàu
xe trở về địa phương nơi cư trú,
tạo điều kiện để làm chứng minh nhân
dân, nhập hộ khẩu, hỗ trợ làm nhà ở,
Hội Phụ nữ đã đứng ra tín chấp cho vay
vốn. Tuy nhiên, số phụ nữ, trẻ em là nạn
nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở về
nhận được sự hỗ trợ, giúp đỡ
mới chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Còn
lại hầu hết đang gặp rất nhiều khó khăn,
chưa nhận được sự quan tâm giúp đỡ
của chính quyền và đoàn thể ở địa
phương.
Kết quả khảo sát sơ bộ tại một
số địa phương cho thấy số phụ
nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về chủ yếu là ở các
vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa; trình độ văn hóa thấp
kém; hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, không có nhà
cửa, đất đai canh tác, thường xuyên
thiếu ăn, việc làm không ổn định; mắc
các bệnh lây truyền qua đường tình dục; có
tâm lý mặc cảm, xấu hổ. Một số
người không làm được chứng minh nhân dân,
không nhập được hộ khẩu nên việc
đi lại gặp nhiều khó khăn, con cái không làm
được giấy khai sinh, cộng đồng kỳ
thị, phân biệt đối xử. Chính quyền
địa phương chưa quan tâm giúp đỡ,
tạo điều kiện để đối
tượng hòa nhập cộng đồng. Bản thân
đối tượng không biết cơ quan nào quản
lý, giải quyết các vấn đề vướng
mắc của họ.
2. Tồn tại,
hạn chế:
Hầu hết nạn nhân chưa tiếp cận
được với các dịch vụ và thụ hưởng
các chính sách của Nhà nước như xoá đói, giảm
nghèo, vay vốn, tạo việc làm, dạy nghề, trợ
giúp y tế cho người nghèo, chương trình chống
tái mù chữ, hỗ trợ tư pháp, bảo vệ
quyền lợi, bồi thường thiệt hại kinh
tế, danh dự cho nạn nhân.
Chính quyền địa phương chưa quản lý
được số phụ nữ, trẻ em là nạn
nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở về, không
nắm được danh sách, con người, hoàn cảnh
cụ thể của nạn nhân nên chưa có những
hoạt động trợ giúp cụ thể. Sự
phối hợp giữa các ngành chức năng và các tổ
chức có liên quan trong và ngoài nước chưa
thường xuyên và còn nhiều hạn chế.
Cán bộ các ngành, đoàn thể, địa
phương đặc biệt là cấp xã, phường
còn xem nhẹ công tác hỗ trợ phụ nữ, trẻ em
bị buôn bán trở về, coi đó như việc của
cá nhân, gia đình nạn nhân, chưa thấy hết trách
nhiệm của cộng đồng.
3. Nguyên nhân của
tình hình trên:
Nhận thức của các cơ quan, chính quyền
địa phương chưa đầy đủ,
chưa thực sự quan tâm công tác phòng, chống buôn bán
phụ nữ, trẻ em nói chung, giúp đỡ hỗ
trợ phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán
từ nước ngoài trở về nói riêng. Công tác tuyên
truyền về phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ
em còn nhiều hạn chế, chưa tiếp cận
được với nhóm đối tượng có nguy
cơ cao, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em
ở vùng giáp biên, vùng sâu, vùng xa.
Phụ nữ, trẻ em bị buôn bán từ nước
ngoài trở về, đa số có hoàn cảnh khó khăn và
hạn chế về mặt xã hội như: trình
độ văn hoá thấp; việc làm không ổn định,
thu nhập thấp; hoàn cảnh gia đình có người
mắc bệnh hiểm nghèo, ốm kinh niên; thiếu
đất đai canh tác. Bản thân chị em là nạn nhân
do trình độ nhận thức yếu kém, thiếu
hiểu biết về pháp luật cũng như các thủ
đoạn lừa gạt của bọn tội phạm.
Đặc biệt một số đối tượng do
ăn chơi đua đòi, lười lao động
lại có tư tưởng muốn hưởng thụ nên
đã bị bọn tội phạm dễ dàng thực
hiện hành vi phạm tội.
Hệ thống chính sách pháp luật về tiếp
nhận, hỗ trợ phụ nữ, trẻ em là nạn
nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở về
hầu như chưa có.
Công tác điều tra, triệt phá, xử lý các
đường dây buôn bán phụ nữ, trẻ em còn
nhiều hạn chế; công tác phối kết hợp giữa
các cơ quan chức năng của Việt Nam và các
nước có chung đường biên giới còn thiếu
chặt chẽ, đồng bộ dẫn đến
việc trở về của nạn nhân gặp nhiều
khó khăn.
Ngày 14 tháng 7 năm 2004 Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 130/2004/QĐ-TTg phê
duyệt Chương trình hành động phòng, chống
tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em từ
năm 2004 đến năm 2010.
Đề án "Tiếp nhận và hỗ trợ phụ
nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về" (Đề án 3) của
chương trình là một cơ sở pháp lý để
thực hiện tốt chủ trương của
Đảng và Nhà nước. Đây không chỉ là một
yêu cầu cấp thiết trong thực tế mà còn thể
hiện chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà
nước ta với những người có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn cần sự trợ giúp
của Nhà nước và xã hội.
II. QUAN
ĐIỂM, MỤC TIÊU, PHẠM VI VÀ ĐỐI
TƯỢNG CỦA ĐỀ ÁN
1. Quan điểm
a) Phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán
trở về là nhóm chịu nhiều thiệt thòi về
vật chất và tinh thần. Do đó, công tác hỗ
trợ phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán
trở về phải được coi là một nhiệm
vụ của cấp ủy Đảng, chính quyền và
toàn xã hội.
b) Tạo môi trường và điều kiện
thuận lợi để phụ nữ, trẻ em là
nạn nhân bị buôn bán trở về hòa nhập cộng
đồng. Thực hiện đồng bộ các giải
pháp, chính sách, khuyến khích mọi hình thức hỗ
trợ cho phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn
bán trở về. Tăng cường phối hợp liên
ngành, huy động sự tham gia của các ngành, đoàn
thể và toàn xã hội.
c) Đầu tư cho công tác hỗ trợ phụ
nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán trở về
là đầu tư góp phần tạo ra sự phát triển
bền vững của đất nước, giữ
vững an ninh trật tự an toàn xã hội, mang lại
hiệu quả kinh tế xã hội.
2. Mục tiêu
của Đề án
a) Mục tiêu tổng quát:
Thực hiện chính sách nhân đạo xã hội; góp
phần ngăn ngừa và làm giảm cơ bản tình
trạng phụ nữ, trẻ em bị buôn bán; tạo
điều kiện để phụ nữ, trẻ em là
nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở
về tiếp cận được các dịch vụ pháp
lý, y tế, giáo dục, xã hội, tạo việc làm,
ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng
đồng, góp phần nâng cao vị thế người
phụ nữ.
b) Mục tiêu cụ thể:
- Đến năm 2007 phát hiện, tiếp nhận và
hỗ trợ các dịch vụ ban đầu cho 70% phụ
nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về.
- Đến năm 2007, 50% phụ nữ, trẻ em là
nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở
về được hỗ trợ chữa trị,
dạy nghề, tạo việc làm phù hợp với
điều kiện thực tế của từng
địa phương.
- Đến năm 2010, 90% phụ nữ, trẻ em là
nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở
về được tiếp nhận, hỗ trợ tái hòa
nhập cộng đồng với các hình thức phù
hợp.
3. Phạm vi và
đối tượng của đề án
a) Phạm vi:
Đề án được thực hiện trên phạm
vi cả nước, trong đó ưu tiên chỉ
đạo và đầu tư nguồn lực cho các vùng,
địa phương trọng điểm.
b) Đối tượng:
Phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán
từ nước ngoài trở về và gia đình họ
trong đó ưu tiên nhóm đối tượng bị
thiệt thòi, yếm thế sau:
- Trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ nước
ngoài trở về có hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn;
- Phụ nữ là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về là người đơn thân
không còn khả năng lao động mà không còn người
thân chăm sóc;
- Phụ nữ là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về không còn điều kiện
để tự tạo lập cuộc sống;
- Phụ nữ là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về là thành viên của các gia
đình thuộc hộ nghèo, xã nghèo theo quy định.
III. NỘI DUNG
CỦA ĐỀ ÁN
1. Tổ chức
tiếp nhận và hỗ trợ ban đầu cho phụ
nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán trở về.
a) Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương có cửa khẩu biên giới thành
lập bộ phận tiếp nhận phụ nữ,
trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài
trở về do Bộ đội Biên phòng làm chủ trì và
các ngành liên quan là thành viên như: Công an, Y tế, Lao
động - Thương binh và Xã hội, Ủy ban Dân
số, Gia đình và Trẻ em, Hội Phụ nữ. Bộ
phận này hoạt động khi có yêu cầu của
Bộ đội Biên phòng trong những trường
hợp cần thiết và theo chế độ kiêm
nhiệm.
b) Tiếp nhận và hỗ trợ ban đầu cho
phụ nữ, trẻ em bị buôn bán trở về:
- Đối với nạn nhân từ các nước có
chung biên giới trên bộ với nước ta: Bộ
đội Biên phòng chủ trì tổ chức tiếp
nhận phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán
trở về qua các hình thức tại các đồn Biên
phòng, cửa khẩu biên giới.
- Đối với nạn nhân từ các nước
không chung biên giới trên bộ với nước ta:
Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ
Ngoại giao làm các thủ tục tiếp nhận
đối tượng phụ nữ, trẻ em bị buôn
bán trở về.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
hướng dẫn các địa phương liên quan
tiếp nhận người trở về. Thời gian
tối đa cho đối tượng ở tại
nơi tiếp nhận ban đầu không quá 15 ngày.
+ Tiến hành các thủ tục ban đầu như:
lập biên bản tiếp nhận, kiểm tra tư trang,
hành lý mang theo. Phỏng vấn làm rõ nhân thân, lai lịch, lý
do bị lừa bán cũng như những tâm tư
nguyện vọng của nạn nhân; đối
tượng phạm tội, phương thức, thủ
đoạn của chúng...
+ Lập hồ sơ cá nhân của từng nạn nhân
để quản lý, thống kê, theo dõi, tổ chức xác
minh, phối hợp với chính quyền địa phương,
cơ quan chức năng tạo điều kiện giúp
đỡ đưa họ trở về hoà nhập
cộng đồng; tổ chức tư vấn về các
dịch vụ hỗ trợ như y tế, học
nghề, hoà nhập cộng đồng.
+ Thu thập các thông tin về hoạt động
của tội phạm để có kế hoạch chủ
động đấu tranh; phối hợp trao đổi
với các cơ quan chức năng trong nước và
nước ngoài để chủ động phòng ngừa,
đấu tranh.
+ Tổ chức hoạt động khám chữa bệnh
ban đầu cho nạn nhân.
c) Tổ chức phân loại, bàn giao đối
tượng:
- Đối với những đối tượng
thuộc diện đưa vào cơ sở chữa bệnh
và những đối tượng lang thang, cơ nhỡ
không nơi nương tựa thì Bộ đội Biên phòng
lập biên bản bàn giao cho ngành Lao động -
Thương binh và Xã hội.
Những đối tượng được xác
định có hành vi bán dâm hoặc nghiện ma túy thì
được chuyển vào Trung tâm Chữa bệnh - Giáo
dục và Lao động xã hội. Chế độ cho
đối tượng trong thời gian ở Trung tâm
được áp dụng như đối với
người đang chấp hành quyết định
đưa vào cơ sở chữa bệnh tại cơ
sở chữa bệnh đó kinh phí do ngân sách nhà
nước chi trả.
Những người được xác định là
đối tượng lang thang, cơ nhỡ không nơi
nương tựa, không xác định được nhân
thân thì được chuyển vào Trung tâm Bảo trợ xã
hội. Chế độ cho đối tượng trong
thời gian ở Trung tâm được áp dụng như
đối với các đối tượng khác ở Trung
tâm Bảo trợ xã hội; căn cứ nguyện vọng
của đối tượng và điều kiện
cụ thể, Trung tâm hỗ trợ, giúp đỡ
đối tượng được lựa chọn
nơi cư trú, ổn định cuộc sống, tái hoà
nhập cộng đồng.
Tại các cơ sở này phụ nữ, trẻ em là
nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở
về được khám chữa bệnh, tiếp tục
xác minh các thông tin về nạn nhân và liên hệ với thân
nhân và chính quyền địa phương, cơ sở
nơi đối tượng trở về cư trú.
- Đối với những đối tượng
được xác định là tội phạm thì Bộ
đội Biên phòng tiến hành điều tra theo thẩm
quyền quy định của pháp luật, chuyển giao
cho Viện Kiểm sát truy tố trước pháp luật
hoặc chuyển giao cho lực lượng Công an tiếp
nhận để tiến hành thực hiện các hoạt
động nghiệp vụ tiếp theo
- Ngoài hai nhóm đối tượng trên, đối
với những đối tượng còn lại xác
định được địa chỉ cụ
thể thì đưa trở về nơi cư trú, nếu
là trẻ em phải có người thân của gia đình
tới nhận đưa về. Bộ đội Biên phòng
thông báo cho ngành Lao động - Thương binh và Xã hội
và chính quyền địa phương nơi nạn nhân
cư trú, sinh sống, tiến hành gặp gỡ, làm
việc với gia đình để có kế hoạch
hỗ trợ cho nạn nhân khi trở về.
d) Hỗ trợ kinh phí cho phụ nữ, trẻ em là
nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở
về tiền ăn ở, khám chữa bệnh ban
đầu, quần áo, tiền tàu xe đi lại, tiền
ăn đường để trở về địa
phương nơi đối tượng cư trú.
2. Thực hiện đồng bộ các hoạt
động hỗ trợ phụ nữ, trẻ em là
nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở
về tại cộng đồng.
a) Tất cả các đối tượng phụ
nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở về
địa phương cư trú đều được
hưởng các chế độ hỗ trợ, giáo dục
để ổn định cuộc sống, tái hòa
nhập cộng đồng.
b) Trợ giúp đối tượng trong việc làm
giấy chứng minh nhân dân, nhập hộ khẩu, xóa mù
chữ, làm giấy khai sinh, cho trẻ em đi học…Tùy
từng đối tượng và khả năng của
từng địa phương mà hỗ trợ đối
tượng đất đai canh tác, làm nhà ở…..
c) Tổ chức thống kê, phân loại trình độ,
xác định nhu cầu học nghề, tìm việc làm
của đối tượng. Tùy theo số lượng,
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của
từng đối tượng và khả năng của
địa phương mà tổ chức các lớp dạy
nghề cho phù hợp. Việc tổ chức dạy
nghề cho phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn
bán từ nước ngoài trở về do hệ thống
các trung tâm dạy nghề tại địa phương thực
hiện.
d) Tạo việc làm cho đối tượng
được tổ chức linh động phù hợp
với điều kiện hoàn cảnh cụ thể
của từng đối tượng và khả năng
của địa phương. Việc làm cho đối
tượng có thể được tổ chức
tại gia đình hoặc cộng đồng hoặc
cơ sở sản xuất kinh doanh ở địa
phương.
đ) Tạo điều kiện hỗ trợ phụ
nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về tiếp cận với các
nguồn vốn vay được thực hiện thông qua
tổ chức Hội Phụ nữ các cấp. Phụ
nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán trở về
là một trong những đối tượng được
ưu tiên trong việc tiếp cận với các nguồn
vốn vay của địa phương. Đặc
biệt là từ nguồn Quỹ Phụ nữ nghèo do Chính
phủ hỗ trợ Trung ương Hội liên hiệp
Phụ nữ Việt Nam thành lập.
e) Trợ cấp cho phụ nữ, trẻ em là nạn
nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở về kinh
phí để hòa nhập cộng đồng. Tổ
chức hướng dẫn đối tượng
tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ cách
sử dụng vốn vay một cách hiệu quả. Tổ
chức dịch vụ tư vấn pháp luật, y tế,
giáo dục và các dịch vụ xã hội khác.
g) Đa dạng hoá các mô hình hỗ trợ phụ
nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về. Xây dựng các mô hình hỗ
trợ, giúp đỡ phụ nữ, trẻ em là nạn
nhân bị buôn bán trở về tại các cộng
đồng, cụm dân cư với sự tham gia của
các tổ chức kinh tế xã hội, cơ sở tôn giáo
và đông đảo các tầng lớp quần chúng nhân dân.
Thực hiện thí điểm mô hình dịch vụ hỗ
trợ phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán
trở về dựa vào cộng đồng để
tiếp cận với các dịch vụ y tế, xã hội
tại địa phương. Trong ba năm 2005 - 2007,
tiến hành thí điểm 12 điểm tại 6 tỉnh,
thành phố trọng điểm ở 3 khu vực có số
lượng lớn phụ nữ, trẻ em là nạn nhân
bị buôn bán từ nước ngoài trở về.
3. Nâng cao nhận
thức, trách nhiệm của chính quyền các cấp và
người dân về tiếp nhận, hỗ trợ
phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về, tổ chức tốt
việc phòng ngừa và hòa nhập cộng đồng
bền vững.
a) Tuyên truyền, giáo dục cho cộng đồng
về công tác phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em.
Tổ chức các hoạt động tuyên truyền giáo
dục thường xuyên, dưới nhiều hình thức,
rộng khắp trong cả nước, đặc biệt
là ở các vùng, địa phương trọng
điểm nhằm nâng cao hiểu biết, ý thức trách
nhiệm, nghĩa vụ của mọi ngành, mọi
cấp, cộng đồng và từng gia đình
đối với công tác tiếp nhận, hỗ trợ,
giúp đỡ phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị
buôn bán từ nước ngoài trở về. Gắn
việc thực hiện hoạt động của
Đề án này với Đề án Tuyên truyền, giáo
dục trong cộng đồng về phòng, chống
tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em (Đề
án 1).
b) Thực hiện các hoạt động hỗ trợ
phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về gắn với việc xây
dựng gia đình văn hóa, xây dựng xã phường lành
mạnh không có tệ nạn xã hội.
c) Lồng ghép các hoạt động hỗ trợ
phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về với các chương trình,
dự án khác có liên quan. Phối hợp chặt chẽ,
đồng bộ việc thực hiện các hoạt
động của Đề án với các đề án khác
của Chương trình phòng, chống tội phạm buôn
bán phụ nữ, trẻ em và với Chương trình phòng,
chống AIDS; phòng, chống tệ nạn mại dâm; phòng,
chống ma tuý; dạy nghề, xoá đói, giảm nghèo,
giải quyết việc làm....để nâng cao hiệu
quả xã hội của các chương trình và Đề
án.
IV. CÁC GIẢI
PHÁP CHỦ YẾU
1. Tăng cường sự lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo của
chính quyền các cấp và sự tham gia tích cực của
các đoàn thể, tổ chức xã hội và cộng
đồng trong việc tổ chức thực hiện
tốt chính sách, tạo phong trào hỗ trợ, giúp
đỡ phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn
bán trở về, đặc biệt là những vùng đông
đối tượng, vùng sâu, vùng xa.
2. Thực hiện đồng bộ các giải pháp, xã
hội hóa công tác hỗ trợ, giúp đỡ phụ
nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán trở về
dựa vào cộng đồng. Huy động nguồn
lực tại chỗ để hỗ trợ, giúp
đỡ phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn
bán từ nước ngoài trở về. Lồng ghép công tác
hỗ trợ phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị
buôn bán trở về với việc thực hiện các
đề án khác của Chương trình phòng, chống
tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em và với các
chương trình kinh tế - xã hội khác có liên quan (phòng,
chống tệ nạn xã hội; dạy nghề; xoá
đói, giảm nghèo và việc làm…) và xây dựng làng văn
hóa tại địa phương. Khuyến khích các
hoạt động tự nguyện, nhân đạo.
Vận động các tổ chức, cá nhân có những
hoạt động thiết thực cho đối
tượng.
3. Tăng cường các hoạt động quản lý
biên giới, cửa khẩu. Chính quyền địa
phương tăng cường công tác quản lý
địa bàn, quản lý nhân khẩu, hộ khẩu ở
khu vực nông thôn, địa bàn giáp biên, vùng sâu, vùng xa.
Tiến hành điều tra, rà soát, thống kê, phân loại
đối tượng. Thiết lập hệ thống
thông tin về công tác hỗ trợ phụ nữ, trẻ em
là nạn nhân bị buôn bán trở về.
4. Xây dựng, tăng cường và củng cố
tổ chức, lực lượng làm nhiệm vụ
tiếp nhận, hỗ trợ phụ nữ, trẻ em là
nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở
về. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm
công tác này để thực hiện các hoạt động
tiếp nhận và hỗ trợ cụ thể cho từng
loại đối tượng ở địa
phương cho phù hợp.
5. Nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện hệ
thống chính sách, pháp luật về tiếp nhận,
hỗ trợ phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị
buôn bán trở về cho khả thi, phù hợp với
điều kiện thực tế của cơ sở.
6. Tăng cường và mở rộng hợp tác
quốc tế về tiếp nhận và hỗ trợ
phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về nói riêng và trong lĩnh vực
phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em nói chung.
Tham gia các điều ước quốc tế về
trao trả, tiếp nhận và hỗ trợ phụ nữ,
trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài
trở về.
V. TỔ
CHỨC THỰC HIỆN
1. Cơ chế
điều hành
Thành lập Ban Chủ nhiệm Đề án để
trực tiếp quản lý, điều hành, tổ chức
thực hiện Đề án, bao gồm:
- Chủ nhiệm (Trưởng ban) là một
đồng chí lãnh đạo Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội;
- Phó Chủ nhiệm là một đồng chí lãnh
đạo Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng;
- Các thành viên là lãnh đạo các Bộ, ngành liên quan
như: Bộ Công an, Ủy ban Dân số, Gia đình và
Trẻ em, Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Y tế, Trung
ương Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và
Cục trưởng Cục Phòng, chống tệ nạn xã
hội - Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội, Cục trưởng Cục Trinh sát - Bộ Tư
lệnh Bộ đội Biên phòng;
- Thường trực: Cục Phòng, chống tệ
nạn xã hội - Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội.
Đề án thực hiện theo cơ chế lồng
ghép phối hợp với các Đề án khác của
Chương trình phòng, chống tội phạm buôn bán
phụ nữ, trẻ em từ năm 2004 đến năm
2010.
2. Phân công trách nhiệm
a) Tại Trung ương:
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
chủ trì, phối hợp với các ngành liên quan xây
dựng chính sách, pháp luật về hỗ trợ phụ
nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về; phối hợp với
Bộ Công an tổ chức thống kê, điều tra,
khảo sát đánh giá tình hình thực hiện các hoạt
động tiếp nhận và hỗ trợ phụ nữ,
trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài
trở về; chỉ đạo các địa
phương xây dựng các mô hình thí điểm tại
cộng đồng; chỉ đạo các địa
phương thực hiện các hoạt động
tiếp nhận đối tượng do Bộ
đội Biên phòng bàn giao, tổ chức dạy nghề,
vay vốn, tạo việc làm hỗ trợ phụ nữ,
trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài
trở về; phối hợp với Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam chỉ đạo Ngân hàng Chính sách xã
hội trong việc hỗ trợ vốn vay cho phụ
nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về; thực hiện các dự
án, chương trình hợp tác quốc tế về hỗ
trợ phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán
từ nước ngoài trở về; giúp Chính phủ
thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về lĩnh vực này.
- Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng chủ
trì, tổ chức tiếp nhận, phân loại và hỗ
trợ ban đầu cho số phụ nữ, trẻ em
bị buôn bán từ nước ngoài trở về; phối
hợp với các ngành liên quan tổ chức bàn giao
đối tượng cho các cấp, các ngành liên quan ở
địa phương; thực hiện các dự án,
chương trình hợp tác quốc tế về tiếp
nhận phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán
từ nước ngoài trở về; bố trí nơi
tiếp nhận ban đầu tại các Đồn biên
phòng. Lập dự toán kinh phí hàng năm đảm bảo
cho các hoạt động tiếp nhận và hỗ trợ
ban đầu.
- Bộ Công an là cơ quan đầu mối điều
phối hoạt động của các đề án khác của Chương trình phòng,
chống tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em cho
đồng bộ với các hoạt động của
Đề án này. Điều tra, phát hiện thống kê
số phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán
từ nước ngoài trở về. Phối hợp
với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
thực hiện chính sách, pháp luật về hỗ trợ
phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về liên quan đến nhiệm
vụ của ngành mình.
- Bộ Tư pháp chỉ đạo địa
phương thực hiện các hoạt động trợ
giúp pháp lý cho phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị
buôn bán trở về; phối hợp với các Bộ, ngành
liên quan hoàn thiện hệ thống pháp luật về
tiếp nhận, hỗ trợ phụ nữ, trẻ em là
nạn nhân bị buôn bán trở về.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối
hợp với Bộ Tài chính bố trí ngân sách cho Đề
án này trong kế hoạch kinh phí hàng năm trình Thủ
tướng Chính phủ xem xét phê duyệt. Xây dựng
cơ chế hỗ trợ các địa phương khó
khăn về ngân sách trong việc xây dựng, nâng cấp
các cơ sở bảo trợ xã hội để hỗ
trợ phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán
trở về.
- Bộ Tài chính hướng dẫn việc lập
dự toán kinh phí thực hiện Đề án này theo quy
định của pháp luật về ngân sách nhà
nước; thực hiện kiểm tra việc quản lý
sử dụng kinh phí đúng mục đích; nghiên cứu,
đề xuất trình cấp có thẩm quyền các
biện pháp huy động đóng góp kinh phí từ các
nguồn khác nhau ở trong và ngoài nước để
hỗ trợ Đề án.
- Bộ Ngoại giao phối hợp với Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội về mặt
chính trị, đối ngoại trong lĩnh vực hợp
tác với nước ngoài, tiếp nhận và hỗ trợ
trẻ em là nạn nhân bị buôn bán trở về.
- Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em chỉ
đạo cơ quan Dân số, Gia đình và Trẻ em các
địa phương phối hợp với các ngành
chức năng ở địa phương thực
hiện việc tiếp nhận, hỗ trợ đối
với trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về.
- Bộ Y tế chỉ đạo ngành y tế
địa phương các tỉnh có biên giới cửa
khẩu phối hợp với Bộ đội Biên phòng
trong việc khám chữa bệnh ban đầu cho phụ
nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về tại các Đồn biên
phòng biên giới cửa khẩu; chỉ đạo ngành y
tế các địa phương thực hiện công tác
khám chữa bệnh và cung cấp các dịch vụ y tế
cho phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán
từ nước ngoài trở về.
- Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam chỉ đạo các cấp Hội tổ
chức cho chị em phụ nữ là nạn nhân bị buôn
bán từ nước ngoài trở về tham gia sinh hoạt
Hội; giúp đỡ tín chấp cho chị em vay vốn
từ các nguồn vốn sẵn có ở địa
phương đặc biệt là từ Quỹ phụ
nữ nghèo; tổ chức các hoạt động tuyên
truyền nâng cao nhận thức của phụ nữ và
cộng đồng.
b) Tại địa phương:
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương có trách nhiệm:
- Tổ chức thống kê, phân loại, quản lý
số phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán
từ nước ngoài trở về; quản lý địa
bàn, hỗ trợ đối tượng trên thuộc
địa phương; nâng cao vai trò, trách nhiệm của
gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục các thành viên;
- Tổ chức thực hiện các hoạt động
dạy nghề, vay vốn, tạo việc làm hỗ
trợ phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán
từ nước ngoài trở về;
- Tổ chức thực hiện các chính sách, chế
độ cho phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị
buôn bán từ nước ngoài trở về; tạo mọi
điều kiện huy động nguồn lực của
đại phương để giúp phụ nữ,
trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài
trở về ổn định cuộc sống;
- Chỉ đạo các ngành chức năng tại
địa phương hướng dẫn các tổ
chức và cá nhân thực hiện các hoạt động
hỗ trợ về pháp lý, y tế, xã hội cho phụ
nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về;
- Lập dự toán kinh phí, bố trí ngân sách hàng năm
đảm bảo việc hỗ trợ phụ nữ,
trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài
trở về theo qui định của pháp luật về
ngân sách nhà nước; chỉ đạo, hướng
dẫn Ủy ban nhân dân cấp dưới, cơ quan Lao
động - Thương binh và Xã hội và các ngành chức
năng ở địa phương xây dựng và tổng
hợp kế hoạch kinh phí để hỗ trợ
phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán từ
nước ngoài trở về;
- Tổ chức tổng kết đánh giá kết
quả thực hiện Đề án, định kỳ báo
cáo về Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội để tổng hợp báo cáo Chính phủ.
3. Tổ chức
kiểm tra, giám sát, đánh giá
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cùng
Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng chủ trì
thực hiện các hoạt động kiểm tra, giám sát,
đánh giá việc thực hiện Đề án. Xem xét các
báo cáo định kỳ 6 tháng, 1 năm về thực
hiện Đề án. Thành lập các đoàn giám sát thực
hiện Đề án ở địa phương.
VI. HIỆU
QUẢ VÀ TÍNH BỀN VỮNG CỦA ĐỀ ÁN
1. Hiệu quả
của Đề án
a) Có được một hệ thống cơ chế
chính sách, pháp luật về hỗ trợ phụ nữ,
trẻ em là nạn nhân bị buôn bán trở về và
những mô hình hỗ trợ phụ nữ, trẻ em là
nạn nhân bị buôn bán trở về dựa vào cộng
đồng. Nâng cao được trình độ
đội ngũ cán bộ xã hội các cấp, các ngành
về hỗ trợ phụ nữ, trẻ em là nạn nhân
bị buôn bán trở về.
b) Huy động được sự tham gia của
toàn xã hội, góp phần nâng cao nhận thức, trách
nhiệm, hiểu biết của các gia đình, cộng
đồng trong hỗ trợ phụ nữ, trẻ em là
nạn nhân bị buôn bán trở về, đảm bảo
mọi phụ nữ, trẻ em có cơ hội
được thực hiện các quyền cơ bản
của mình.
c) Nâng cao điều kiện sống, dạy nghề,
tạo công ăn việc làm cho phụ nữ, trẻ em là
nạn nhân bị buôn bán trở về, góp phần xóa
đói, giảm nghèo; tạo điều kiện cho 90%
số phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán
trở về được tiếp cận với các
dịch vụ y tế, xã hội.
d) Đề án được triển khai sẽ góp
phần tạo ra sự phát triển ổn định,
bền vững của đất nước, giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
mang lại hiệu quả xã hội trực tiếp và gián
tiếp.
2. Tính bền
vững của Đề án
a) Đề án do Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội chủ trì với sự tham gia thực hiện
trực tiếp của các ngành, địa phương
trong hệ thống tổ chức sẵn có đã tạo
sự thuận lợi và ổn định lâu dài cho công tác
phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em nói chung,
Đề án này nói riêng.
b) Căn cứ vào Đề án tổng thể
được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt, Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội phối hợp với các địa phương,
ngành xây dựng kế hoạch chi tiết cho từng
năm. Kế hoạch đảm bảo đáp ứng nhu
cầu cụ thể từ thực tế của các
địa phương và tính mục đích, định
hướng hoạt động của Đề án.
c) Các hoạt động của Đề án đều
do cơ quan trực tiếp quản lý nhà nước
về lĩnh vực này, các đơn vị cung cấp
dịch vụ cho phụ nữ, trẻ em (NGOs, các ngành liên
quan…) và phụ nữ, trẻ em thực hiện.
d) Ngân sách nhà nước được sử dụng
như nguồn xúc tác, hỗ trợ ban đầu trên
cơ sở đó huy động các nguồn khác để
mở rộng và duy trì lâu dài. Các chế độ, chính sách
hỗ trợ trực tiếp cho nạn nhân
được thực hiện phối hợp với các
chế độ, chính sách, chương trình liên quan ở
địa phương.
VII. KINH PHÍ,
TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Nguồn kinh phí
Kinh phí thực hiện Đề án này được
huy động từ nhiều nguồn:
a) Ngân sách trung ương, hàng năm Chính phủ dành
một khoản kinh phí để thực hiện
Đề án trong Chương trình phòng, chống tội
phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em, hỗ trợ có
mục tiêu cho các nhiệm vụ trong tâm của Đề
án.
b) Ngân sách địa phương, hàng năm địa
phương phải chủ động xây dựng kế
hoạch, bố trí ngân sách cho hoạt động hỗ
trợ phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán
trở về tại địa phương; kết
hợp lồng ghép với các chương trình, dự án
khác.
c) Viện trợ của các tổ chức, cá nhân
nước ngoài và ủng hộ, quyên góp của các tổ chức,
đơn vị cá nhân trong cả nước…
Vốn ngân sách nhà nước cấp hàng năm theo quy
định của pháp luật về ngân sách nhà
nước do Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội lập kế hoạch phân bổ, trình Chính phủ
quyết định và trực tiếp chỉ đạo
tổ chức thực hiện.
2. Tiến
độ thực hiện
a) Giai đoạn I (2005 đến 2007):
Năm 2005:
- Thành lập Ban Chủ nhiệm và bộ phận
thường trực giúp việc Ban Chủ nhiệm
Đề án ở Trung ương, phân công nhiệm vụ
cho các thành viên Ban chủ nhiệm, xây dựng và hoàn
thiện kế hoạch cụ thể thực hiện
Đề án.
- Tổ chức Hội nghị tập huấn,
triển khai thực hiện Đề án ở các
địa phương trong toàn quốc.
- Chỉ đạo các địa phương xây
dựng kế hoạch cụ thể thực hiện
Đề án.
- Phối hợp với Bộ Công an tiến hành
điều tra thống kê tình hình phụ nữ, trẻ em
là nạn nhân bị buôn bán từ nước ngoài trở
về trên toàn quốc.
- Lựa chọn 12 điểm của 6 tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương để triển
khai các hoạt động thí điểm mô hình dịch
vụ hỗ trợ phụ nữ, trẻ em là nạn nhân
bị buôn bán trở về dựa vào cộng đồng.
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cùng
Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng tổ
chức chỉ đạo nâng cấp nơi tiếp
nhận phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán
từ nước ngoài trở về tại 6 tỉnh
trọng điểm: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Lào Cai,
Tây Ninh, An Giang và Đồng Tháp.
Năm 2006:
- Tiếp tục chỉ đạo các địa
phương thực hiện Đề án một cách toàn
diện theo kế hoạch.
- Tổ chức sơ kết việc thực hiện
Đề án trong giai đoạn I (cuối quý IV năm
2006).
b) Giai đoạn II (2007 đến 2010):
- Ban Chủ nhiệm Đề án lập kế hoạch
thực hiện Đề án ở giai đoạn II và tham
mưu cho Ban Chỉ đạo CT 130/CP chỉ đạo
các bộ, ngành, địa phương thực hiện.
- Tổng kết việc thực hiện Đề án
(cuối quý IV năm 2010).
TIẾN
ĐỘ THỰC HIỆN CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA
ĐỀ ÁN
TT |
Thời gian thực hiện Nội dung |
2005 |
2006 |
2007 |
2008 |
2009 |
2010 |
1 |
Thiết
lập hệ thống thông tin về công tác hỗ trợ
phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán
trở về. |
|
|
|
|
|
|
2 |
Thực
hiện các hoạt động hỗ trợ phụ
nữ, trẻ em là nạn nhân bị buôn bán trở
về. |
|
|
|
|
|
|
3 |
Xây
dựng và nâng cao chất lượng dịch vụ
hỗ trợ phụ nữ, trẻ em là nạn nhân bị
buôn bán trở về thông qua xây dựng mô hình phù hợp
với từng địa phương. |
|
|
|
|
|
|
4 |
Lồng
ghép công tác hỗ trợ phụ nữ, trẻ em là
nạn nhân bị buôn bán trở về với việc
thực hiện các đề án khác của Chương
trình phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ,
trẻ em và với các chương trình kinh tế - xã
hội khác có liên quan (phòng, chống tệ nạn xã
hội; dạy nghề; xoá đói, giảm nghèo và việc
làm…). |
|
|
|
|
|
|
5 |
Nghiên
cứu, xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật
về hỗ trợ phụ nữ, trẻ em là nạn
nhân bị buôn bán trở về. |
|
|
|
|
|
|
CHƯƠNG TRÌNH
HÀNH ĐỘNG PHÒNG, CHỐNG TỘI PHẠM BUÔN BÁN PHỤ
NỮ, TRẺ EM TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2010
CỦA CHÍNH PHỦ
ĐỀ ÁN
ĐẤU TRANH
CHỐNG TỘI PHẠM BUÔN BÁN PHỤ NỮ TRẺ EM
GIAI ĐOẠN 2005 - 2010
I. TÌNH HÌNH BUÔN BÁN
PHỤ NỮ, TRẺ EM
1. Những năm vừa qua, tình hình buôn bán phụ
nữ, trẻ em (PNTE) đặc biệt là buôn bán PNTE ra
nước ngoài xảy ra rất phức tạp, nghiêm
trọng và rất khó kiểm soát. Đến nay đã có
hàng chục nghìn PNTE Việt Nam bị buôn bán ra nước
ngoài với mục đích chủ yếu là bóc lột tình
dục, bóc lột sức lao động hoặc bị sử dụng vào
mục đích thương mại hoặc các mục
đích vô nhân đạo khác. PNTE Việt Nam bị buôn bán ra
nước ngoài chủ yếu là đến Trung Quốc
và Campuchia, ngoài ra PNTE Việt Nam còn có thể bị bán sang
các nước khác qua hình thức môi giới kết hôn
với người nước ngoài (nhiều nhất là
kết hôn với người Đài Loan) hoặc cho
nhận con nuôi người nước ngoài ở nhiều
nước khác nhau.
Tình trạng buôn bán PNTE ở trong nước cũng
xảy ra ở một số tỉnh, thành phố, chủ
yếu là việc lừa đảo PNTE từ nông thôn ra
thành phố, thị xã để bán cho các nhà hàng, cơ
sở karaoke..., ép buộc họ làm tiếp viên nhưng
thực chất là làm mại dâm.
Phần lớn số PNTE bị lừa bán là ở các
vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt
tập trung ở các tỉnh, thành phố khu vực
đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng
Bắc Bộ và một số tỉnh giáp biên giới phía
Bắc, phía Tây Nam có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó
khăn, nhẹ dạ cả tin nên dễ bị lừa bán.
Thủ đoạn hoạt động của bọn
tội phạm buôn bán PNTE rất đa dạng, xảo
quyệt như: dụ dỗ, lừa gạt, ép buộc,
làm và sử dụng giấy tờ giả... Bọn tội
phạm thường hoạt động có tổ chức,
có sự câu kết chặt chẽ giữa các đối
tượng, kể cả đối tượng ở
nước ngoài để thực hiện các hành vi
phạm tội và lợi dụng khó khăn trong công tác
tuần tra, kiểm soát, quản lý, bảo vệ biên
giới của lực lượng biên phòng, xuất
nhập cảnh và đặc điểm tự nhiên các
tuyến biên giới để đưa nạn nhân ra
nước ngoài.
2. Để ngăn chặn tình trạng PNTE bị buôn
bán, Bộ Công an với chức năng được giao,
phối hợp với Bộ đội Biên phòng và các ngành,
đoàn thể đã tiến hành nhiều biện pháp phòng
ngừa, đấu tranh chống tội phạm buôn bán
PNTE, nhất là từ khi Thủ tướng Chính phủ có
Chỉ thị số 766/TTg ngày 17 tháng 9 năm 1997
"về phân công trách nhiệm thực hiện các biện
pháp ngăn chặn việc đưa trái phép phụ nữ
và trẻ em ra nước ngoài". Tính từ năm 1998
đến năm 2004 các cơ quan chức năng đã
điều tra, khởi tố 1.460 vụ, gồm 2.519
bị can; hàng ngàn PNTE là nạn nhân đã được
giải thoát, hồi hương, trở lại cuộc
sống bình thường. Một số tổ chức
đường dây tội phạm buôn bán PNTE ra nước
ngoài có quy mô khá lớn đã bị phát hiện, triệt
phá. Tuy vậy, nhìn chung kết quả đấu tranh
chống tội phạm buôn bán PNTE còn có nhiều hạn
chế, chưa đáp ứng được yêu cầu
phòng, chống tội phạm buôn bán PNTE trong tình hình
mới.
Tình hình trên là do một số nguyên nhân chủ yếu sau
đây:
- Về mặt khách quan:
+ Môi trường kinh tế thị trường và
hội nhập phát triển, mâu thuẫn trong đời
sống kinh tế xã hội nảy sinh, nhất là phân hoá
giàu nghèo, đời sống của nhân dân khu vực nông
thôn, vùng sâu, vùng xa còn rất khó khăn, việc làm
thiếu, trình độ dân trí và đời sống văn
hoá còn thấp, nhiều PNTE và gia đình họ ở vào hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn, bị lôi cuốn vào
quá trình kiếm công ăn, việc làm ở đô thị hay
nước ngoài; các tệ nạn xã hội phát triển,
nhất là tệ nạn mại dâm ở cửa khẩu,
ở các khu vực giáp biên giới. Mặt khác, ở các
địa phương bên kia biên giới, nhu cầu tìm
vợ hoặc tìm người phục vụ trong các cơ
sở kinh doanh dịch vụ gia tăng đã thúc
đẩy nạn buôn bán PNTE Việt Nam ra nước ngoài
và sự phát triển của các tổ chức tội
phạm buôn bán PNTE có tính quốc tế;
+ Do vị trí địa lý ở hai nước láng
giềng phía Bắc và phía Tây Nam có tuyến biên giới dài
hàng nghìn km, có nhiều đường mòn, sông, suối qua
lại, nhiều cửa khẩu quốc tế, quốc
gia, việc tuần tra, kiểm soát khó khăn nên bọn
tội phạm triệt để lợi dụng
điều kiện này để đưa PNTE ra
nước ngoài mà rất khó bị phát hiện.
- Về mặt chủ quan:
+ Công tác tuyên truyền, giáo dục ở cộng
đồng về pháp luật, đạo đức,
lối sống còn hạn chế; chưa phổ biến
sâu rộng cho nhân dân nắm được phương
thức thủ đoạn hoạt động của
bọn tội phạm. Sự nhẹ dạ cả tin và
sự mất cảnh giác của người dân tạo
điều kiện thuận lợi cho bọn tội
phạm dễ dàng hoạt động. Công tác quản lý nhà
nước về an toàn trật tự, nhất là quản
lý biên giới, quản lý xuất nhập cảnh còn
nhiều sơ hở, bất cập;
+ Các cơ quan chức năng như: Công an, Bộ
đội Biên phòng còn nhiều hạn chế trong việc
phát hiện, điều tra tội phạm buôn bán PNTE,
nhiều vụ việc liên quan không phát hiện
được kịp thời hoặc chưa điều
tra triệt để, còn để lọt tội
phạm, nhiều đối tượng còn ở ngoài xã
hội tiếp tục phạm tội; một số
vụ buôn bán PNTE có tổ chức, xuyên quốc gia thì
việc điều tra gặp nhiều khó khăn hoặc
không điều tra được do không có sự phối
hợp hoặc tạo điều kiện từ phía các
cơ quan chức năng nước ngoài;
+ Trình độ năng lực cán bộ, chiến sĩ
trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa
nghiệp vụ, điều tra khám phá tội phạm buôn
bán PNTE còn nhiều hạn chế, chưa có lực
lượng chuyên trách làm nhiệm vụ đấu tranh
chống tội phạm buôn bán PNTE, kinh phí, trang thiết
bị phục vụ chưa đáp ứng được
yêu cầu đấu tranh với tội phạm này. Tỷ
lệ điều tra, khám phá các vụ án về buôn bán PNTE
chưa cao;
+ Hệ thống pháp luật liên quan đến công tác
phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm buôn
bán PNTE chưa được hoàn thiện và thiếu
đồng bộ; sự phối hợp giữa các cơ
quan hành pháp trong nước, giữa các cơ quan chức
năng liên quan của các nước có chung đường
biên giới và các nước trong khu vực nhằm
đấu tranh chống loại tội phạm này chưa
chặt chẽ;
+ Tương trợ tư pháp hình sự giữa
Việt Nam với các nước láng giềng còn hạn
chế, nhất là việc trao đổi thông tin, phối
hợp điều tra, bắt giữ, dẫn độ
tội phạm.
Để chủ động phòng ngừa và đấu
tranh chống tội phạm buôn bán PNTE, ngày 14 tháng 7 năm
2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 130/2004/QĐ-TTg phê duyệt Chương
trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán
PNTE từ năm 2004 đến năm 2010 (gọi tắt
là Chương trình 130/CP) bao gồm một hệ thống
quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nội dung
và các đề án cụ thể. Đề án
"đấu tranh chống tội phạm buôn bán PNTE"
là một trong 4 đề án của chương trình 130/CP
có ý nghĩa quan trọng, là đòi hỏi cấp thiết
nhằm đáp ứng được yêu cầu thực
tế đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn bán
PNTE ở nước ta từ nay đến năm 2010.
II. QUAN
ĐIỂM CHỈ ĐẠO, MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ,
ĐỐI TƯỢNG,
ĐỊA BÀN THỰC HIỆN
1. Quan điểm
chỉ đạo
- Buôn bán PNTE đang trở thành một hiểm hoạ,
gây hậu quả hết sức nghiêm trọng cho xã hội
và tiềm ẩn những nhân tố xấu về an ninh,
trật tự. Vì vậy, phòng ngừa, đấu tranh
chống tội phạm buôn bán PNTE, làm giảm cơ
bản tội phạm này là yêu cầu cấp bách trong giai
đoạn hiện nay, phải tập trung chỉ
đạo thực hiện.
- Công tác đấu tranh chống tội phạm buôn bán
PNTE phải huy động được sự tham gia tích
cực của các cấp, các ngành, đoàn thể và toàn xã
hội dưới sự lãnh đạo, chỉ
đạo thống nhất của các cấp ủy
đảng, chính quyền; kiện toàn và nâng cao năng
lực, trách nhiệm của các cơ quan bảo vệ pháp
luật trong công tác đấu tranh chống tội phạm
buôn bán PNTE.
- Lấy công tác phòng ngừa tội phạm là chính;
kết hợp chặt chẽ giữa chủ động
phòng ngừa và kịp thời phát hiện, điều tra,
xử lý tội phạm buôn bán PNTE, giải cứu và
hồi hương nạn nhân bị buôn bán phù hợp
với chính sách pháp luật hiện hành.
2. Mục tiêu
của đề án
Mục tiêu chung
Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, điều
tra, xử lý tội phạm buôn bán PNTE, từng bước
kiềm chế và làm giảm cơ bản vào năm 2010 tình
trạng phụ nữ và trẻ em bị buôn bán.
Mục tiêu cụ thể
- Từ năm 2005 - 2007: kiện toàn và nâng cao năng
lực các cơ quan chuyên trách thực thi pháp luật trong
công tác đấu tranh chống tội phạm buôn bán PNTE;
triển khai đồng bộ các biện pháp phòng ngừa,
đấu tranh triệt phá các tổ chức,
đường dây tội phạm buôn bán PNTE, tập trung
chỉ đạo tại các địa bàn trọng
điểm, phấn đấu làm giảm 20% tội
phạm buôn bán PNTE tại các địa bàn trọng
điểm.
- Từ năm 2008 - 2010: nâng cao tính chủ động và
hiệu quả trong thực hiện các biện pháp phòng
ngừa, điều tra xử lý nhằm tiếp tục làm
giảm và giảm trên 50% tội phạm buôn bán PNTE trên
phạm vi toàn quốc vào năm 2010.
3. Các nhiệm
vụ
Công tác phòng ngừa
- Huy động sức mạnh toàn xã hội, tiến
hành đồng bộ các biện pháp phòng ngừa xã hội
và phòng ngừa nghiệp vụ nhằm ngăn chặn các
hành vi phạm tội từng bước khắc phục
các nguyên nhân, điều kiện của tội phạm buôn
bán PNTE. Đặc biệt chú trọng công tác tuyên truyền
giáo dục, nâng cao nhận thức trong các tầng lớp
nhân dân, nhất là cho những đối tượng PNTE có
nguy cơ cao bị buôn bán.
Công tác điều tra, xử lý
- Tăng cường công tác phát hiện, điều tra,
truy tố, xét xử tội phạm buôn bán PNTE một cách
kịp thời, triệt để, bảo đảm tính
nghiêm minh của pháp luật; kiên quyết trấn áp,
triệt phá các đường dây tội phạm buôn bán
PNTE, không để chúng lộng hành; phát hiện, ngăn
chặn sự hình thành các tổ chức tội phạm
mới.
4. Đối
tượng và địa bàn trọng điểm tập
trung đấu tranh
Đối tượng đấu tranh
Đối tượng đấu tranh của
đề án là các loại tội phạm buôn bán PNTE,
tập trung vào một số loại sau đây:
+ Buôn bán PNTE để đưa ra nước ngoài;
+ Buôn bán PNTE có tổ
chức;
+ Buôn bán PNTE có tính chất chuyên nghiệp.
Địa bàn trọng điểm tập trung
đấu tranh
Công tác đấu tranh chống tội phạm buôn bán
PNTE được triển khai trên phạm vi toàn quốc.
Các địa bàn trọng điểm cần tập trung
chỉ đạo, đấu tranh là những địa
bàn có nhiều phức tạp về lừa gạt, vận
chuyển, chuyển giao nhằm buôn bán PNTE, chủ yếu
gồm các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, các thành phố, thị xã thuộc các tỉnh
giáp biên giới phía Bắc và phía Tây Nam, các tỉnh khu
vực đồng bằng Bắc Bộ và đồng
bằng sông Cửu Long.
III. CÁC NỘI
DUNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Công tác nắm
tình hình
- Tiến hành công tác điều tra cơ bản, nắm chắc diễn
biến tình hình hoạt động của tội phạm
buôn bán PNTE trên từng địa bàn và trong phạm vi toàn
quốc; xác định nguyên nhân, điều kiện,
dự báo xu hướng phát triển của tội
phạm buôn bán PNTE đến năm 2010.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu về tội
phạm buôn bán PNTE và thường xuyên bổ sung, cập
nhật các thông tin có liên quan.
- Tăng cường phối hợp trao đổi thông
tin về tội phạm buôn bán PNTE giữa các Bộ, ngành
liên quan, giữa các lực lượng nghiệp vụ
từ trung ương tới cơ sở để
kịp thời nắm bắt tình hình, phục vụ công
tác phòng ngừa, đấu tranh.
2. Công tác phòng
ngừa tội phạm buôn bán phụ nữ, trẻ em
- Các biện pháp phòng ngừa xã hội
Phối hợp với các ngành, đoàn thể tiến
hành đồng bộ các biện pháp đã được đề
ra trong Chương trình 130/CP và các đề án khác của
Chương trình. Trong đó cần chú ý thực hiện
một số mặt công tác tại cộng đồng
như:
+ Tổ chức tuyên truyền, vận động
quần chúng nhân dân tham gia bảo vệ ANTT ở cơ
sở; phát hiện tố giác các đối tượng có
hành vi lừa gạt, buôn bán PNTE; cảm hoá giáo dục các
đối tượng có quá khứ phạm tội buôn bán
PNTE để giúp họ sửa chữa lỗi lầm,
không tái phạm;
+ Quan tâm hỗ trợ, giúp đỡ PNTE có hoàn cảnh
khó khăn (như giúp tìm kiếm việc làm, giải
quyết các mâu thuẫn trong gia đình, ngăn ngừa
bạo lực đối với phụ nữ, trẻ em,
tư vấn pháp luật...) để họ có cuộc
sống ổn định, không bị bọn tội
phạm lừa gạt, buôn bán;
+ Xây dựng, củng cố mối quan hệ phối
hợp mật thiết giữa nhân dân với chính
quyền, nhất là với cơ quan Công an, Bộ
đội Biên phòng tại địa bàn cơ sở;
thiết lập đường dây nóng, hộp thư
tố giác tội phạm tại các địa bàn trọng
điểm phức tạp về buôn bán PNTE.
- Các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ:
+ Tăng cường công tác quản lý nhà nước
về an ninh trật tự trên từng địa bàn,
tập trung khắc phục các sơ hở, thiếu sót
trong công tác quản lý xuất nhập cảnh, quản lý
biên giới (nhất là biên giới phía Bắc và phía Tây Nam),
quản lý nhân hộ khẩu, quản lý việc đăng
ký kết hôn hoặc cho nhận con nuôi có yếu tố
nước ngoài, quản lý các ngành nghề kinh doanh du
lịch, khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng;
+ Nâng cao hiệu quả các mặt công tác nghiệp
vụ của lực lượng Công an, Bộ đội
Biên phòng để chủ động nắm tình hình và có
biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm
buôn bán PNTE. Đặc biệt phải bằng mọi
biện pháp để nắm chắc các đối
tượng có biểu hiện nghi vấn liên quan
đến các tổ chức, đường dây tội
phạm buôn bán PNTE, kể cả các đối tượng
là người nước ngoài, người Việt
sống ở nước ngoài thường xuyên nhập
cảnh về Việt Nam và có hành vi dụ dỗ, lừa
gạt buôn bán PNTE để chủ động phòng
ngừa, đấu tranh;
+ Tổ chức tốt công tác trực ban hình sự,
tiếp dân, giải quyết kịp thời các đơn
thư tố giác tội phạm, tăng cường
hoạt động tuần tra kiểm soát trên các tuyến
giao thông đường bộ, đường sắt,
đường thuỷ và địa bàn biên giới
trọng điểm phức tạp.
3. Công tác
điều tra, xử lý tội phạm buôn bán PNTE
- Tổ chức, hướng dẫn quần chúng, phát
huy vai trò chính quyền cơ sở trong việc phát
hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi dụ
dỗ lừa gạt buôn bán PNTE xảy ra tại cộng
đồng; cung cấp các thông tin, tài liệu về
tội phạm và phối hợp chặt chẽ với các
cơ quan bảo vệ pháp luật trong quá trình điều
tra, xử lý tội phạm buôn bán PNTE.
- Nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy
tố, xét xử tội phạm buôn bán PNTE. Sử dụng
đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ và pháp
luật để phát hiện, điều tra các vụ
phạm tội về buôn bán PNTE một cách khẩn
trương, triệt để; kiên quyết truy bắt các
đối tượng phạm tội bỏ trốn, tích
cực tìm kiếm và giải cứu nạn nhân bị buôn
bán. Đặc biệt phải tập trung chỉ
đạo, huy động các lực lượng có liên
quan, phối hợp chặt chẽ giữa Công an và Bộ
đội Biên phòng để điều tra, trấn áp,
triệt phá các tổ chức, đường dây tội
phạm buôn bán PNTE có tính chất xuyên quốc gia và quốc
tế.
- Nghiên cứu, sơ tổng kết công tác điều
tra, truy tố, xét xử tội phạm buôn bán PNTE
để nâng cao hiệu quả thực hiện công tác này,
đồng thời qua đó đề xuất,
hướng dẫn, bổ sung hoặc sửa đổi
các quy phạm pháp luật có liên quan phù hợp với tình
hình thực tế.
- Thực hiện tốt công tác quản lý, giáo dục
các đối tượng phạm tội buôn bán PNTE trong
các trại giam, cơ sở giáo dục. Khuyến khích,
động viên họ tích cực cải tạo và tự
giác cộng tác, giúp đỡ cơ quan Công an trong việc
phát hiện, đấu tranh chống tội phạm buôn bán
PNTE ngoài xã hội.
4. Nâng cao năng
lực và trình độ pháp lý cho cán bộ các cơ quan Công
an, Bộ đội Biên phòng, Viện Kiểm sát, Toà án nhân
dân trong công tác điều tra, truy tố, xét xử tội
phạm buôn bán PNTE
- Nghiên cứu biên soạn tài liệu và tổ chức
tập huấn, nâng cao năng lực và trình độ
về pháp luật và nghiệp vụ cho cán bộ trực
tiếp làm nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét
xử tội phạm buôn bán PNTE.
- Xây dựng lực lượng Cảnh sát chuyên trách
về đấu tranh chống tội phạm buôn bán PNTE
ở trung ương (thuộc Tổng cục Cảnh sát -
Bộ Công an) và ở Công an các tỉnh, thành phố
trọng điểm.
- Tăng cường đầu tư kinh phí, trang
thiết bị, phương tiện nghiệp vụ cho
lực lượng trực tiếp đấu tranh
chống tội phạm buôn bán PNTE.
5. Đẩy
mạnh hợp tác quốc tế trong đấu tranh
chống tội phạm buôn bán PNTE
- Tổ chức triển khai thực hiện tốt các
hiệp định, thoả thuận, biên bản ghi
nhớ đã ký kết giữa Việt Nam với các
nước về phòng, chống tội phạm buôn bán PNTE.
Đặc biệt phải tăng cường công tác
phối hợp giữa các cơ quan chức năng của
Việt Nam (Công an, Bộ đội Biên phòng) với các
cơ quan liên quan của Trung Quốc, Campuchia trong việc
trao đổi thông tin tài liệu về tội phạm buôn
bán PNTE, kiểm soát việc qua lại biên giới, sử
dụng giấy tờ, cư trú; kịp thời phối
hợp điều tra, truy tìm, bắt giữ đối
tượng phạm tội, giải cứu và trao trả
nạn nhân, giải quyết các vấn đề có liên quan
trong các vụ án về buôn bán PNTE theo yêu cầu của
mỗi bên phù hợp với luật pháp quốc gia,
quốc tế và điều khoản mà hai bên đã ký
kết, thoả thuận.
- Tăng cường hợp tác quốc tế trong
lĩnh vực trao đổi thông tin, cấp phát giấy
tờ, phát hiện giấy tờ giả, quản lý
giấy tờ bị mất, phối hợp xử lý
việc làm giả giấy tờ.
- Tiếp tục triển khai thực hiện các
chương trình, dự án hợp tác với các tổ
chức quốc tế như Quỹ nhi đồng Liên
hợp quốc (UNICEF), cơ quan phòng, chống ma tuý và
tội phạm Liên hợp quốc (UNODC), liên minh các tổ
chức Liên hợp quốc về phòng, chống buôn bán
người Tiểu vùng sông Mê Kông (INIAP) và các tổ
chức khác có liên quan nhằm tranh thủ sự giúp
đỡ về kinh nghiệm, tài chính của các tổ
chức quốc tế trong lĩnh vực phòng, chống
tội phạm buôn bán PNTE.
- Tăng cường hợp tác giữa lực
lượng Cảnh sát Việt Nam với tổ chức
Cảnh sát hình sự quốc tế (INTERPOL) và Cảnh sát
các nước trong khu vực trong việc phát hiện,
ngăn chặn, điều tra tội phạm buôn bán PNTE ra
nước ngoài và các tội phạm khác có liên quan,
đồng thời mở rộng hợp tác trong lĩnh
vực nghiên cứu, đào tạo, trao đổi kinh
nghiệm.
IV. KINH PHÍ VÀ
CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH THỰC HIỆN ĐỀ ÁN
1. Kinh phí thực
hiện
- Nguồn kinh phí thực hiện: sử dụng từ
nguồn kinh phí chi thường xuyên hàng năm của các
Bộ, cơ quan trung ương, các địa
phương và các nguồn kinh phí khác theo quy định
của pháp luật.
Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước tài trợ cho các đề án,
Chương trình phòng, chống tội phạm buôn bán PNTE.
- Việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và
thanh, quyết toán đối với kinh phí của các
đề án, chương trình hành động phòng,
chống tội phạm buôn bán PNTE được thực
hiện theo đúng các quy định hiện hành của
Luật Ngân sách nhà nước và các văn bản quy
phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện
Luật Ngân sách nhà nước.
- Căn cứ yêu cầu thực tế và những quy
định hiện hành, Bộ Công an lập dự toán kinh
phí thực hiện tiểu dự án 1, Bộ Quốc phòng
(Bộ đội Biên phòng) lập dự toán kinh phí
thực hiện tiểu dự án 2, báo cáo Chính phủ phê
duyệt.
2. Cơ chế,
chính sách thực hiện đề án
- Thành lập Ban Chủ nhiệm đề án (do 01
đồng chí lãnh đạo Tổng cục Cảnh sát
chủ trì, có một số thành viên cấp vụ, cục
thuộc Bộ Công an và một số Bộ, ngành khác tham
gia) để trực tiếp quản lý, điều hành,
tổ chức thực hiện đề án. Tại các
địa phương giao cho một đồng chí là thành
viên Ban Chỉ đạo 130 địa phương
trực tiếp theo dõi, chỉ đạo việc thực
hiện đề án tại địa phương.
Đề án thực hiện theo cơ chế lồng
ghép, phối hợp với Chương trình quốc gia
phòng, chống tội phạm và các đề án khác của
Chương trình 130.
V. TỔ
CHỨC THỰC HIỆN
1. Bộ Công an chủ trì thực hiện đề án có
trách nhiệm xây dựng tiểu dự án 1 (đấu tranh phòng, chống
tội phạm buôn bán PNTE trong khu vực nội
địa) nhằm thực hiện các nhiệm vụ và
giải pháp được nêu trong đề án theo phạm
vi chức năng nhiệm vụ của ngành Công an;
phối hợp với các bộ, ngành được nêu
trong đề án thực hiện các giải pháp theo chức
năng nhiệm vụ của từng ngành; Phối hợp
với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương chỉ đạo công an các
tỉnh, thành phố, giúp Ban Chỉ đạo 130 theo dõi,
đôn đốc các Bộ, ngành và địa phương
thực hiện đề án và tổng hợp kết
quả báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
2. Bộ Quốc phòng (Bộ Tư lệnh Bộ
đội Biên phòng) chủ trì xây dựng tiểu dự án
2 (đấu tranh chống tội phạm buôn bán PNTE khu
vực biên giới) nhằm triển khai thực hiện
các nhiệm vụ và giải pháp được nêu trong
đề án theo chức năng, nhiệm vụ và phạm
vi địa bàn quản lý của quân đội, tập
trung chủ yếu vào công tác đấu tranh chống
tội phạm buôn bán PNTE ở khu vực vùng biên giới,
vùng biển đảo. Chủ trì và phối hợp với
Bộ Công an xây dựng Quy chế phối hợp trong
đấu tranh chống tội phạm buôn bán PNTE giữa
hai lực lượng Công an và Quân đội (BĐBP)
để việc triển khai đề án đạt
hiệu quả cao.
3. Đề nghị Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao, Toà án nhân dân tối cao phối hợp cùng Bộ Công an,
Bộ Quốc phòng (Bộ Tư lệnh Bộ đội
Biên Phòng) làm tốt công tác điều tra, truy tố, xét xử
các vụ án về tội phạm buôn bán PNTE, có kế
hoạch chỉ đạo và thực hiện các giải
pháp khác của đề án trong thẩm quyền, chức
năng, nhiệm vụ của ngành.
4. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ
Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, Bộ Y tế,
Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em, Trung ương
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Ủy ban nhân
dân các cấp tổ chức dạy nghề, giải
quyết việc làm, tái hoà nhập cộng đồng cho
số PNTE bị buôn bán ra nước ngoài trở về,
đưa số bị mắc bệnh xã hội vào các
cơ sở chữa bệnh.
5. Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với
Bộ Công an và các Bộ, ngành khác lập kế hoạch
thực hiện những nhiệm vụ và giải pháp
được nêu trong đề án thuộc chức
năng của ngành Tư pháp, tập trung chủ yếu vào
việc nghiên cứu bổ sung và từng bước hoàn
chỉnh hệ thống pháp luật có liên quan đến
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn bán
PNTE, nhất là tội phạm buôn bán PNTE có tính quốc
tế.
6. Bộ Ngoại giao phối hợp cùng Bộ Công an và
các Bộ, ngành khác lập kế hoạch triển khai các
nhiệm vụ và giải pháp được nêu trong
đề án theo chức năng của ngành Ngoại giao,
chủ yếu tập trung vào việc mở rộng và nâng
cao tính hiệu quả của việc phối hợp
quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm buôn bán PNTE, đặc biệt là tội phạm
buôn bán PNTE có tính quốc tế, tội phạm là
người Việt ở nước ngoài theo đúng chính
sách pháp luật của nhà nước, phù hợp luật
pháp quốc tế.
7. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với
Bộ Kế hoạch và Đầu tư bố trí kinh phí
để thực hiện Chương trình hành động
phòng, chống tội phạm buôn bán PNTE trong dự toán kinh
phí chi thường xuyên hàng năm của các Bộ, cơ
quan trung ương và các địa phương theo đúng
các quy định hiện hành của Luật Ngân sách nhà
nước và các văn bản quy phạm pháp luật
hướng dẫn thực hiện Luật Ngân sách nhà
nước.
8. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang Bộ, các tổ chức xã hội và đoàn thể
quần chúng có kế hoạch phối hợp với
Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương để hướng dẫn,
chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra các cơ
quan, đơn vị trực thuộc triển khai thực
hiện đề án.
9. Ủy ban nhân dân và Ban Chỉ đạo 130 các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách
nhiệm lập kế hoạch và chỉ đạo
việc triển khai thực hiện đề án tại
địa phương, chọn các địa bàn chỉ
đạo điểm để rút kinh nghiệm nhân
rộng. Định kỳ 6 tháng, 1 năm có báo cáo Ban
Chỉ đạo 130 về kết quả cũng như
khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai
thực hiện đề án để kịp thời
chỉ đạo giải quyết.
10. Đề nghị Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Trung ương
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Tổng Liên
đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt
Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ
chức, đoàn thể xã hội, các cơ quan phát thanh,
truyền hình, các phương tiện thông tin đại
chúng trung ương và địa phương, các Bộ,
ngành khác, các cấp chính quyền phối hợp chặt
chẽ với Bộ Công an, Bộ đội Biên phòng trong
việc tuyên truyền, vận động giáo dục
đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân tích cực tham
gia thực hiện đề án.
VI. ĐỐI
TƯỢNG THỤ HƯỞNG VÀ HIỆU QUẢ KINH
TẾ Xà HỘI
Đối tượng thụ hưởng kết
quả triển khai thực hiện đề án là mọi
công dân Việt Nam, các ngành, đoàn thể, tổ chức xã
hội đặc biệt là PNTE Việt Nam.
Hiệu quả về kinh tế xã hội của
đề án
Phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm
buôn bán PNTE đạt hiệu quả tốt sẽ góp
phần tích cực bảo vệ PNTE, bảo đảm
sự ổn định chính trị và xã hội
trước mắt cũng như lâu dài, đồng
thời tạo cơ sở cho việc xây dựng một
xã hội công bằng, văn minh, lành mạnh, góp phần
xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội.
Đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn bán PNTE còn
góp phần thực hiện chính sách đối ngoại
mở cửa, hợp tác với nước ngoài về
chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội.
VII. KẾ
HOẠCH THỰC HIỆN CÁC HOẠT ĐỘNG CHỦ
YẾU CỦA ĐỀ ÁN
1. Kế hoạch
trong giai đoạn 1 (2005 - 2007)
- Năm 2005:
+ Thành lập Ban Chủ nhiệm và bộ phận
thường trực giúp việc Ban Chủ nhiệm
đề án ở trung ương, phân công nhiệm vụ
cho các thành viên Ban Chủ nhiệm, xây dựng và hoàn
thiện kế hoạch cụ thể thực hiện
đề án;
+ Tổ chức Hội nghị tập huấn,
triển khai thực hiện đề án ở trung
ương và các tỉnh, thành
phố trong toàn quốc;
+ Các địa phương xây dựng kế hoạch
cụ thể thực hiện đề án;
+ Bộ Công an phối hợp với Bộ Quốc phòng
tổ chức chỉ đạo điểm thực
hiện đề án tại 4 địa phương:
Quảng Ninh, Lạng Sơn, Tây Ninh, An Giang. Sau 1 năm có
sơ kết rút kinh nghiệm để chỉ đạo
chung.
- Năm 2006 - 2007:
+ Tiếp tục chỉ đạo các địa
phương thực hiện đề án một cách toàn
diện theo kế hoạch;
+ Tổ chức sơ kết việc thực hiện
đề án trong giai đoạn 1 (cuối quý IV năm
2007).
2. Kế hoạch
giai đoạn 2 (2008 - 2010)
- Ban Chủ nhiệm đề án lập kế hoạch
thực hiện đề án ở giai đoạn 2 và tham
mưu cho Ban Chỉ đạo 130 chỉ đạo các
Bộ, ngành, địa phương thực hiện.
- Tổng kết việc thực hiện đề án
(cuối năm 2010).