CHỈ THỊ
CỦA THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 218/TTg NGÀY 07 THÁNG 4 NĂM 1997 VỀ MỘT SỐ BIỆN PHÁP CẢI TIẾN LỀ LỐI LÀM VIỆC
CỦA CHÍNH PHỦ VÀ CHẾ ĐỘ THÔNG TIN, BÁO CÁO
Qua bốn năm thực hiện
Quy chế làm việc của Chính phủ ban hành kèm theo Nghị định số 13/CP ngày 1 tháng
12 năm 1992, lề lối làm việc và phong cách chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đã
có nhiều tiến bộ, góp phần nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước
trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, đến nay nhiều quy định trong Quy chế chưa được
thực hiện hoặc thực hiện chưa tốt, nhất là các quy định về thông tin, báo cáo,
hội họp, xử lý công việc hàng ngày của Thủ tướng; về quan hệ liên ngành, quan
hệ Trung ương với địa phương, trong việc ban hành các văn bản và kiểm tra việc
thực hiện.
Để tiếp tục cải tiến
lề lối và phong cách chỉ đạo, điều hành của Chính phủ theo tinh thần Nghị quyết
số 05/CP ngày 11 tháng 1 năm 1997, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị cho các Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Hội
đồng nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
thực hiện ngay một số việc sau đây:
I. VỀ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH CÔNG TÁC
CỦA CHÍNH PHỦ:
1. Tất cả các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải xây dựng chương trình công tác năm, 6 tháng,
quý và tháng của mình phù hợp với chương trình công tác của Chính phủ. Chương
trình công tác phải thể hiện rõ các mục tiêu, nhiệm vụ, biện pháp và tiến độ cụ
thể đối với từng việc do cấp mình xử lý, các việc phải xử lý liên ngành hoặc
phải trình cấp trên giải quyết. Thực hiện đúng nguyên tắc: giải quyểt công việc
theo thẩm quyền, nhanh chóng, coi trọng công tác phối hợp liên ngành, không đùn
đẩy công việc cho cơ quan khác hoặc cho cấp trên.
2. Thủ trưởng các cơ quan được giao nhiệm vụ chủ trì chuẩn
bị các đề án trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (Chủ đề án), phải đề ra kế
hoạch xây dựng các đề án (phân công bộ phận nghiên cứu, xác định nội dung, phạm
vi, các bước tiến hành... dự kiến thời hạn cụ thể của từng giai đoạn).
Văn phòng Chính phủ theo dõi và đôn đốc việc thực hiện các
kế hoạch này, bảo đảm mọi đề án trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và phải
được chuẩn bị kỹ về nội dung, đúng trình tự và thời hạn đề ra.
3. Trong quá trình chuẩn bị đề án, Chủ đề án đặc biệt chú ý
sự phối hợp xử lý liên ngành, trao đổi và tiếp thu ý kiến tham gia của các Bộ,
địa phương và các chuyên gia để hoàn chỉnh đề án, tập hợp các ý kiến khác nhau
về các nội dung của đề án và giải trình rõ lý do đối với ý kiến không được tiếp
thu.
Các cơ quan được hỏi ý kiến phải cử người có đủ thẩm quyền
đại diện cơ quan mình nêu ý kiến với Chủ đề án.
4. Về quy trình thông qua các đề án trình Chính phủ:
a. Chủ đề án phải hoàn chỉnh đề án với đầy đủ hồ sơ theo quy
định tại Điều 14, Quy chế làm việc của Chính phủ, gửi Văn phòng Chính phủ để
thẩm định.
b. Khi thẩm định đề án, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng
Chính phủ có quyền yêu cầu Chủ đề án và đại diện các cơ quan liên quan giải
trình thêm về những vấn đề còn chưa rõ, chưa thống nhất.
Những đề án chưa đủ điều kiện trình thì không đưa vào Chương
trình nghị sự của phiên họp Chính phủ.
c. Văn phòng Chính phủ gửi giấy mời họp Chính phủ kèm theo
tài liệu họp đến các thành viên Chính phủ trước phiên họp ít nhất 5 ngày.
d. Trong phiên họp, Chủ đề án chỉ trình bày những vấn đề còn
có ý kiến khác nhau, những vấn đề cần được biểu quyết, không đọc toàn bộ đề án
hoặc tờ trình. Các thành viên Chính phủ chỉ phát biểu ý kiến về những vấn đề
cần được làm rõ, hoặc chưa nhất trí. Kết quả thảo luận và thông qua từng đề án
được phản ánh trong Nghị quyết của Chính phủ tại mỗi phiên họp.
đ. Văn phòng Chính phủ chuẩn bị kết luận của Thủ tướng và dự
thảo Nghị quyết nói trên, trình Chính phủ thông qua ngay tại phiên họp.
5. Về quy trình thông qua các đề án trình Thủ tướng: Tất cả
các đề án trình Thủ tướng đều phải được chuẩn bị như đề án trình Chính phủ. Văn
phòng Chính phủ thẩm định, chủ trì xử lý trước những vấn đề chưa thống nhất
giữa Chủ đề án và các cơ quan liên quan; trình Thủ tướng Chính phủ, Phó thủ
tướng quyết định bằng hình thức phiếu trình. Nếu Thủ tướng, Phó Thủ tướng yêu
cầu, Văn phòng Chính phủ mời Chủ đề án, các cơ quan liên quan, các chuyên gia
tư vấn đến họp đề làm rõ thêm nội dung của đề án, trả lời các vấn đề Thủ tướng,
Phó thủ tướng đặt ra. Văn phòng Chính phủ cần cải tiến, giảm bớt các cuộc họp,
dành thời gian để Thủ tướng, các Phó thủ tướng đi kiểm tra tình hình ở các
ngành, địa phương, cơ sở và nghiên cứu để đề ra các chủ trương lớn.
6. Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ tổ chức ban
hành kịp thời các văn bản thể chế hoá quyết định của Thủ tướng, Phó thủ tướng
tại các Phiếu trình, các cuộc họp và ra thông báo để thông tin nhanh, đôn đốc
các cơ quan liên quan thực hiện những nhiệm vụ do Thủ tướng, Phó thủ tướng
giao.
7. Căn cứ quy trình trên đây, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố quy định cụ thể quy
trình giải quyết công việc trong cơ quan mình, chấn chỉnh lề lối làm việc của
các đơn vị cấp dưới, bảo đảm giải quyết công việc nhanh, hiệu quả cao.
II. VỀ BAN HÀNH CÁC VĂN BẢN
QUY PHẠM PHÁP LUẬT:
1. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các cấp phải tổ chức quán triệt và thực hiện
đúng luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Việc soạn thảo các văn bản hướng
dẫn nhất thiết phải đi liền với việc soạn thảo văn bản chính để khi văn bản
chính có hiệu lực thì thực hiện được ngay. Trong quá trình dự thảo, phải lấy ý
kiến của các cơ quan và đối tượng có liên quan để bảo đảm tính khả thi của văn
bản. Khi sửa đổi hoặc bãi bỏ những quy định, những văn bản trước, phải chỉ rõ
điều, khoản, tên văn bản đã sửa đổi, bãi bỏ, không ghi chung chung.
2. Các Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ về những chủ
trương, chính sách lớn (theo Điều 19, Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9
năm 1992) phải được Chính phủ thông qua tại các phiên họp. Đối với những vấn đề
khác, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ gửi dự thảo văn bản lấy ý kiến
của các thành viên Chính phủ, căn cứ vào ý kiến của đa số thành viên, hoàn
chỉnh dự thảo trình Thủ tướng Chính phủ duyệt ký và ban hành.
3. Tất cả các văn bản quy phạm pháp luật của các Bộ, ngành,
địa phương hoặc liên ngành đều phải gửi Thủ tướng Chính phủ để báo cáo. Văn bản
do các cơ quan cấp Trung ương ban hành phải gửi đăng công báo theo quy định.
III. VỀ CHẾ ĐỘ THÔNG TIN, BÁO CÁO:
1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, UBND cấp tỉnh chỉ đạo chấn chỉnh công
tác thông tin, báo cáo từ các đơn vị cơ sở, tăng cường hệ thống thông tin nội
bộ, phối hợp trao đổi thông tin theo chiều ngang, bảo đảm thông tin hai chiều,
phục vụ có hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước từ Trung ương đến địa phương và
cơ sở.
2. Việc lập và gửi các báo cáo định kỳ, đột xuất và chuyên
đề đến Thủ tướng Chính phủ phải đúng yêu cầu về nội dung và thời gian nêu trong
Quyết định 162/TTg ngày 12 tháng 12 năm 1992. Các báo cáo cần đánh giá rõ những
việc đã làm được, chưa làm được, những khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân và đề
xuất với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ các giải pháp xử lý.
a. Về báo cáo định kỳ:
Ngoài các báo cáo định kỳ như đã ghi trong Quyết định
162/TTg, tại các phiên họp thường kỳ của Chính phủ, Bộ trưởng Bộ kế hoạch và
Đầu tư báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội kỳ trước,
kiến nghị những giải pháp để thực hiện nhiệm vụ kế hoạch của kỳ tiếp theo.
Các tổng công ty Nhà nước (Tổng công ty 91), Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam, liên minh Hợp tác xã Việt Nam định kỳ báo cáo với
Thủ tướng Chính phủ về tình hình hoạt động của tổ chức mình, kiến nghị với
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ những vấn đề cần giải quyết.
b. Về báo cáo đột xuất:
Khi xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra các biến động bất thường
về tự nhiên, tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại
giao thuộc lĩnh vực, địa bàn quản lý, các cơ quan có trách nhiệm phải kịp thời
báo cáo Thủ tướng Chính phủ bằng các phương tiện nhanh nhất. Sự việc xảy ra đến
đâu, phải báo cáo ngay đến đó, không đợi kết thúc hoặc giải quyết xong mới báo
cáo. Báo cáo phải nêu rõ diễn biến của sự việc, nguyên nhân phát sinh, những
biện pháp khắc phục, phòng ngừa; kết quả của việc xử lý và những kiến nghị với
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
c. Về báo cáo chuyên đề:
Là các báo cáo chuyên sâu vào một nhiệm vụ công tác, một vấn
đề quan trọng. Văn phòng Chính phủ thông báo và đôn đốc các cơ quan hoàn thành
các báo cáo này theo đúng nội dung và thời gian Thủ tướng yêu cầu.
3. Văn phòng Chính phủ lập các báo cáo sau đây:
a. Báo cáo nhanh hàng ngày Thủ tướng và các Phó thủ tướng;
b. Báo cáo nửa tháng về hoạt động của Thủ tướng và các Phó
thủ tướng, gửi đến: Thường vụ Bộ Chính trị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ
tịch Quốc hội, Thủ tướng và các Phó Thủ tướng, các Cố vấn Ban chấp hành Trung
ương Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc
hội. Báo cáo được gửi vào ngày 02 và ngày 17 hàng tháng;
c. Báo cáo hàng tháng về tình hình kinh tế - xã hội và sự
chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, gửi đến: Thường vụ Bộ
Chính trị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, các Uỷ ban của Quốc
hội, Thủ tướng và các Phó Thủ tướng, Văn phòng Trung ương và các Ban của Đảng,
Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, của các đoàn thể. Báo cáo được gửi vào ngày 02 của tháng sau;
d. Báo cáo kiểm điểm sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ hàng
năm và Chương trình công tác năm sau, gửi đến các địa chỉ như báo cáo tháng
(sau khi đã được Chính phủ thông qua tại phiên họp cuối năm);
đ. Các báo cáo chuyên đề được chuẩn bị theo yêu cầu của Thủ
tướng, Phó Thủ tướng Chính phủ.
4. Văn phòng Chính phủ có nhiệm vụ: tổ chức họp báo đình kỳ
hàng tháng và theo chuyên đề; phối hợp với Thông tấn xã Việt Nam, Đài tiếng nói
Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam, Báo nhân dân và các cơ quan thông tin đại
chúng khác tổ chức thông tin rộng rãi cho nhân dân biết những hoạt động chủ yếu
và những quyết định quan trọng của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; xác định rõ
nhu cầu và định hướng thông tin phục vụ việc quản lý, điều hành của Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ trong từng giai đoạn; tập hợp dư luận xã hội để phục vụ sự
chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và phục vụ việc nghiên cứu, sửa đổi
cơ chế, chính sách; cải tiến cách thức in và phát hành Công báo, bảo đảm các
yêu cầu chính xác, kịp thời, khoa học.
5. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp phải thực hiện tốt việc thông tin cho
nhân dân về các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước (trừ những nội dung
thuộc bí mật quốc gia). Các cơ quan không tuỳ tiện sử dụng các loại dấu Mật để
hạn chế thông tin.
6. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và cơ quan
thuộc Chính phủ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp phải
tăng cường mối quan hệ thường xuyên với các cơ quan thông tin đại chúng, kể cả các
cơ quan thông tấn báo chí nước ngoài đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam để
thông tin các cơ chế, chính sách của Đảng và Chính phủ liên quan đến ngành, địa
phương mình; tổ chức điểm báo hàng ngày, xem xét các vấn đề báo, đài đã nêu để
kịp thời giải đáp, giải thích hoặc có biện pháp khắc phục những sai sót của cán
bộ, cơ quan mình; đồng thời đấu tranh với những trường hợp lợi dụng báo chí để
thông tin sai sự thật.
7. Áp dụng rộng
rãi nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân như thông báo
qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua công tác xuất bản, yết thị các văn
bản pháp luật tại nơi công cộng... để mọi người dân có điều kiện hiểu biết về
các quy định của Nhà nước, nhất là các quy định có liên quan thiết thực đến đời
sống, sản xuất - kinh doanh; tổ chức các hòm thư dân nguyện, tạo điều kiện để
nhân dân cung cấp thông tin cho các cơ quan Nhà nước. Đây là những hình thức để
nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
1. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội
đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải tiến hành kiểm điểm việc thực
hiện Quy chế làm việc của Chính phủ và Quyết định 162/TTg, đặc biệt đối với các
nội dung và nhiệm vụ có liên quan đến ngành, cấp mình về những mặt đã làm được
và chưa làm được, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm; kiến nghị sửa đổi,
bổ sung các văn bản trên.
Văn phòng Chính phủ hướng dẫn, theo dõi và đôn đốc các cơ
quan thực hiện việc kiểm điểm này, tổng hợp các kiến nghị, báo cáo Thủ tướng
Chính phủ trước ngày 30 tháng 5 năm 1997; đồng thời ban hành Quy trình lập
chương trình công tác và phục vụ các phiên họp của Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ.
2. Các Bộ, ngành, địa phương có kế hoạch sử dụng có hiệu quả
các trang thiết bị, phương tiện hiện có để thực hiện tốt công tác thông tin báo
cáo; chủ động áp dụng công nghệ tin học vào hoạt động quản lý. Văn phòng Chính
phủ chủ trì, phối hợp với Ban chỉ đạo Chương trình quốc gia về công nghệ thông
tin, các Bộ, ngành, địa phương thực hiện việc xây dựng mạng thông tin vi tính
trong phạm vi toàn quốc, thực hiện Nghị quyết số 49/CT ngày 3 tháng 8 năm 1993
của Chính phủ về phát triển công nghệ thông tin.
3. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các Bộ, ngành, địa phương,
Văn phòng Chính phủ chủ trì phối hợp với Ban tổ chức - Cán bộ Chính phủ soạn
thảo văn bản sửa đổi bổ sung quy chế làm việc của Chính phủ, trình Chính phủ
ban hành trong Quý IV năm 1997.
4. Văn phòng Chính phủ chủ trì, phối hợp với Bộ văn hoá -
Thông tin, Bộ ngoại giao và các cơ quan liên quan, nghiên cứu trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành trong Quý II năm 1997 Quy chế về cung cấp thông tin, Quy chế
Người phát ngôn của Chính phủ, thống nhất đầu mối thông tin về các hoạt động
của Chính phủ.
5. Văn phòng Chính phủ và Tổng cục Bưu điện phối hợp với các
cơ quan liên quan nghiên cứu thiết lập trong quý II năm 1997 một hệ thống điện
thoại để Thủ tướng có thể trực tiếp làm việc với các Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh.
6. Bộ Nội vụ và Ban cơ yếu của Chính phủ phối hợp với các cơ
quan liên quan đánh giá việc bảo mật truyền tin bằng các phương tiện điện tử
hiện nay trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, báo cáo Thủ tướng Chính phủ; đồng
thời nghiên cứu để ban hành trong quý II năm 1997 các quy định về bảo mật
truyền tin qua các phương tiện điện tử.
7. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ và các cơ quan
thuộc Chính phủ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương tổ chức quán triệt và thực hiện Chỉ thị này. Văn phòng
Chính phủ theo dõi, đôn đốc và định kỳ báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả thực
hiện Chỉ thị.