Chỉ thị 27/2007/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh việc thực hiện chế độ thông tin, báo cáo trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước
- Tóm tắt
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Chỉ thị 27/2007/CT-TTg
Cơ quan ban hành: | Thủ tướng Chính phủ | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 27/2007/CT-TTg | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Chỉ thị | Người ký: | Nguyễn Tấn Dũng |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 29/11/2007 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Hành chính |
TÓM TẮT VĂN BẢN
* Chế độ thông tin, báo cáo - Ngày 29/11/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 27/2007/CT-TTg về chấn chỉnh việc thực hiện chế độ thông tin, báo cáo trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Thủ tướng yêu cầu: các cơ quan hành chính nhà nước chấp hành nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo theo quy định hiện hành; coi kết quả chấp hành chế độ thông tin, báo cáo là một tiêu chí đánh giá chất lượng công tác của cá nhân, tổ chức; kiểm điểm xử lý nghiêm cá nhân, tổ chức không chấp hành hoặc thực hiện không nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo theo quy định… Bện cạnh đó, thực hiện chế độ người phát ngôn, định kỳ cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước cho người dân, doanh nghiệp và các cơ quan thông tin đại chúng bằng nhiều hình thức, bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời… Thực hiện công bố danh mục, lộ trình các dịch vụ hành chính công trên Trang tin điện tử và có trách nhiệm hướng dẫn thực hiện các dịch vụ hành chính công do cơ quan hành chính nhà nước cung cấp... Chỉ thị này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Xem chi tiết Chỉ thị 27/2007/CT-TTg tại đây
tải Chỉ thị 27/2007/CT-TTg
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
CHỈ THỊ
CỦA THỦ TƯỚNG
CHÍNH PHỦ SỐ
27/2007/CT-TTg NGÀY 29 THÁNG 11 NĂM 2007
VỀ
CHẤN CHỈNH VIỆC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ THÔNG TIN, BÁO CÁO
TRONG
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Thời gian qua, công
tác thông tin, báo cáo nhìn chung đã góp phần bảo đảm sự chỉ đạo, điều hành của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của các Bộ, ngành và địa phương. Tuy nhiên,
việc thực hiện công tác thông tin, báo cáo vẫn còn nhiều hạn chế: thông tin
chậm, chưa đầy đủ; việc phối hợp trao đổi thông tin giữa các cơ quan hành chính
nhà nước còn hình thức; nội dung báo cáo còn sơ sài, chất lượng thấp, thiếu
tính tổng hợp; việc gửi báo cáo còn chậm và chưa đúng thẩm quyền; phương thức
gửi và nhận báo cáo còn lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào giấy tờ hành chính.
Nguyên nhân chủ yếu
của những tồn tại trên là do thủ trưởng cơ quan, đơn vị, địa phương chưa quan
tâm đúng mức đến việc chỉ đạo thực hiện công tác thông tin, báo cáo trong
ngành, lĩnh vực, địa phương mình phụ trách; kỷ luật thông tin, báo cáo chưa
nghiêm; công tác thông tin, báo cáo chậm được rà soát, sửa đổi, bổ sung và đổi
mới cho phù hợp với yêu cầu quản lý trong tình hình mới; việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong xử lý thông tin, báo cáo chưa được chú trọng và còn
thiếu đồng bộ; đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác thông tin, báo cáo ít được
quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, kỹ năng thu thập, xử lý thông tin và trình độ biên
tập báo cáo còn nhiều hạn chế.
Để khắc phục những tồn
tại nêu trên, tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước đáp ứng yêu cầu
chỉ đạo, điều hành trong tình hình mới, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị:
1. Các Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm:
a) Chỉ đạo việc rà
soát các quy định về chế độ thông tin, báo cáo nêu tại Quyết định số 162/TTg
ngày 12 tháng 12 năm 1992, Chỉ thị số 218/TTg ngày 07 tháng 4 năm 1997 của Thủ
tướng Chính phủ và các văn bản khác có liên quan, đề xuất với Thủ tướng Chính
phủ các biện pháp cải tiến, đổi mới công tác thông tin, báo cáo phù hợp với yêu
cầu của tình hình mới. Báo cáo gửi về Văn phòng Chính phủ trước ngày 20 tháng
02 năm 2008 để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ;
b) Chấn chỉnh và đổi
mới việc thực hiện công tác thông tin, báo cáo trong phạm vi quản lý của Bộ, ngành,
địa phương; tăng cường công tác phối hợp, cung cấp, trao đổi thông tin với các
Bộ, ngành và địa phương khác; bảo đảm thông tin thông suốt, kịp thời, phục vụ
có hiệu quả hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ từ trung ương đến địa phương;
c) Củng cố, tăng cường
bộ phận cán bộ chuyên trách làm công tác thông tin, báo cáo, tổ chức tập huấn,
đào tạo để nâng cao trình độ thu thập, xử lý thông tin, biên tập báo cáo; trang
bị các phương tiện kỹ thuật cần thiết cho bộ phận thông tin, báo cáo;
d) Chấp hành nghiêm
túc chế độ thông tin, báo cáo theo quy định hiện hành; coi kết quả chấp hành
chế độ thông tin, báo cáo là một tiêu chí đánh giá chất lượng công tác của cá
nhân, tổ chức; kiểm điểm xử lý nghiêm cá nhân, tổ chức không chấp hành hoặc
thực hiện không nghiêm túc chế độ thông tin, báo cáo theo quy định;
đ) Thực hiện chế độ
người phát ngôn, định kỳ cung cấp thông tin về hoạt động của cơ quan hành chính
nhà nước cho người dân, doanh nghiệp và các cơ quan thông tin đại chúng bằng
nhiều hình thức, bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, kịp thời theo đúng Quyết
định số 77/2007/QĐ-TTg ngày 28 tháng 5 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ;
e) Tăng cường ứng dụng
công nghệ thông tin trong công tác thông tin, báo cáo; sử dụng văn bản điện tử
để từng bước thay thế văn bản giấy trong quản lý, điều hành và trao đổi thông
tin; cải tiến và chuẩn hoá quy trình công việc liên quan đến các hoạt động nội
bộ, giao dịch với các cơ quan hành chính nhà nước và giao dịch với các cá nhân,
tổ chức trên môi trường mạng. Thực hiện kết nối mạng máy tính của các Bộ, ngành
và địa phương với Văn phòng Chính phủ để gửi, trao đổi, xử lý văn bản theo yêu
cầu tại Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 4 năm 2007 của Chính phủ về
ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước;
g) Cung cấp đầy đủ
thông tin trên Trang tin điện tử, mạng tin học diện rộng của cơ quan hành chính
nhà nước về các văn bản quy phạm pháp luật, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
cần xin ý kiến của cá nhân, tổ chức; thông tin chỉ đạo điều hành và chính sách,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thuộc ngành, lĩnh vực, địa phương phụ trách;
h) Tổ chức chuyên mục
tiếp nhận ý kiến đóng góp của cá nhân, tổ chức về cơ chế, chính sách, thủ tục
hành chính trên Trang tin điện tử của Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh;
i) Thực hiện công bố
danh mục, lộ trình các dịch vụ hành chính công trên Trang tin điện tử và có
trách nhiệm hướng dẫn thực hiện các dịch vụ hành chính công do cơ quan hành
chính nhà nước cung cấp;
k) Quy định việc số
hoá, lưu trữ, cập nhật và chia sẻ dữ liệu thông tin, báo cáo qua mạng điện tử
của Bộ, ngành và địa phương (trừ các thông tin, báo cáo mật) để mọi tổ chức, cá
nhân có thể khai thác, sử dụng;
l) Chịu trách nhiệm
trước Thủ tướng Chính phủ về việc lập và gửi các báo cáo định kỳ, báo cáo đột
xuất, báo cáo chuyên đề theo đúng nội dung và thời hạn yêu cầu. Nội dung các
báo cáo gửi Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phải bảo đảm yêu cầu nghiêm túc,
trung thực; báo cáo phải được duyệt, ký đúng thẩm quyền.
2. Bộ trưởng, Chủ
nhiệm Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm:
a) Chấn chỉnh và tăng
cường công tác thông tin, báo cáo tại Văn phòng Chính phủ, bảo đảm cung cấp
thông tin kịp thời cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; định kỳ hàng quý kiểm
tra, tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ tình hình thực hiện công tác thông
tin, báo cáo của các Bộ, ngành và địa phương; nêu rõ những đơn vị làm tốt và
những Bộ, ngành, địa phương thực hiện không nghiêm túc công tác thông tin, báo
cáo hoặc thông tin, báo cáo không đầy đủ, thiếu chính xác;
b) Khẩn trương triển
khai các giải pháp phát triển Cổng thông tin điện tử của Chính phủ; nâng cấp,
chuẩn hoá hệ thống thông tin, báo cáo điện tử qua Mạng tin học diện rộng của
Chính phủ, đồng thời phát triển các ứng dụng truyền thông đa phương tiện phục
vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;
c) Tổng hợp kết quả rà
soát các quy định về chế độ thông tin, báo cáo của các Bộ, ngành, địa phương
nêu tại điểm a, mục 1 Chỉ thị này; đề xuất với Thủ tướng Chính phủ giải
pháp đổi mới công tác thông tin, báo cáo.
Chỉ thị này có hiệu
lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Các Bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm tổ chức thực
hiện Chỉ thị này.
Văn phòng Chính phủ
chịu trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện Chỉ thị này./-
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng