Nghị quyết 55/2005/NQ-QH11 của về kết quả giám sát việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Nghị quyết 55/2005/NQ-QH11
Cơ quan ban hành: | Quốc hội | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 55/2005/NQ-QH11 | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 29/11/2005 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Lĩnh vực khác |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Nghị quyết 55/2005/NQ-QH11
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
NGHỊ QUYẾT
CỦA QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA Xà
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
SỐ 55/2005/QH11 NGÀY 29 THÁNG 11 NĂM 2005 VỀ KẾT
QUẢ
GIÁM SÁT VIỆC BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
CỦA CHÍNH PHỦ, THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ,
BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ, TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO, VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
Căn cứ vào Điều 84
của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa
đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10
ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ
họp thứ 10;
Căn cứ vào Luật hoạt
động giám sát của Quốc hội;
Trên cơ sở xem xét các báo cáo
của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao và Báo cáo của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội về việc ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và ý
kiến của các vị đại biểu Quốc
hội;
QUYẾT NGHỊ:
1. Quốc
hội tán thành báo cáo của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội về đánh giá kết quả đã đạt
được, những hạn chế, khuyết
điểm, nguyên nhân và một số giải pháp chủ
yếu để nâng cao chất lượng ban hành văn
bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh,
nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội.
Trong những
năm qua, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã có nhiều
cố gắng trong việc thực hiện nhiệm vụ
ban hành văn bản quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh, nghị
quyết. Việc bảo đảm tiến độ
cũng như việc thực hiện quy định
về thẩm quyền, trình tự và thủ tục ban hành
văn bản đã có nhiều tiến bộ; nội dung
các văn bản về cơ bản phù hợp với quy
định của Hiến pháp, luật, pháp lệnh,
nghị quyết, góp phần quan trọng vào việc
tiếp tục thể chế hoá đường lối,
chính sách của Đảng trên các lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội, làm cho hệ
thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, đầy
đủ hơn, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà
nước, quản lý xã hội bằng pháp luật.
Tuy nhiên,
việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật
để quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành luật, pháp lệnh, nghị quyết nhìn chung còn
chậm, không ít trường hợp quá chậm, chưa
đáp ứng yêu cầu triển khai thực hiện ngay
sau khi luật, pháp lệnh, nghị quyết có hiệu
lực. Công tác thẩm định có trường hợp
còn hình thức, chất lượng chưa cao, chưa có
sự phối hợp thống nhất giữa các bộ,
ngành; một số văn bản có nội dung còn thiếu
chi tiết, chưa phù hợp với quy định của
luật, pháp lệnh, nghị quyết hoặc còn chồng
chéo, mâu thuẫn. Việc kiểm tra các văn bản có
dấu hiệu vi phạm pháp luật chưa
được tiến hành thường xuyên và xử lý
kịp thời.
Quốc hội
nhấn mạnh một số nguyên nhân chủ yếu sau
đây của những hạn chế, khuyết
điểm trong việc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật:
Thứ
nhất, lãnh đạo một số cơ quan
được giao nhiệm vụ soạn thảo dự
thảo văn bản pháp luật chưa nhận thức
đầy đủ và quan tâm đúng mức đến
nhiệm vụ xây dựng văn bản quy phạm pháp
luật như là một trong những hoạt động
chủ yếu của công tác quản lý nhà nước, là
chức năng cơ bản của cơ quan nhà
nước, nên chưa đầu tư thích đáng
thời gian, công sức cho việc thực hiện
nhiệm vụ này. Do đó, việc ban hành thường
không kịp thời, một số dự thảo văn
bản không đạt yêu cầu. Sự phối hợp
giữa các cơ quan hữu quan trong việc ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật, nhất là các văn
bản liên ngành chưa chặt chẽ, thiếu
đồng bộ và còn hình thức. Việc xử lý vi
phạm trong việc ban hành văn bản quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh,
nghị quyết chưa tốt;
Thứ hai, trong
một số luật, pháp lệnh, nghị quyết,
nhiều quy định còn thiếu chi tiết, cụ
thể, mới dừng lại ở những nguyên tắc
chung, chưa xác định rõ những nội dung cụ
thể cần hướng dẫn thi hành cũng như chưa
chỉ rõ số lượng văn bản, cơ quan
chịu trách nhiệm soạn thảo, thời hạn ban
hành nên đã gây khó khăn cho cơ quan được giao
nhiệm vụ ban hành văn bản quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành;
Thứ ba, nhìn
chung đội ngũ cán bộ, công chức tham mưu,
nghiên cứu, soạn thảo văn bản quy phạm pháp
luật ở các cơ quan có thẩm quyền còn thiếu
về số lượng, yếu về chất
lượng. Một số lãnh đạo các cơ quan
chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp
luật có biểu hiện cục bộ đã đưa ra
những quy định tạo thuận lợi cho hoạt
động của bộ, ngành hoặc lĩnh vực do
mình quản lý;
Thứ tư,
chưa đầu tư kinh phí hợp lý cho việc ban hành
văn bản quy phạm pháp luật; chưa đáp ứng
kịp thời và đầy đủ các yêu cầu của
việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
Thứ năm,
Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc
hội và đại biểu Quốc hội chưa quan tâm
đúng mức đến hoạt động giám sát việc
ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc
lĩnh vực do mình phụ trách.
2. Để
nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp
luật, Quốc hội yêu cầu Uỷ ban thường
vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân
tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực
hiện tốt một số giải pháp sau đây:
a) Đề cao
trách nhiệm trong chỉ đạo, tổ chức
thực hiện công tác xây dựng luật, pháp lệnh,
nghị quyết và các văn bản quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành; đẩy nhanh
tiến độ soạn thảo và ban hành các văn bản
hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh, nghị
quyết; nâng cao chất lượng công tác thẩm
định của Bộ Tư pháp và công tác thẩm tra
của Văn phòng Chính phủ đối với các dự
thảo văn bản quy phạm pháp luật. Chính phủ,
bộ, cơ quan ngang bộ, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao thường xuyên
kiểm tra việc soạn thảo, ban hành văn bản
quy phạm pháp luật để phát hiện kịp
thời và xử lý những tồn tại, vướng
mắc trong công tác này. Trước mắt cần tổ
chức rà soát, xử lý ngay những văn bản quy
phạm pháp luật có vi phạm về nội dung, hình
thức, thẩm quyền ban hành và báo cáo kết quả
với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội. Đồng thời, trong báo cáo công tác
hằng năm trước Quốc hội, Chính phủ, Tòa
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
cần bổ sung nội dung đánh giá, kiểm
điểm việc ban hành văn bản quy phạm pháp
luật thuộc trách nhiệm của mình;
b) Cơ quan
trình dự án cần chỉ đạo Ban soạn thảo
bảo đảm tiến độ chuẩn bị dự
án; nghiên cứu, soạn thảo các dự thảo luật,
pháp lệnh quy định cụ thể để khi
được ban hành có thể thi hành được ngay,
hạn chế tối đa việc phải ban hành
nhiều văn bản hướng dẫn; thực
hiện đúng quy định khi trình Quốc hội,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội thông qua dự
thảo luật, pháp lệnh, nghị quyết phải kèm
theo đầy đủ các dự thảo văn bản
hướng dẫn thi hành. Quy định rõ ngay trong
luật, pháp lệnh những điều, khoản,
điểm cần ban hành văn bản hướng
dẫn, cơ quan ban hành, hình thức văn bản và
thời hạn ban hành theo đúng quy định tại
Điều 7 của Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật;
c) Quan tâm xây
dựng đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật cả về số
lượng và chất lượng; xây dựng cơ
chế huy động sự tham gia tích cực của các
chuyên gia, nhà khoa học vào công tác xây dựng dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật; tiếp tục
đổi mới cách thức phối hợp giữa các
cơ quan hữu quan trong công tác xây dựng pháp luật; xác
định rõ trách nhiệm và mối quan hệ phối
hợp giữa cơ quan chủ trì soạn thảo và các
cơ quan tham gia; đối với những luật, pháp
lệnh qua thực tế áp dụng có những nội dung
cần giải thích thì các cơ quan phải có văn
bản đề nghị cụ thể và phải chuẩn
bị dự thảo văn bản giải thích trình Uỷ
ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết
định; chuẩn bị kịp thời, có chất
lượng các dự án luật, pháp lệnh đã
được phân công;
d) Chính phủ
ban hành và tổ chức thực hiện tốt văn
bản quy phạm pháp luật về quy trình soạn
thảo, thẩm định và thông qua văn bản quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành
luật, pháp lệnh, nghị quyết thuộc thẩm
quyền của Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ;
đ) Hằng
năm, Chính phủ dự toán một khoản ngân sách
hợp lý cho việc xây dựng luật, pháp lệnh,
nghị quyết và văn bản quy định chi
tiết, hướng dẫn thi hành trình Quốc hội
quyết định.
3. Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chánh án Tòa án nhân
dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình chỉ đạo và tổ chức
thực hiện Nghị quyết này.
4. Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân
tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, đại
biểu Quốc hội giám sát việc thực hiện
Nghị quyết này; đối với những văn
bản hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh,
nghị quyết có dấu hiệu không hợp hiến,
hợp pháp và không bảo đảm tính thống nhất
của hệ thống pháp luật đã được
phát hiện thì tiến hành giám sát theo quy định của
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội
và báo cáo Quốc hội.
Nghị quyết này đã
được Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp
thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005.
Chủ tịch Quốc hội
Nguyễn Văn An