BỘ TÀI CHÍNH ------- Số: 14366/BTC-TCHQ V/v: Thủ tục hải quan đối với hàng XK có nguồn gốc thực vật | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc --------------- Hà Nội, ngày 24 tháng 10 năm 2013 |
Kính gửi: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Bộ Tài chính nhận được báo cáo của Tổng cục Hải quan về việc vướng mắc trong hệ thống tự động phân luồng hàng hóa xuất khẩu cụ thể như sau:
Theo quy định về thủ tục hải quan hiện nay, lô hàng xuất khẩu được phân “luồng xanh” được miễn kiểm tra hải quan, và hàng hóa được thông quan ngay sau khi doanh nghiệp hoàn thành việc khai báo hải quan trên mạng điện tử; lô hàng được phân “luồng xanh có điều kiện” là lô hàng được miễn kiểm tra hải quan nhưng công chức hải quan vẫn phải kiểm tra thủ công các yêu cầu về quản lý chuyên ngành (trong đó có yêu cầu về kiểm dịch), nếu lô hàng không phải kiểm dịch thì được thông quan sau khi kiểm tra, nếu lô hàng phải kiểm dịch thì doanh nghiệp nộp giấy chứng nhận kiểm dịch mới được thông quan hàng hóa.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Pháp lệnh Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật, Điều 8 và Điều 15 Nghị định số 02/2007/NĐ-CP ngày 05/01/2007 của Chính phủ và Thông tư số 40/2012/TT-BNNPTNT ngày 15/8/2012 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành Danh mục vật thể phải kiểm dịch thực vật thì hàng hóa xuất khẩu có nguồn gốc thực vật chỉ phải kiểm dịch trong các trường hợp sau:
a) Điều ước quốc tế quy định phải kiểm dịch;
b) Nước nhập khẩu hàng hóa yêu cầu phải kiểm dịch;
c) Hợp đồng mua bán hàng hóa yêu cầu kiểm dịch;
d) Chủ hàng hóa xuất khẩu yêu cầu kiểm dịch.
Vướng mắc đối với tiêu chí a và b nêu trên: Tổng cục Hải quan đang thiếu thông tin cụ thể về danh sách các nước có yêu cầu kiểm dịch; đối với tiêu chí c: bộ hồ sơ xuất khẩu không yêu cầu doanh nghiệp nộp hợp đồng mua bán hàng hóa (trừ lô hàng xuất khẩu có liên quan đến chính sách thuế). Do đó, để kiểm soát hàng hóa xuất khẩu có nguồn gốc thực vật, Tổng cục Hải quan đã phải mã hóa toàn bộ hàng hóa xuất khẩu có nguồn gốc thực vật ban hành kèm theo Thông tư số 40/2012/TT-BNNPTNT của Quý Bộ vào luồng xanh có điều kiện, dẫn đến việc phải kéo dài thời gian thông quan đối với lô hàng xuất khẩu không phải kiểm dịch.
Để tháo gỡ vướng mắc nêu trên, đồng thời để hoàn thiện thêm hệ thống quản lý rủi ro nhằm thông quan nhanh hàng hóa, Bộ Tài chính đề nghị Quý Bộ xem xét, phối hợp xử lý hai vấn đề thuộc thẩm quyền của Quý Bộ sau đây:
1. Về danh sách các nước có yêu cầu kiểm dịch thực vật:
Đề nghị Quý Bộ cung cấp thông tin về các điều ước quốc tế có yêu cầu kiểm dịch, tên các nước có yêu cầu kiểm dịch (nêu tại điểm a và b trên đây), gửi cho Tổng cục Hải quan để Tổng cục Hải quan cập nhật vào hệ thống quản lý rủi ro phân luồng hàng hóa tự động chính xác đối với từng lô hàng xuất khẩu vào các nước có yêu cầu kiểm dịch.
Thông tin cung cấp có thể dưới dạng văn bản, hoặc địa chỉ khai thác thông tin trên trang website của Quý Bộ.
2. Đối với lô hàng xuất khẩu có hợp đồng mua bán yêu cầu kiểm dịch:
Trong quá trình cải cách thủ tục hành chính, hiện nay quy định về bộ hồ sơ xuất khẩu không bắt buộc doanh nghiệp phải nộp hợp đồng mua bán hàng hóa, tuy nhiên để xác định lô hàng có hợp đồng mua bán yêu cầu phải kiểm dịch, công chức hải quan phải yêu cầu doanh nghiệp xuất trình toàn bộ hợp đồng mua bán để kiểm tra. Việc kiểm tra này không đáng có đối với lô hàng có hợp đồng mua bán không yêu cầu kiểm dịch.
Việc kiểm soát của cơ quan hải quan trong trường hợp này chỉ có tính chất hỗ trợ cho doanh nghiệp Việt Nam thực hiện đúng cam kết mua bán thương mại với chủ hàng nước ngoài.
Do đó, để tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp xuất khẩu, đồng thời tăng tính chủ động, tự chịu trách nhiệm thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp, Bộ Tài chính đề xuất trường hợp này thực hiện như sau:
- Về thủ tục hải quan: đối với lô hàng xuất khẩu có hợp đồng mua bán hàng hóa yêu cầu phải kiểm địch, cơ quan hải quan không yêu cầu doanh nghiệp phải nộp giấy chứng nhận kiểm dịch khi xuất khẩu hàng hóa;
- Về thủ tục kiểm dịch: doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa vẫn phải làm các thủ tục kiểm dịch đầy đủ với cơ quan kiểm dịch theo đúng quy định hiện hành, đồng thời tự chịu trách nhiệm về việc gửi giấy chứng nhận kiểm dịch cho đối tác nước ngoài theo hợp đồng mua bán đã ký kết.
Kính đề nghị Quý Bộ xem xét và sớm cho biết ý kiến về hai nội dung trao đổi trên đây.
| KT. BỘ TRƯỞNG THỨ TRƯỞNG Đỗ Hoàng Anh Tuấn |