Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Thông tư 36/2006/TT-BVHTT của Bộ Văn hoá-Thông tin về việc hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng ban hành kèm theo Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2007 của Chính phủ
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
- Báo lỗi
- Gửi liên kết tới Email
- In tài liệu
- Chia sẻ:
- Chế độ xem: Sáng | Tối
- Thay đổi cỡ chữ:17
- Chú thích màu chỉ dẫn
THÔNG TƯ
CỦA BỘ VĂN HÓA - THÔNG TIN SỐ 36/2006/TT-BVHTT
NGÀY 20 THÁNG 3 NĂM 2006 HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN MỘT SỐ
ĐIỀU CỦA QUY CHẾ ĐẶT TÊN, ĐỔI TÊN ĐƯỜNG, PHỐ VÀ
CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG BAN HÀNH KÈM THEO NGHỊ ĐỊNH
SỐ 91/2005/NĐ-CP NGÀY 11 THÁNG 7 NĂM 2005 CỦA CHÍNH PHỦ
Thi hành Nghị định số 91/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi tên đường, phố và công trình công cộng, Bộ Văn hóa - Thông tin hướng dẫn thực hiện một số điều của Quy chế này như sau:
Không đặt tên đường, phố hoặc công trình công cộng bằng các tên gọi khác nhau của một danh nhân trên cùng một địa bàn đô thị, trừ các trường hợp sau đây:
Danh từ có ý nghĩa tiêu biểu về chính trị, văn hóa, xã hội là những danh từ chung như Độc lập, Tự do, Dân chủ, Thống nhất, Giải phóng, Đồng khởi.... Những danh từ đó đều có thể sử dụng để đặt tên đường, phố hoặc công trình công cộng.
Ví dụ: Ngõ ở giữa số nhà 99 và 101 phố Nguyễn Du được gọi là:
NGÕ 99
PHỐ NGUYỄN DU
Trong trường hợp ngõ đã có tên gọi từ trước ngày Nghị định 91/2005/NĐ-CP có hiệu lực, tên ngõ đã ăn sâu vào tiềm thức của nhân dân mà không gây ảnh hưởng, tác động xấu trong xã hội thì có thể giữ lại tên ngõ.
Hội đồng tư vấn do Sở Văn hóa - Thông tin làm cơ quan thường trực, Tổ thư ký gồm thành viên của các cơ quan có liên quan.
Hồ sơ gửi tới Bộ Văn hóa - Thông tin (Cục Di sản văn hóa) gồm:
- Văn bản đề nghị của Ủy ban nhân dân thành phố;
- Tóm tắt ý nghĩa của tên dự kiến đặt cho đường, phố, công trình công cộng; mô tả tóm tắt về quy mô của đường, phố hoặc công trình công cộng đó;
- Sơ đồ vị trí đường, phố, công trình công cộng dự kiến đặt tên.
Cục Di sản văn hóa có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ và trình Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin để có văn bản trả lời trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ; trường hợp cần kéo dài thời gian cũng không quá 15 ngày.
Đối với đô thị loại nhỏ, kích thước biển có thể nhỏ hơn, nhưng phải đảm bảo thống nhất kích thước biển trong cùng một đô thị.
Kiểu chữ: Chữ in hoa không có chân, mầu trắng; từ đường hoặc từ phố ở dòng trên, từ tên đường hoặc tên phố ở dòng dưới và có cỡ chữ to hơn từ đường hoặc từ phố. Đô thị nào có lô-gô thì thể hiện lô-gô mầu trắng lên góc cao bên trái biển.
- Biển được gắn ở đầu, ở cuối đường, phố và ở các điểm giao nhau với đường, phố khác.
- Biển được gắn trên đầu cột sắt đường kính tối thiểu 10 cm, được chôn vững chắc, khoảng cách từ mặt đất đến đầu cột cao khoảng 250cm, vị trí cột ở gần mép góc vuông vỉa hè của hai đường, phố giao nhau; hai biển tên hai đường, phố giao nhau gắn vuông góc với nhau trên một cột. Tại nơi gắn biển có cột điện ở vị trí thích hợp thì biển có thể được gắn trên cột điện đó.
Thông tư này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc, các địa phương cần phản ánh về Bộ Văn hóa - Thông tin để kịp thời nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung.
Bộ trưởng
Phạm Quang Nghị
thuộc tính Thông tư 36/2006/TT-BVHTT
Cơ quan ban hành: | Bộ Văn hoá-Thông tin | Số công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 36/2006/TT-BVHTT | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Thông tư | Người ký: | Phạm Quang Nghị |
Ngày ban hành: | 20/03/2006 | Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Văn hóa-Thể thao-Du lịch |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Thông tư 36/2006/TT-BVHTT
THÔNG TƯ
CỦA BỘ VĂN HÓA - THÔNG TIN SỐ
36/2006/TT-BVHTT
NGÀY 20 THÁNG 3 NĂM 2006 HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN
MỘT SỐ
ĐIỀU CỦA QUY CHẾ ĐẶT TÊN, ĐỔI TÊN
ĐƯỜNG, PHỐ VÀ
CÔNG TRÌNH CÔNG CỘNG BAN HÀNH KÈM THEO NGHỊ ĐỊNH
SỐ 91/2005/NĐ-CP NGÀY 11 THÁNG 7 NĂM 2005 CỦA CHÍNH
PHỦ
Thi hành Nghị định số
91/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 của Chính phủ
về việc ban hành Quy chế đặt tên, đổi
tên đường, phố và công trình công cộng, Bộ
Văn hóa - Thông tin hướng dẫn thực hiện
một số điều của Quy chế này như sau:
I. Nguyên tắc về đặt
tên đường, phố và công trình công cộng
đối với danh nhân có tên gọi khác nhau
(Điều 6 của Quy chế)
1. Trong
lịch sử có một số danh nhân có các tên gọi khác
nhau (Ví dụ: Nguyễn Huệ, Quang Trung; Nguyễn Sinh Cung,
Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí
Minh;...), việc đặt tên được thực
hiện theo nguyên tắc sau:
Không đặt tên đường, phố hoặc công trình công cộng bằng các tên gọi khác nhau của một danh nhân trên cùng một địa bàn đô thị, trừ các trường hợp sau đây:
a)
Địa phương là quê hương của danh nhân (Ví
dụ: Thành phố Vinh có thể đặt tên
đường, phố hoặc công trình công cộng
bằng tên gọi Nguyễn Sinh Cung, Chủ tịch Hồ
Chí Minh).
b)
Địa phương gắn bó trực tiếp với
các mốc lịch sử cụ thể trong cuộc
đời hoạt động của danh nhân (Ví dụ:
thành phố Quy Nhơn, thành phố Huế có thể
đặt tên đường, phố hoặc công trình công
cộng bằng tên gọi Nguyễn Huệ, Quang Trung).
2.
Căn cứ vào ý nghĩa lịch sử, loại đô
thị, vị trí, quy mô đường, phố hoặc
công trình công cộng lớn hay nhỏ để đặt
tên cho tương xứng với tầm vóc của danh nhân.
II. Đặt tên
đường, phố (Mục 2 Chương 1 của
Quy chế)
1.
Từ "đường", "phố" đã
được sử dụng phổ biến ở
nhiều nước. Nhiều đô thị ở Việt
2.
Không đổi từ "đường" thành từ
"phố" hoặc từ "phố" thành từ
"đường" đã được viết trên
biển tên đường, phố và nhân dân đã quen
gọi là "đường" hoặc
"phố", trừ trường hợp thật
cần thiết.
III. Danh từ có ý nghĩa tiêu biểu về chính trị, văn hóa, xã hội (khoản 2 Điều 10 của Quy chế)
Danh
từ có ý nghĩa tiêu biểu về chính trị, văn
hóa, xã hội là những danh từ chung như Độc
lập, Tự do, Dân chủ, Thống nhất, Giải phóng,
Đồng khởi.... Những danh từ đó đều có thể sử
dụng để đặt tên đường, phố
hoặc công trình công cộng.
IV. Tên gọi ngõ (kiệt), ngách (hẻm) (Điều 13 của Quy chế)
1. Từ "ngõ", "kiệt", "ngách", "hẻm" được sử dụng theo ngôn ngữ của địa phương, nên từng đô thị có thể sử dụng các từ đó theo cách gọi của từng địa phương mình.
2.
Đầu đường, đầu phố là nơi
bắt đầu từ số nhà nhỏ nhất.
3.
Không đặt tên ngõ, ngách. Ngõ được gọi theo
biển số nhà nhỏ giữa hai số nhà đầu
ngõ, kèm theo tên đường hoặc phố.
Ví dụ: Ngõ ở giữa số nhà 99 và 101 phố Nguyễn Du được gọi là:
NGÕ
99
PHỐ
NGUYỄN DU
Trong
trường hợp ngõ đã có tên gọi từ
trước ngày Nghị định 91/2005/NĐ-CP có
hiệu lực, tên ngõ đã ăn sâu vào tiềm thức
của nhân dân mà không gây ảnh hưởng, tác động
xấu trong xã hội thì có thể giữ lại tên ngõ.
V. Hội đồng tư
vấn về đặt tên, đổi tên
đường, phố và công trình công cộng
1.
Thành phần Hội đồng tư vấn gồm
đại diện các cơ quan quản lý: Sở Văn hóa
- Thông tin, Sở Quy hoạch Kiến trúc, Sở Giao thông Công
chính, Sở Tài nguyên Môi trường; một số nhà nghiên
cứu về các lĩnh vực có liên quan.
Hội
đồng tư vấn do Sở Văn hóa - Thông tin làm
cơ quan thường trực, Tổ thư ký gồm thành
viên của các cơ quan có liên quan.
2.
Hội đông tư vấn có nhiệm vụ:
a)
Tổng kiểm kê tên các đường, phố và công trình
công cộng của các đô thị thuộc tỉnh, thành
phố đã được đặt tên. Mỗi đô
thị có hồ sơ riêng và tên được xếp theo
loại (tên địa đanh; danh từ có ý nghĩa tiêu
biểu; tên di tích lịch sử - văn hóa - danh lam
thắng cảnh; tên phong trào cách mạng, sự kiện
lịch sử, chiến thắng tiêu biểu; tên danh nhân);
mỗi loại tên được xếp theo thứ tự
A, B, C.
b)
Phát hiện những tên đường, phố trùng nhau,
chưa đúng hoặc chưa hợp lý để
đề nghị Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố xem
xét trình Hội đồng nhân dân cho sửa hoặc thay
đổi.
c)
Căn cứ vào các quy định tại Điều 6,
Điều 7, Điều 8, Điều 9, Điều 10,
Điều 11 của Quy chế đặt tên, đổi
tên đường, phố và công trình công cộng
để nghiên cứu xác lập ngân hàng tên (danh mục tên
được lựa chọn, lưu trữ) để có
thể sử dụng lâu dài cho việc đặt tên
đường, phố và công trình công cộng cần
đặt tên ở các đô thị của tỉnh, thành
phố. Ngân hàng tên này cũng được xếp
loại như nêu tại điểm a, khoản 2, Mục
V, kèm theo hồ sơ đầy đủ của mỗi
tên được đưa vào danh sách.
d)
Lựa chọn những tên phù hợp trong ngân hàng tên dự
kiến đặt tên đường, phố hoặc công
trình công cộng để Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố xem xét trình Hội đồng nhân dân tại các
kỳ họp.
VI. Hình thức lấy ý kiến
về dự kiến đặt tên, đổi tên
đường, phố và công trình công cộng
1. Tổ
chức hội nghị gồm đại diện các cơ
quan và các nhà khoa học về các lĩnh vực có liên quan
để lấy ý kiên.
2.
Công bố công khai dự kiến đặt tên hoặc
đổi tên đường, phố, công trình công cộng
để nhân dân tham gia ý kiến.
3. Ủy
ban nhân dân thành phố Hà Nội và Ủy ban nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh phải lấy ý kiến Bộ Văn
hóa - Thông tin về dự kiến đặt tên, đổi
tên công trình công cộng có quy mô lớn, có ý nghĩa quan
trọng, tên đường, phố trước khi trình
Hội đồng nhân dân thành phố.
Hồ
sơ gửi tới Bộ Văn hóa - Thông tin (Cục Di
sản văn hóa) gồm:
-
Văn bản đề nghị của Ủy ban nhân dân
thành phố;
- Tóm
tắt ý nghĩa của tên dự kiến đặt cho
đường, phố, công trình công cộng; mô tả tóm
tắt về quy mô của đường, phố hoặc
công trình công cộng đó;
-
Sơ đồ vị trí đường, phố, công trình
công cộng dự kiến đặt tên.
Cục
Di sản văn hóa có trách nhiệm nghiên cứu hồ
sơ và trình Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin
để có văn bản trả lời trong thời
hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ;
trường hợp cần kéo dài thời gian cũng không
quá 15 ngày.
VII. Biển tên đường,
phố
1. Kích
thước: Hình chữ nhật 75cm x 40cm.
Đối
với đô thị loại nhỏ, kích thước
biển có thể nhỏ hơn, nhưng phải
đảm bảo thống nhất kích thước
biển trong cùng một đô thị.
2.
Mầu sắc: Xanh lam sẫm;
đường viền trắng rộng 0,5cm cách mép ngoài
của biển từ 3cm đến 3,5cm, bốn góc
đường viền uốn cong đều vào bên trong.
3.
Chất liệu: Sắt tráng men hoặc nhôm lá dập,
sơn chất liệu phản quang.
4.
Chữ viết trên biển:
Kiểu
chữ: Chữ in hoa không có chân, mầu trắng; từ
đường hoặc từ phố ở dòng trên, từ
tên đường hoặc tên phố ở dòng dưới
và có cỡ chữ to hơn từ đường hoặc
từ phố. Đô thị nào có lô-gô thì thể hiện
lô-gô mầu trắng lên góc cao bên trái biển.
5.
Vị trí gắn biển:
-
Biển được gắn ở đầu, ở
cuối đường, phố và ở các điểm giao
nhau với đường, phố khác.
-
Biển được gắn trên đầu cột
sắt đường kính tối thiểu 10 cm,
được chôn vững chắc, khoảng cách từ
mặt đất đến đầu cột cao
khoảng 250cm, vị trí cột ở gần mép góc vuông
vỉa hè của hai đường, phố giao nhau; hai
biển tên hai đường, phố giao nhau gắn vuông
góc với nhau trên một cột. Tại nơi gắn
biển có cột điện ở vị trí thích hợp
thì biển có thể được gắn trên cột
điện đó.
VIII. Tổ chức thực
hiện
Thông tư này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc, các địa phương cần phản ánh về Bộ Văn hóa - Thông tin để kịp thời nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung.
Bộ trưởng
Phạm Quang Nghị
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Hiệu lực.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem VB liên quan.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây