- Tổng quan
- Nội dung
- Tiêu chuẩn liên quan
- Lược đồ
- Tải về
Tiêu chuẩn TCVN 14482:2025 Công nghệ thông tin - Tính toán đám mây và nền tảng phân tán - Nguyên tắc phân loại cho nền tảng số
| Số hiệu: | TCVN 14482:2025 | Loại văn bản: | Tiêu chuẩn Việt Nam |
| Cơ quan ban hành: | Bộ Khoa học và Công nghệ | Lĩnh vực: | Khoa học-Công nghệ |
|
Ngày ban hành:
Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành.
|
05/08/2025 |
Hiệu lực:
|
Đã biết
|
| Người ký: | Đang cập nhật |
Tình trạng hiệu lực:
Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,...
|
Đã biết
|
TÓM TẮT TIÊU CHUẨN VIỆT NAM TCVN 14482:2025
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 14482:2025
TIÊU CHUẨN QUỐC GIA
TCVN 14482:2025
ISO/IEC TS 5928:2023
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN - TÍNH TOÁN ĐÁM MÂY VÀ NỀN TẢNG PHÂN TÁN - NGUYÊN TẮC PHÂN LOẠI CHO NỀN TẢNG SỐ
Information technology - Cloud computing and distributed platforms - Taxonomy for digital platforms
Nội dung
Lời nói đầu
1 Phạm vi áp dụng
2 Tài liệu viện dẫn
3 Thuật ngữ và định nghĩa
3.1 Thuật ngữ cơ bản
3.2 Thuật ngữ liên quan đến sự tham gia nền tảng
3.3 Các thuật ngữ liên quan đến các nền tảng công nghệ số
3.4 Các thuật ngữ liên quan đến nền tảng kinh tế số
4 Chữ viết tắt
5 Tổng quan về nền tảng số
5.1 Tổng quan
5.2 Sự không rõ ràng của “nền tảng” cho các dịch vụ số
5.3 Đặc điểm của nền tảng số
6 Nền tảng công nghệ số
6.1 Quy định chung
6.2 Các loại khả năng dịch vụ đám mây biểu thị nền tảng công nghệ số
6.3 Dịch vụ đám mây cung cấp loại khả năng hạ tầng
6.4 Dịch vụ đám mây cung cấp loại khả năng nền tảng
6.5 Nền tảng phát triển phần mềm
6.6 Ví dụ về nền tảng công nghệ số trong bối cảnh
6.7 Nền tảng công nghệ một chiều và nhiều chiều
7 Nền tảng kinh tế số
7.1 Tổng quan
7.2 Đặc điểm chung của nền tảng kinh tế số
7.3 Ví dụ về nền tảng kinh tế số
8 Tác động của đặc điểm nền tảng đến hành vi của người tham gia
8.1 Tổng quan
8.2 Hiệu ứng mạng
8.3 Sự trì trệ của khách hàng
8.4 Tính kết dính
9 Quan sát và kết luận
Phụ lục A (tham khảo) Hệ thống bậc phân loại minh họa
Phụ lục B (tham khảo) So sánh hiệu ứng kiếm tiền và hiệu ứng mạng
Thư mục tài liệu tham khảo
Lời nói đầu
TCVN 14482:2025 hoàn toàn tương đương với ISO/IEC TS 5928:2023.
TCVN 14482:2025 do Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia TCVN/JTC 1 “Công nghệ thông tin" biên soạn, Viện Tiêu chuẩn Chất lượng Việt Nam đề nghị, Ủy ban Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng quốc gia thẩm định, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN - TÍNH TOÁN ĐÁM MÂY VÀ NỀN TẢNG PHÂN TÁN - NGUYÊN TẮC PHÂN LOẠI CHO NỀN TẢNG SỐ
Information technology - Cloud computing and distributed platforms - Taxonomy for digital platforms
1 Phạm vi áp dụng
Tiêu chuẩn này quy định nguyên tắc phân loại liên quan đến nền tảng số bằng cách cung cấp các định nghĩa và thông tin hỗ trợ giúp phân biệt các cách sử dụng khác nhau của thuật ngữ nền tảng khi áp dụng cho các dịch vụ số (như tính toán đám mây và các hệ thống tính toán phân tán khác).
2 Tài liệu viện dẫn
Các tài liệuviện dẫn dưới đây là cần thiết cho việc áp dụng tiêu chuẩn này. Đối với các tài liệu ghi năm công bố thì áp dụng phiên bản được nêu. Đối với các tài liệu viện dẫn không ghi năm công bố thì áp dụng phiên bản mới nhất, bao gồm cả các sửa đổi, bổ sung (nếu có).
TCVN 13809-1 (ISO/IEC 22123-1), Công nghệ thông tin - Tính toán mây - Phần 1: Từ vựng;
TCVN 13811 (ISO/IECTS 23167), Công nghệ thông tin - Tính toán mây - Các công nghệ và kỹ thuật phổ biến.
3 Thuật ngữ và định nghĩa
Tiêu chuẩn này áp dụng các thuật ngữ và định nghĩa trong TCVN 13809-1 (ISO/IEC 22123-1), TCVN 13811 (ISO/IEC TS 23167) và các thuật ngữ và định nghĩa dưới đây.
3.1 Thuật ngữ cơ bản
3.1.1
Dịch vụ số(digital service)
Dịch vụ do một bên cung cấp cho một bên khác thông qua công nghệ phần cứng hoặc phần mềm số, hoặc cả hai, bao gồm cả giao tiếp qua mạng.
CHÚ THÍCH 1: Trong bối cảnh của tiêu chuẩn này, một dịch vụ bao gồm một hoặc nhiều khả năng số như tính toán đám mây, tính toán biên hoặc một số khả năng tính toán phân tán khác. Một dịch vụ như vậy phải tuân theo hợp đồng và thường có chất lượng dịch vụ, điều khoản và điều kiện sử dụng được xác định.
CHÚ THÍCH 2: Dịch vụ đám mây, dịch vụ biên, dịch vụ mạng, dịch vụ phát sóng và dịch vụ di động đều là các loại dịch vụ số. Tiêu chuẩn này không quy định cho tất cả các loại dịch vụ số.
3.1.2
Nền tảng phân tán của nền tảng số (digital platform distributed platform)
Tập các dịch vụ số có liên quan và gắn kết (3.1.1).
CHÚ THÍCH 1: Một nền tảng số như được mô tả trong tiêu chuẩn này cho phép và hỗ trợ các dịch vụ số tham gia khác trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh với khách hàng, bằng cách tạo ra và thúc đẩy một thị trường đa bên cho các dịch vụ đó, hoặc bằng cách hỗ trợ việc tạo ra và vận hành công nghệ cho các dịch vụ đó, hoặc cả hai.
CHÚ THÍCH 2: “Nền tảng phân tán” thường được sử dụng như một từ đồng nghĩa để nhấn mạnh các yếu tố của dịch vụ số, chẳng hạn như tính toán biên và tính toán di động vượt ra ngoài các trung tâm dữ liệu cổ điển của tính toán đám mây.
3.2 Thuật ngữ liên quan đến sự tham gia nền tảng
3.2.1
Người tham gia nền tảng (platform participant)
< nền tảng số> Bên sử dụng hoặc liên quan với nền tảng số (3.1.2).
CHÚ THÍCH 1: Một bên có thể là người dùng cuối hoặc tổ chức.
CHÚ THÍCH 2: Người tham gia nền tảng có thể là thành viên của một hoặc nhiều nhóm người tham gia (3.2.2).
3.2.2
Nhóm người tham gia (participant group)
Nhóm người tham gia nền tảng (3.2.1) chia sẻ một tập các yêu cầu kinh doanh chung khác biệt đáng kể so với các yêu cầu của một hoặc nhiều nhóm người tham gia nền tảng khác (3.2.1).
CHÚ THÍCH 1: Các nhóm người tham gia không chỉ giới hạn ở các dịch vụ số, mặc dù họ rất cần thiết để xác định một thị trường đa phương như nền tảng kinh tế số (3.4.2).
CHÚ THÍCH 2: Ví dụ về các nhóm người tham gia như vậy bao gồm người mua sắm, bên cung cấp và nhà phát triển. Người mua sắm là những người tham gia nền tảng tìm cách mua thứ gì đó, bên cung cấp là những người tham gia nền tảng tìm cách cung cấp thứ gì đó, trong khi nhà phát triển là những người tham gia nền tảng tìm cách tạo và bán (hoặc vận hành) phần mềm (hoặc dịch vụ). Do đó, các thành viên của mỗi nhóm có một mục tiêu chung không được chia sẻ với các thành viên của các nhóm người tham gia khác.
3.3 Các thuật ngữ liên quan đến các nền tảng công nghệ số
3.3.1
Nền tảng công nghệ số (digital technology platform)
<công nghệ> Nền tảng số (3.1.2) cung cấp các cấu phần kỹ thuật cần thiết để hỗ trợ việc tạo và triển khai các ứng dụng và dịch vụ.
CHÚ THÍCH 1: Các yếu tố được cung cấp có thể bao gồm các tài nguyên tính toán đám mây (xem bộ TCVN 13809 (ISO/IEC 22123)), có thể bao gồm môi trường thực thi, lưu trữ, mạng, dịch vụ định vị và lập bản đồ, kết xuất đồ họa và xử lý chuyên biệt (như học máy hoặc tính toán lượng tử).
CHÚ THÍCH 2: Các ví dụ phổ biến về các nền tảng công nghệ số như vậy bao gồm nhiều loại danh mục dịch vụ đám mây “loại khả năng hạ tầng" và “loại khả năng nền tảng" (xem TCVN 13809-1 (ISO/IEC 22123-1)).
CHÚ THÍCH 3: Định nghĩa này khác với định nghĩa trong ISO/IEC TS 25025 : 2021 và ISO/IEC TS 25011 : 2017.
3.3.2
Nền tảng phát triển phần mềm (software development platform)
Nền tảng công nghệ số (3.3.1) cho phép hoặc hỗ trợ phát triển mã phần mềm.
3.4 Các thuật ngữ liên quan đến nền tảng kinh tế số
3.4.1
Nền tảng kinh tế (economic platform)
<kinh tế> Tập các dịch vụ cung cấp sự môi giới trên thị trường để giảm chi phí tìm kiếm hoặc giao dịch.
CHÚ THÍCH 1: Nền tảng là môi trường, máy tính hoặc các môi trường khác, kết nối các nhóm khác nhau và nhận được lợi ích từ những người khác tham gia vào nền tảng.
CHÚ THÍCH 2: Trung tâm mua sắm cung cấp nền tảng kinh tế phi máy tính, kết nối các thương gia (nhóm người tham gia) với khách hàng ghé thăm (nhóm người tham gia) và cung cấp các dịch vụ riêng biệt cho mỗi nhóm người tham gia như môi trường dễ chịu, điện, kho, bãi đậu xe, kết nối mạng và an ninh.
3.4.2
Nền tảng kinh tế số (digital economic platform)
<kinh tế> Một hoặc nhiều nền tảng số (3.1.2) tạo ra một thị trường đa bên, cung cấp hàng hóa, dịch vụ hoặc quyền được cấp phép cho hai hoặc nhiều nhóm người tham gia riêng biệt (3.2.2) có nhu cầu lẫn nhau theo một cách nào đó.
CHÚ THÍCH 1: Nền tảng kinh tế số là một loại con của cả nền tảng kinh tế (3 4 1) và nền tảng số (3.1.2).
CHÚ THÍCH 2: Các ví dụ về quyền được cấp phép có thể bao gồm quyền xem phim, quyền sử dụng dữ liệu kinh doanh thương mại hoặc quyền sử dụng phần mềm cụ thể, mỗi quyền được cung cấp dưới dạng giấy phép.
CHÚ THÍCH 3: Trong khi một nền tảng kinh tế số được xây dựng bằng công nghệ số, thường là trên một nền tảng công nghệ số (3.3.1), điều này không có nghĩa là nền tảng kinh tế số là một loại con của nền tảng công nghệ số (giống như ô tô không phải là một loại con của đường); hai thuật ngữ này là độc lập.
CHÚ THÍCH 4: Một nền tảng kinh tế số có thể tùy chọn bao gồm nhiều hơn một nền tảng số. Ví dụ, một nền tảng trao đổi có thể được kết hợp với một nền tảng thanh toán và xuất hiện với người dùng cuối như một nền tảng kinh tế số duy nhất.
3.4.3
Nền tảng được tài trợ bởi quảng cáo (ad-funded platform)
<kinh tế> Nền tảng kinh tế số (3.4.2) trong đó một nền tảng tạo lập doanh thu bằng cách tính phí các nhà quảng cáo để thể hiện quảng cáo cho khách hàng của dịch vụ.
CHÚ THÍCH 1: Nhà quảng cáo là một nhóm người tham gia, những người xem quảng cáo là nhóm thứ hai và những người thể hiện quảng cáo cùng với nội dung là nhóm thứ ba.
3.4.4
Nền tảng trao đổi (exchange platform)
<kinh tế> Nền tảng kinh tế số (3.4.2) kết nối người bán và người mua tiềm năng, cho phép mua bán hàng hóa và dịch vụ, đồng thời có thể tạo ra giá trị cho bên cung cấp nền tảng thông qua việc đóng vai trò trung gian trong giao dịch.
3.4.5
Nền tảng thanh toán (payment platform)
<kinh tế> Nền tảng kinh tế số (3.4.2) tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoàn tất thanh toán an toàn giữa những người tham gia nền tảng (3.2.1).
3.4.6
Thị trường ứng dụng (application marketplace)
<kinh tế> Nền tảng kinh tế số (3.4.2) trong đó nền tảng cung cấp phương tiện cho các nhà phát triển và nhà xuất bản phần mềm cung cấp ứng dụng cho khách hàng thông qua nền tảng.
CHÚ THÍCH 1: Tiêu chuẩn này mô tả khái niệm này trong phạm vi nền tảng kinh tế. Xem thêm 3.2.2, TCVN 13056-1 : 2023 (ISO/IEC 19944-1 : 2020) để biết định nghĩa trong phạm vi nền tảng thiết bị.
4 Chữ viết tắt
| AlaaS | artificial intelligence as a service | Trí tuệ nhân tạo như một dịch vụ |
| CaaS[1] | communications as a service/containers as a service | Truyền thông như một dịch vụ/các bộ chứa như một dịch vụ |
| CSC | cloud service customer | Khách hàng dịch vụ đám mây |
| CSP | cloud service provider | Bên cung cấp dịch vụ đám mây |
| DSaaS | data storage as a service | Lưu trữ dữ liệu như một dịch vụ |
| FaaS | function as a service | Chức năng như một dịch vụ |
| GPU | graphics processing unit | Bộ xử lý đồ họa |
| laaS | infrastructure as a service | Hạ tầng như một dịch vụ |
| ICT | information and communications technology | Công nghệ thông tin và truyền thông |
| MlaaS | machine learning as a service | Học máy như một dịch vụ |
| PaaS | platform as a service | Nền tảng như một dịch vụ |
| QcaaS | quantum computing as a service | Tính toán lượng tử như một dịch vụ |
| SaaS | software as a service | Phần mềm như một dịch vụ |
| SME | small- or medium-sized enterprise | Doanh nghiệp vừa và nhỏ |
5 Tổng quan về nền tảng số
5.1 Tổng quan
Thuật ngữ "(nền tảng)” được sử dụng trong tiếng Anh với nhiều ý nghĩa khác nhau và một số cách sử dụng này có tính không rõ ràng trong bối cảnh dịch vụ trực tuyến hoặc số.
Tiêu chuẩn này định nghĩa phân loại thuật ngữ cho các nền tảng số thuộc nhiều loại khác nhau và chỉ ra cách các thuật ngữ này có thể được cấu trúc thành hệ thống phân cấp (xem Phụ lục A).
5.1.1 Ý nghĩa của “nền tảng”
Những ý nghĩa này bao gồm nhưng không giới hạn ở những điểm sau. Các nhóm này có khả năng chồng chéo, nhưng không loại trừ lẫn nhau.
- Những cách sử dụng truyền thống không liên quan đến Công nghệ thông tin và Truyền thông của thuật ngữ này, chẳng hạn như một sàn gỗ để đứng, một nền tảng chính sách chính trị hoặc một sân ga nơi tàu khởi hành, làm nổi bật cách sử dụng từ “nền tảng” phụ thuộc rất nhiều vào bối cảnh.
- Có các phương tiện truyền thông trực tuyến, phát sóng và in ấn và các thiết lập diễn ngôn công cộng, đóng vai trò là nền tảng cho sự tự do ngôn luận, thể hiện quan điểm chính trị và xã hội, thể hiện nghệ thuật và âm nhạc, thảo luận và tranh luận. Điều này bao gồm cả phương tiện truyền thông xã hội.
- Có những thứ có thể được định nghĩa là “nền tảng kinh tế”, đây là cách mô tả một số cách tiếp cận kinh doanh tạo lập thị trường đa phương diện, nơi hai hoặc nhiều nhóm người tham gia riêng biệt có thể cùng nhau thực hiện một số loại hình kinh doanh thông qua một nền tảng trung gian. Điều này có nghĩa là nền tảng này tập hợp hai hoặc nhiều nhóm người tham gia khác nhau và cung cấp một địa điểm gặp gỡ để tạo thuận lợi cho các tương tác giữa các nhóm người tham gia thông qua nền tảng. Các nền tảng phục vụ hai nhóm người tham gia được gọi là nền tảng hai phương diện và nói chung, các nền tảng phục vụ hai hoặc nhiều nhóm như vậy được gọi là nền tảng đa phương diện.
- Có nhiều ví dụ về thị trường hai chiều được hỗ trợ bởi các nền tảng trung gian, bao gồm nhưng không giới hạn ở: nhà xuất bản, tạp chí và hội nghị học thuật; sân bay và cảng; thị trường chứng khoán, nhà đấu giá và môi giới bất động sản; công ty môi giới hẹn hò và việc làm; và hệ thống tính toán đám mây thanh toán bằng thẻ tín dụng. Một nền tảng kinh tế không cần phải liên quan đến bất kỳ công nghệ nào.
VÍ DỤ Một cửa hàng bách hóa hoặc trung tâm mua sắm truyền thống tạo ra một thị trường đa chiều giữa một nhóm thương gia và một nhóm khách hàng. Loại nền tảng kinh tế này đã tồn tại từ lâu trước khi có công nghệ số hiện đại.
- Cũng đã có những “nền tảng công nghệ" tồn tại từ nhiều năm trước, trước khi các dịch vụ trực tuyến xuất hiện. Các hệ điều hành máy tính đầu tiên như trên máy tính lớn thường được mô tả là cung cấp một nền tảng để khách hàng phát triển chương trình của mình. Các hệ thống chuyên biệt như mạng điện thoại từng cung cấp nền tảng để triển khai các dịch vụ tiên tiến (vào thời điểm đó) như tổng đài miễn phí và các đường dây tính phí cao. Hệ thống tổng đài nhánh riêng (PBX) cung cấp nền tảng cho việc phát triển các dịch vụ trung tâm cuộc gọi đầu tiên của khách hàng. Tất cả những điều này đều tồn tại từ trước khi có sự ra đời của World Wide Web.
- Đối với các sản phẩm và dịch vụ công nghệ này, thuật ngữ “nền tảng” được sử dụng rộng rãi, vừa là chỉ báo đơn giản về lớp phủ - với nhiều sản phẩm và dịch vụ riêng biệt được xây dựng trên một cơ sở cơ bản duy nhất và để nêu rõ mục đích cụ thể của sản phẩm (ví dụ: cung cấp nền tảng để thể hiện bản thân hoặc tương tác xã hội).
5.1.2 Ý nghĩa của “nền tảng số”
Với sự ra đời của World Wide Web, nhiều khái niệm nền tảng được mô tả ở trên đã được điều chỉnh cho phù hợp với thế giới dịch vụ trực tuyến, chẳng hạn như dịch vụ mua sắm trực tuyến, hẹn hò trực tuyến, mạng xã hội trực tuyến và nhiều dịch vụ khác. Một số trong số các nền tảng này cạnh tranh với các dịch vụ tương đương trước khi có trực tuyến, trong khi một số nền tảng khác hoàn toàn mới.
Đặc biệt, nhu cầu thị trường nhanh chóng xuất hiện đối với các công ty công nghệ nhằm cung cấp phương tiện cho khách hàng nhanh chóng tham gia vào thế giới kinh doanh trực tuyến mà không cần phải tự mình phát triển mọi thứ từ đầu. Tương tự như cách các công ty áp dụng hệ điều hành chung để xây dựng các ứng dụng mà không cần phải viết mã cụ thể cho từng máy in và thiết bị khác, các dịch vụ trực tuyến cũng cần các nền tảng cung cấp các cấu phần chung cho tất cả hoặc hầu hết các dịch vụ trực tuyến, cho phép họ tập trung vào các cấu phần độc đáo đối với dịch vụ riêng.
Như vậy, sự phát triển song song của các nền tảng số bao gồm cả nền tảng kinh tế số (mô hình kinh doanh cho thị trường đa chiều) và nền tảng công nghệ số (dịch vụ và các cấu phần cung cấp cho khách hàng các công cụ để xây dựng dịch vụ riêng).
Tiêu chuẩn này tập trung vào nền tảng số vì được sử dụng trong bối cảnh các dịch vụ trực tuyến hoặc dịch vụ số.
5.2 Sự không rõ ràng của “nền tảng” cho các dịch vụ số
Trong lĩnh vực công nghệ số, có những tình huống cụ thể mà việc sử dụng “nền tảng” hay thậm chí “nền tảng số” trở nên không rõ ràng.
Cả hai thuật ngữ này đôi khi được sử dụng cho cả nền tảng kinh tế số và nền tảng công nghệ số.
- Nền tảng kinh tế số được mô tả là một hoặc nhiều nền tảng số cung cấp hàng hóa, dịch vụ hoặc quyền được cấp phép cho hai hoặc nhiều nhóm người tham gia riêng biệt cần nhau theo một cách nào đó. Thuật ngữ "nền tảng" liên quan đến kinh tế học có nghĩa là xác định các mối quan hệ kinh doanh đa phương.
- Nền tảng công nghệ số được mô tả là bất kỳ loại hệ thống nào hỗ trợ việc tạo, sửa đổi hoặc bổ sung chức năng phần mềm quan trọng bởi khách hàng nền tảng chứ không phải bởi bên cung cấp dịch vụ nền tảng.
Hai thuật ngữ này độc lập và có thể áp dụng cho cả hai hoặc không áp dụng cho dịch vụ số (xem Bảng 1).
Bảng 1 - Ví dụ về nền tảng kinh tế số và nền tảng công nghệ số
|
| Nền tảng công nghệ số (hỗ trợ khách hàng xây dựng ứng dụng riênga) | Khác (không hỗ trợ khách hàng xây dựng ứng dụng riêng) |
| Nền tảng kinh tế số (tạo ra một thị trường đa chiều) | PaaS hoặc Bộ chứa như một dịch vụ (CaaS) bao gồm kho lưu trữ cấu phần của bên thứ ba | Dịch vụ được tài trợ bởi quảng cáo Dịch vụ trao đổi Kho ứng dụng Dịch vụ thanh toán |
| Khác (không tạo ra một thị trường đa chiều) | Triển khai dịch vụ PaaS cơ bản, Bộ chứa như một dịch vụ (CaaS) hoặc IaaS không có "kho” | Các trang web cơ bản Email dựa trên web Nhiều loại khác... |
| a Đối với tính toán đám mây, điều này bao gồm loại khả năng hạ tầng hoặc nền tảng hoặc cả hai (xem TCVN 13809-1 (ISO/IEC 22123-1)). | ||
Nền tảng kinh tế số và nền tảng công nghệ số do đó là những khái niệm độc lập. Không khái niệm nào là tập con của khái niệm kia. Một dịch vụ số nhất định có thể là một trong hai, hoặc cả hai, hoặc không thuộc nền tảng nào.
Trong khi nhiều nền tảng kinh tế số được xây dựng để hoạt động trên nền tảng công nghệ số, điều này không có nghĩa là chúng là một loại con của nền tảng công nghệ số, giống như ô tô không phải là loại con của con đường mà nó chạy trên đó.
Các bên cung cấp nền tảng kinh tế số có thể lựa chọn các chiến lược khác nhau, dựa trên lợi ích kinh doanh mà họ nhận thấy. Các chiến lược nền tảng, bao gồm cả giá cả, bị ảnh hưởng bởi các đặc điểm kinh tế của thị trường nền tảng số.
Một nền tảng công nghệ số kết nối hai hoặc nhiều nhóm khách hàng cũng có thể là một nền tảng kinh tế số.
- Một dịch vụ số chỉ cung cấp cho một nhóm khách hàng, chẳng hạn như lưu trữ dữ liệu hoặc công cụ phát triển ứng dụng, không phải là nền tảng kinh tế số.
- Tuy nhiên, có một số dịch vụ công nghệ số có thể được mô tả là cả nền tảng công nghệ số và nền tảng kinh tế số.
Đôi khi, một nền tảng riêng lẻ có thể theo đuổi nhiều hơn một mô hình kinh doanh được mô tả trong tiêu chuẩn này.
VÍ DỤ 1 Trong một cuộc thảo luận về thủy điện, thuật ngữ “dòng chảy" có thể áp dụng cho cả dòng nước hoặc dòng điện, vì vậy sẽ là thiếu thận trọng nếu sử dụng thuật ngữ này một cách riêng lẻ mà không làm rõ bối cảnh và cách sử dụng cụ thể của từ đó. Trong ngôn ngữ tính toán đám mây, tình huống tương tự cũng xảy ra đối với việc sử dụng không rõ ràng thuật ngữ “nền tảng số" hoặc chỉ đơn giản là "nền tảng”, do đó cần cẩn trọng để tránh người đọc hiểu sai khi thuật ngữ được sử dụng một cách độc lập.
VÍ DỤ 2 Tham chiếu đến các tuyên bố chính sách của Ủy ban Châu Âu được thể hiện dưới thuật ngữ "Nền tảng trực tuyến” trong sáng kiến “Định hình tương lai kỹ thuật số của châu Âu”, các tài liệu như “COM/2016/0288 final” thường xuyên đề cập đến “nền tảng”, nhưng dường như hoàn toàn tập trung vào các nền tảng kinh tế số. Tài liệu được viết như thể đây là ý nghĩa duy nhất của thuật ngữ “nền tảng” và không đề cập rõ ràng đến các nền tảng công nghệ số như Nền tảng như một Dịch vụ (Platform as a Service - PaaS). Điều này khiến các nền tảng công nghệ số có thể vô tình bị đưa vào phạm vi điều chỉnh mặc dù không phải là ý định thực sự của tác giả. Xem [2].
5.3 Đặc điểm của nền tảng số
Các nền tảng số thể hiện nhiều đặc điểm khác nhau có thể tăng giá trị cho khách hàng và có khả năng ảnh hưởng đến bối cảnh cạnh tranh trong một ngành.
5.3.1 Hiệu ứng mạng
Ngoại ứng, thường xuất hiện trong các nền tảng, mô tả giá trị mà một người tham gia nền tảng nhận được từ quy mô của mạng lưới đang sử dụng sản phẩm hoặc dịch vụ. Giá trị này có thể phát sinh từ những người tham gia cùng nhóm (“hiệu ứng mạng cùng bên” - same-side network effects) hoặc từ những người tham gia thuộc nhóm khác (“hiệu ứng mạng chéo bên” - cross-side network effects). Hiệu ứng mạng chéo bên chỉ xuất hiện trong các thị trường đa bên (multi-sided markets) vì có sự tham gia của các nhóm người dùng khác nhau.
Hiệu ứng mạng có thể có lợi hoặc có hại cho những người tham gia nền tảng, đôi khi cả hai đều xảy ra cùng lúc. Tiêu chuẩn này không đưa ra bất kỳ đánh giá giá trị nào về những hiệu ứng này.
Hiệu ứng mạng giữa các nhóm người tham gia khác nhau có thể tạo ra rào cản gia nhập thị trường. Mỗi bên đều coi trọng sự hiện diện của bên còn lại, và điều này khiến bên cung cấp nền tảng gặp khó khăn trong việc thu hút một bên nếu không có bên kia (được gọi là “bài toán con gà và quả trứng” hay tình thế tiến thoái lưỡng nan về quan hệ nhân quả). Các đối thủ mới có thể áp dụng nhiều chiến lược khác nhau để cố gắng vượt qua rào cản này, chẳng hạn như tập trung vào một nhóm người dùng ngách, tận dụng sự thay đổi công nghệ để cung cấp sản phẩm phù hợp hơn, hoặc thu hút một nhóm người dùng từ nền tảng khác chuyển sang. Khái niệm này được phân tích trong Điều 8.
Xem Phụ lục B để xem xét các phương pháp kiếm tiền khả thi và hiệu ứng mạng cho nhiều loại dịch vụ nền tảng số khác nhau.
5.3.2 Nền tảng “Riêng tư” so với “Mở”
Nền tảng có thể tồn tại ở cả dạng riêng tư và dạng mở. Không có dạng nào trong số này là độc quyền đối với nền tảng kinh tế số hoặc nền tảng công nghệ số.
Một nền tảng “riêng tư” ngụ ý rằng có hình thức thành viên giới hạn nào đó, theo đó chỉ những khách hàng và người dùng cụ thể mới có thể truy cập dịch vụ. Ví dụ rõ ràng nhất là trong môi trường tính toán đám mây riêng tư hoặc đám mây cộng đồng, chỉ dành cho nhân viên, phòng ban hoặc các đơn vị liên kết của công ty hoặc cơ quan chính phủ đang đóng vai trò là bên cung cấp dịch vụ đám mây (CSP). Nói chung, bên cung cấp dịch vụ đám mây vận hành nền tảng xác định các chính sách áp dụng cho việc sử dụng nền tảng của họ, tuy nhiên vẫn phải tuân thủ các yêu cầu pháp lý địa phương có hiệu lực cao hơn.
Nền tảng "mở" ngụ ý rằng tư cách thành viên mở cho bất kỳ ai chọn đăng ký. Điều này đúng với hầu hết nhưng không phải tất cả các dịch vụ đám mây công cộng.
Một nền tảng mở có thể thực hiện các nghĩa vụ pháp lý cụ thể của quốc gia hoặc khu vực, chẳng hạn như các quy tắc bảo vệ người tiêu dùng về việc bán hàng hóa.
Trong mọi trường hợp như vậy, đây là những vấn đề pháp lý thuộc thẩm quyền địa phương và nằm ngoài phạm vi của tiêu chuẩn này.
VÍ DỤ 1 Có những nền tảng mà tư cách thành viên chỉ giới hạn ở những thành viên công chúng đáp ứng các tiêu chí nhất định, chẳng hạn như dân tộc, độ tuổi, ngành nghề, khuynh hướng chính trị hoặc tôn giáo, v.v.
VÍ DỤ 2 Có những nền tảng chỉ mở cho người dùng của một thương hiệu sản phẩm cụ thể, chẳng hạn như một dòng tivi hoặc điện thoại thông minh. Việc nền tảng như vậy được xem là “mở” hay “riêng tư” theo quy định pháp luật phụ thuộc vào pháp luật của khu vực tài phán áp dụng.
5.3.3 Những xem xét xuyên suốt
Khi xem xét thuật ngữ "nền tảng” trong bối cảnh kết hợp cả các xem xét về kinh tế và kỹ thuật, nhiều yếu tố liên quan cần được xem xét đồng thời bất kể loại nền tảng cụ thể nào đang được xem xét.
Những xem xét xuyên suốt này bao gồm các khái niệm kinh tế, chẳng hạn như
- điều phối ghép nối (xem 7.2.1)
- chi phí gia nhập thị trường
- dạng thức thanh toán khác nhau
cùng với những xem xét về công nghệ như
- tính khả chuyển dữ liệu (TCVN 13055 (ISO/IEC 19941))
- tính khả chuyển ứng dụng (TCVN 13055 (ISO/IEC 19941))
- dễ dàng chuyển đổi
Một số khu vực tài phán cũng có thể định nghĩa các khái niệm bổ sung như "người gác cổng" và áp đặt các nghĩa vụ và định nghĩa pháp lý bổ sung cụ thể đối với các thực thể đó, nằm ngoài phạm vi của tiêu chuẩn này.
Các hạn chế theo hợp đồng và kỹ thuật cũng được áp dụng, chẳng hạn như:
i) tính liên tác và tính khả chuyển, đặc biệt là khi có nghĩa vụ do thẩm quyền áp dụng (ví dụ: Đạo luật dữ liệu của Ủy ban châu Âu);
ii) những hạn chế được đưa ra bởi các thỏa thuận chia sẻ dữ liệu (ISO/IEC 23751); và
iii) nhu cầu rõ ràng cho người dùng;
có thể được cải thiện thông qua các tuyên bố sử dụng dữ liệu (TCVN 13056-1 (ISO/IEC 19944-1) và TCVN 13056-2 (ISO/IEC 19944-2) và thông báo về quyền riêng tư trực tuyến (ISO/IEC 29184).
bổ sung về mặt pháp lý và quy định bao gồm:
iv) tuân thủ an toàn trực tuyến và bảo vệ trẻ em;
v) tuân thủ an ninh mạng;
vi) tuân thủ bảo vệ dữ liệu;
vii) phòng ngừa tội phạm trực tuyến, chủ nghĩa cực đoan và thông tin sai lệch;
viii) nhu cầu hỗ trợ ngôn ngữ bắt buộc (của con người) và bộ ký tự tùy thuộc vào khu vực tài phán;
ix) nhu cầu cho phép người khuyết tật có thể tiếp cận nền tảng theo luật hiện hành.
6 Nền tảng công nghệ số
6.1 Quy định chung
Trong tiêu chuẩn này, một nền tảng công nghệ số cung cấp các cấu phần kỹ thuật cần thiết để hỗ trợ các ứng dụng và dịch vụ CSC. Do đó, nó hoạt động như một hộp công cụ và một môi trường thực thi trong đó khách hàng có thể xây dựng (hoặc cài đặt) và chạy phần mềm riêng thay vì hoàn toàn dựa vào phần mềm do bên cung cấp dịch vụ cung cấp.
Sử dụng một nền tảng công nghệ số như vậy, một bên khách hàng dịch vụ đám mây (CSC) có thể xây dựng các dịch vụ hoặc ứng dụng của riêng mình mà không cần phải mua hoặc vận hành trung tâm dữ liệu, máy chủ, hay các thành phần cần thiết khác. Trong một số trường hợp, vẫn có thể cần cung cấp hệ điều hành hoặc gói cơ sở dữ liệu của riêng. Trong các trường hợp khác, điều này thậm chí có thể cho phép một doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) tiếp cận các chức năng mà trước đây chỉ có các tổ chức lớn mới có khả năng xây dựng hoặc sở hữu, chẳng hạn như kho dữ liệu khổng lồ, các công cụ học máy và trí tuệ nhân tạo quy mô lớn, hoặc trong tương lai là khả năng tính toán lượng tử.
Trong khi ngành công nghiệp hiện đang chủ yếu sử dụng các khái niệm tính toán đám mây cho mục đích này, các môi trường công nghệ thông tin khác ngoài tính toán đám mây cũng có thể được sử dụng để tạo lập các nền tảng công nghệ số.
Hình 1 (ở trang sau) minh họa cho nền tảng công nghệ số như vậy.

Hình 1 - Nền tảng công nghệ số
Một dịch vụ công nghệ như vậy cung cấp phần cứng, cơ sở vật chất để lưu trữ phần cứng đó, và phần lớn phần mềm cần thiết để xây dựng một ứng dụng, ứng dụng được lưu trữ có thể là bất kỳ loại nào, bao gồm nhưng không giới hạn ở bất kỳ mô hình nền tảng kinh tế số nào được mô tả trong tiêu chuẩn này. Bên cung cấp nền tảng công nghệ số thường sẽ không biết ứng dụng đó thực hiện điều gì, miễn là không vi phạm các quy định của nền tảng.
6.2 Các loại khả năng dịch vụ đám mây biểu thị nền tảng công nghệ số
TCVN 13809-1 (ISO/IEC 22123-1) định nghĩa ba loại khả năng như sau:
- khả năng hạ tầng:
- khả năng nền tảng;
- khả năng ứng dụng.
Dịch vụ đám mây cung cấp khả năng nền tảng hoặc hạ tầng thường là các trường hợp cụ thể của nền tảng công nghệ số, trong đó các dịch vụ này cung cấp cho CSC một nền tảng có thể xây dựng hoặc tùy chỉnh ứng dụng riêng.
Các dịch vụ đám mây chỉ cung cấp loại khả năng ứng dụng thường không được coi là nền tảng công nghệ số vì CSC rất hiếm khi tạo mã riêng để xây dựng ứng dụng mới trên nền tảng đó, mặc dù một số dịch vụ có thể hoạt động như nền tảng kinh tế số như trong Điều 7.
Một số dịch vụ đám mây cung cấp loại khả năng ứng dụng trong khi cũng cung cấp một số tính năng loại khả năng nền tảng, chẳng hạn như mã CSC để tùy chỉnh ứng dụng. Đây là lý do tại sao rất khó để đặt ra ranh giới cứng giữa các ứng dụng loại "PaaS" và "SaaS", vì ở một mức độ nào đó có nhiều dịch vụ đám mây nằm giữa sự phân chia đó.
Hầu hết các loại dịch vụ đám mây cung cấp các loại khả năng được mô tả ở trên đều là nền tảng công nghệ số một chiều (xem 3.3.1 và 6.7.1) trong đó CSC chỉ có mối quan hệ với CSP, không phải với bất kỳ CSC nào khác. Dịch vụ đám mây được xây dựng và triển khai bằng nền tảng công nghệ số có thể là một nền tảng kinh tế số đa phương diện (xem 3.4.2 và Điều 7), mặc dù điều này phụ thuộc vào bản chất của ứng dụng và cách khách hàng sử dụng.
Lưu ý rằng một nền tảng phát triển phần mềm (xem 3.3.2 và 6.5 có thể tạo ra một thị trường đa chiều, chẳng hạn như bằng cách cung cấp dịch vụ bán các cấu phần phần mềm của bên thứ ba.
Công nghệ số đa phương diện, xem 6.7.2.
6.3 Dịch vụ đám mây cung cấp loại khả năng hạ tầng
Loại khả năng hạ tầng đề cập đến việc cung cấp phần cứng thực hoặc ảo (thường là phần cứng máy tính, lưu trữ hoặc mạng) cho khách hàng, trên đó có thể cài đặt hệ điều hành hoặc phần mềm khác của riêng khách hàng.
Loại dịch vụ đám mây phổ biến nhất thuộc loại này là Hạ tầng như một dịch vụ (laaS), cung cấp nền tảng mà khách hàng có thể cài đặt và chạy ảnh máy ảo (VM) riêng, ít nhiều giống như sở hữu và chạy máy chủ máy tính riêng trong trung tâm dữ liệu riêng.
Các dịch vụ như Bộ chứa như một dịch vụ đôi khi cũng được mô tả là thể hiện loại khả năng hạ tầng, tuy nhiên trong những năm gần đây, chúng ngày càng được coi là loại khả năng nền tảng vì lưu trữ bộ chứa không thực sự phù hợp với khái niệm ban đầu về phần cứng thực hoặc ảo hóa.
Một số dịch vụ hạ tầng cung cấp nhiều môi trường máy chủ tính toán “thông thường”, chẳng hạn như cung cấp quyền truy cập trực tiếp vào Bộ xử lý đồ họa (GPU) có thể cung cấp khả năng xử lý song song lớn hơn, phù hợp để kết xuất hình ảnh đồ họa, một số thuật toán phức tạp (như ứng dụng hóa học và sinh học) và ứng dụng học máy. Tham khảo 5.2.2, TCVN 13811 : 2023 (ISO/IEC TS 23167 : 2020).
CHÚ THÍCH Hình thức ban đầu của laaS “chỉ dành cho máy ảo" đang trở nên ít phổ biến hơn vì khách hàng muốn tận dụng lợi ích từ các chức năng tiên tiến hơn.
6.4 Dịch vụ đám mây cung cấp loại khả năng nền tảng
Loại khả năng nền tảng có nghĩa là khả năng của khách hàng để phát triển hoặc có được phần mềm mà họ có thể chạy trong dịch vụ đám mây, nhưng họ không cần cung cấp hình ảnh máy ảo hoàn chỉnh. Do đó, họ không cần phải lo lắng về việc tạo hình ảnh hệ điều hành "khách'' và xử lý tất cả các vấn đề bảo trì và bảo mật của máy ảo đó. Thay vào đó, họ có thể tập trung nỗ lực vào việc cung cấp mã giải quyết trực tiếp nhu cầu kinh doanh.
Hiện nay, nhiều loại dịch vụ đám mây cung cấp một số dạng thức khả năng nền tảng.
Loại dịch vụ đám mây được biết đến nhiều nhất là Nền tảng như một dịch vụ (PaaS), tuy nhiên sẽ là sai lầm nếu cho rằng đây là loại duy nhất. Trong khi PaaS cung cấp dịch vụ nền tảng "thuần túy”, theo đó khách hàng cung cấp hoặc đạt được tất cả các mã cần thiết cho ứng dụng, thì vẫn có những dịch vụ khác mà khách hàng có thể cung cấp mã riêng (đôi khi là lượng lớn) để nâng cao hoặc tùy chỉnh dịch vụ cung cấp theo nhu cầu.
6.4.1 Nền tảng như một dịch vụ (PaaS)
Trong dịch vụ PaaS, nền tảng công nghệ cung cấp chức năng chung để hỗ trợ ứng dụng của CSC. Điều này thường bao gồm các công cụ hỗ trợ phát triển, thử nghiệm, dàn dựng và phân phối mã của khách hàng trên nhiều máy chủ thực tế hoặc máy ảo, mà không cần khách hàng phải xử lý các chi tiết phức tạp của việc quản lý từng máy tính.
Một cách tiếp cận PaaS phổ biến, không được hình dung khi các điều khoản tính toán đám mây ban đầu được quyết định, là sử dụng "hệ thống quản lý bộ chứa" (như Kubernetes) sao cho khách hàng có thể tải lên và quản lý các Bộ chứa đã tạo hoặc có được theo cách khác và chạy chúng trong dịch vụ đám mây được quản lý. Xem Điều 7, TCVN 13811 : 2023 (ISO/IEC TS 23167 : 2020).
CHÚ THÍCH Không phải là hiếm khi gọi một hệ thống như vậy là "CaaS” viết tắt của “Bộ chứa như một dịch vụ”, điều này tạo sự tương phản với ý nghĩa ban đầu của CaaS là Truyền thông dưới dạng dịch vụ.
Điều này cho phép khách hàng xây dựng kiến trúc ứng dụng dựa trên các vi dịch vụ, Chức năng như một dịch vụ (FaaS) và tính toán phi máy chủ. Xem TCVN 13811 (ISO/IEC TS 23167) để biết mô tả về các khái niệm này.
6.4.2 Lưu trữ dữ liệu như một dịch vụ (DSaaS)
Trong khi khả năng truy cập cơ bản vào dung lượng lưu trữ dữ liệu thô, thường là ổ cứng ảo hóa hoặc ổ đĩa thể rắn, được bao phủ bởi loại khả năng hạ tầng, thì có nhiều dịch vụ lưu trữ dữ liệu tinh vi hơn cho phép khách hàng cài đặt mã riêng để làm việc với dữ liệu được lưu trữ. Phổ biến nhất trong số này có lẽ là hỗ trợ cho Thủ tục được lưu trữ SQL (SQL stored Procedure) trong cơ sở dữ liệu SQL dựa trên đám mây. Tuy nhiên, điều này không phải là duy nhất; có những công nghệ lưu trữ tiên tiến khác như xử lý Hadoop cho Dữ liệu lớn. Để biết thêm chi tiết, xem Điều 12, TCVN 13811 : 2023 (ISO/IEC TS 23167 : 2020).
6.4.3 Truyền thông như một dịch vụ (CaaS)
CHÚ THÍCH Việc sử dụng chữ viết tắt CaaS này không nên nhầm lẫn với chữ viết tắt tương tự cũng được sử dụng cho Bộ chứa như một dịch vụ.
Truyền thông như một dịch vụ (CaaS) đã trở thành một loại hình dịch vụ đám mây quan trọng trong đại dịch Covid-19, cung cấp cho doanh nghiệp và người dân các công cụ trực tuyến họ cần để giữ liên lạc thông qua các cuộc gọi video, cuộc họp, họp mặt gia đình và các sự kiện xã hội trực tuyến thông qua camera, micrô, máy tính và thiết bị di động.
Hình thức Truyền thông như một dịch vụ này thường được coi là một tập con của SaaS với trải nghiệm chung cho tất cả người dùng, mặc dù trong một số trường hợp cũng có thể có một số khả năng nền tảng cho một số khách hàng nhất định. Điều này có thể bao gồm khả năng lập trình đáng kể cho khách hàng doanh nghiệp, chẳng hạn như khả năng tạo ứng dụng mà khách hàng có thể thêm vào trải nghiệm Truyền thông như một dịch vụ và mã dành riêng cho khách hàng để xử lý những việc như định tuyến cuộc gọi dịch vụ khách hàng đến nhà điều hành hoặc công ty con thích hợp.
Truyền thông như một dịch vụ có thể được phân loại là dịch vụ kinh tế số khi vượt ra ngoài phạm vi giao tiếp ngang hàng giữa người dùng cuối, nếu nó bắt đầu cung cấp những thứ như danh sách "trang vàng" cho các doanh nghiệp cụ thể. Điều này cũng có thể áp dụng nếu dịch vụ cung cấp dịch vụ gọi điện khác cho "bên cung cấp" so với người dùng cuối thông thường. Như thường lệ, khái niệm này không phụ thuộc vào việc nó có hoạt động như một nền tảng công nghệ số hay không.
6.4.4 Các dịch vụ đám mây mới nổi với khả năng nền tảng
Có những lĩnh vực khác của tính toán đám mây mà các tiêu chuẩn vẫn đang trong quá trình phát triển, tuy nhiên có thể dự đoán rằng những tiêu chuẩn này sẽ liên quan đến các dịch vụ nền tảng công nghệ trong tương lai.
6.4.4.1 AI như một dịch vụ (AlaaS)/Học máy như một dịch vụ (MLaaS)
Tham khảo TCVN 13902 (ISO/IEC 22989). AiaaS và MlaaS thường là các thuật ngữ đồng nghĩa. Trong mỗi trường hợp, đề cập đến một dịch vụ dựa trên đám mây cung cấp phần lớn các chức năng cần thiết để xử lý dữ liệu bằng các kỹ thuật AI. Điều này bao gồm các thuật toán AI cơ bản, API cho mã khách hàng khác để có thể giao tiếp với các cấu phần AI, khả năng huấn luyện và tinh chỉnh giải pháp AI và các chức năng liên quan đến AI khác.
Các dịch vụ AI loại này có thể rất chung chung hoặc có thể chuyên biệt cho các mục đích cụ thể như xử lý hình ảnh/thị giác máy, xử lý âm thanh (lời nói, âm nhạc và âm thanh), ngôn ngữ (để điều khiển giọng nói, dịch ngôn ngữ, hỗ trợ viết, v.v.), chuyên ngành công nghiệp (ví dụ hóa học), ô tô hoặc các mục đích khác. Một số dịch vụ sẽ cung cấp bộ dữ liệu huấn luyện; những dịch vụ khác sẽ yêu cầu khách hàng tự mang theo dữ liệu riêng.
6.4.4.2 Tính toán lượng tử như một dịch vụ (QCaaS)
Mặc dù hiện nay có rất ít dịch vụ tính toán lượng tử được cung cấp, nhưng hoàn toàn có cơ sở để kỳ vọng rằng các dịch vụ tính toán lượng tử sớm được triển khai dưới dạng các chức năng có thể sử dụng thông qua các dịch vụ đám mây như PaaS (Nền tảng dưới dạng dịch vụ). Thực tế, hiện nay đã có một số dịch vụ tính toán đám mây thông thường như Tối ưu hóa lấy cảm hứng từ lượng tử (Quantum Inspired Optimization - QIO), vốn phát triển từ những ý tưởng ban đầu dành cho tính toán lượng tử, nhưng đã chứng minh được tính khả thi khi vận hành trên các hệ thống máy tính truyền thống.
6.5 Nền tảng phát triển phần mềm
Một loại nền tảng công nghệ số riêng biệt cho phép hoặc hỗ trợ phát triển mã phần mềm, bao gồm khả năng tạo, chỉnh sửa, quản lý và biên dịch mã nguồn phần mềm cùng các tài nguyên cần thiết khác để tạo nên ứng dụng hoặc cấu phần phần mềm.
Nhiều dịch vụ PaaS bao gồm nền tảng phát triển phần mềm như một trong những khả năng.
Trong khi nền tảng phát triển phần mềm như vậy thường cung cấp loại khả năng ứng dụng cho chính môi trường phát triển, thì hầu hết cũng sẽ cung cấp loại khả năng nền tảng nơi mã đã viết và biên dịch có thể được chạy và thử nghiệm.
Nền tảng phát triển phần mềm cũng có thể được bao gồm hoặc đính kèm vào một hoặc nhiều thị trường ứng dụng (xem 3.4.6) để có thể bán các sản phẩm phần mềm đã phát triển.
Một số nền tảng phát triển phần mềm bao gồm danh mục các cấu phần có sẵn có thể được tích hợp vào các dự án phần mềm. Các danh mục như vậy có thể bao gồm các cấu phần và công cụ phần mềm nguồn mở hoặc thương mại. Khi có khả năng này, nền tảng phát triển phần mềm cũng có thể thể hiện các đặc điểm của một nền tảng trao đổi số (xem 3.4.4).
6.6 Ví dụ về nền tảng công nghệ số trong bối cảnh
Ví dụ sau minh họa một tình huống điển hình, theo quan điểm của người dùng cuối, trong đó nhiều tổ chức, với tư cách là CSC của dịch vụ đám mây, mỗi tổ chức đều sử dụng một nền tảng công nghệ số để cho phép tạo lập ứng dụng kinh doanh riêng nhằm phục vụ người dùng cuối. Người dùng cuối nhìn thấy nhiều tổ chức riêng biệt, mỗi tổ chức có sản phẩm riêng và có thể chọn sử dụng một hoặc nhiều tổ chức trong số đó. Mỗi tổ chức tạo lập sản phẩm của mình bằng cách kết hợp các dịch vụ do các bên cung cấp đám mây cung cấp, đôi khi sử dụng các dịch vụ tương tự từ nhiều bên cung cấp. Hiệu ứng tạo lập là một số thị trường tương tác với nhau, với chuỗi cung ứng phức tạp được chia sẻ và chồng chéo, hình thành nên một hệ sinh thái tích hợp và mạng các mối quan hệ.

Hình 2 - Ví dụ về chuỗi cung ứng dịch vụ đám mây
Hình 2 thể hiện một ví dụ về chuỗi cung ứng điển hình trong tính toán đám mây.
Các cơ quan tài chính, thay vì vận hành các trung tâm dữ liệu và máy chủ riêng, sẽ thuê dung lượng từ các bên cung cấp dịch vụ đám mây (CSP), ví dụ như khả năng tính toán (C), dịch vụ lưu trữ và sao lưu (S) và cấp phép sử dụng các gói phần mềm tài chính chuyên biệt (F).
Các cơ quan tài chính mua phần mềm tài chính từ các bên cung cấp, tùy chỉnh các gói phần mềm theo nhu cầu riêng, cài đặt chúng trên các nền tảng do CSP cung cấp và cung cấp cho khách hàng eBanking.
Trong trường hợp này, các cơ quan tài chính là khách hàng dịch vụ đám mây của nền tảng CSP (ví dụ: laaS hoặc PaaS) và bản thân các cơ quan tài chính cũng là bên cung cấp dịch vụ đám mây (SaaS) cho khách hàng là người dùng cuối.
Người dùng cuối của dịch vụ Ngân hàng điện tử (eBanking) không biết về nền tảng lưu trữ hoặc bên cung cấp phần mềm, cũng như không có bất kỳ thỏa thuận hợp đồng nào với bên cung cấp.
Ví dụ này minh họa cấu trúc biểu đồ của chuỗi cung ứng thực tế, trong đó mỗi liên kết có thể xuất hiện như một tập hợp thỏa thuận duy nhất giữa hai bên, nhưng thực chất là một mạng chồng chéo của các thỏa thuận đa bên và thị trường đa chiều.
6.7 Nền tảng công nghệ một chiều và nhiều chiều
Việc tạo ra một nền tảng số đa phương diện (3.1.2) là một đặc điểm xác định cho một nền tảng kinh tế số (3.4.2) nhưng có thể không phải là đặc điểm phân biệt duy nhất (xem thêm Điều 7).
Tuy nhiên, trong khi các nền tảng công nghệ thường được cho là tạo ra một thị trường đơn phương thì cũng có những trường hợp nền tảng công nghệ cũng tạo ra một thị trường đa phương.
6.7.1 Nền tảng công nghệ một chiều
Một nền tảng công nghệ số chỉ phục vụ một nhóm người tham gia duy nhất có thể được mô tả là một nền tảng công nghệ một chiều. Cụ thể, khái niệm này mô tả một dịch vụ không trực tiếp tạo ra một nền tảng đa chiều về mặt kinh tế.
VÍ DỤ 1 Một dịch vụ cung cấp hạ tầng như lưu trữ và tài nguyên tính toán cho khách hàng (loại khả năng hạ tầng, xem TCVN 13809-1 (ISO/IEC 22123-1)).
VÍ DỤ 2 Một dịch vụ cung cấp môi trường phát triển và thực thi mã cho khách hàng (loại khả năng nền tảng, xem TCVN 13809-1 (ISO/IEC 22123-1)).
6.7.2 Nền tảng công nghệ hai chiều hoặc đa chiều
Thuật ngữ này mô tả một nền tảng công nghệ số cũng tạo ra một thị trường giữa hai (hoặc nhiều) nhóm người tham gia riêng biệt. Do đó, một nền tảng công nghệ số như vậy cũng có thể được phân loại là một nền tảng kinh tế số, mặc dù các thuật ngữ là trực giao (xem 5.2).
Một nền tảng công nghệ số cho phép người tham gia nền tảng lựa chọn và sử dụng tài nguyên của bên thứ ba (thay vì nền tảng trực tiếp cung cấp tài nguyên) có khả năng được mô tả là nền tảng công nghệ hai chiều hoặc đa chiều. Điều này không phải là hiếm khi các công ty phần mềm của bên thứ ba cung cấp công nghệ trong một nền tảng công nghệ số do một công ty khác cung cấp.
Các khía cạnh kinh tế của loại nền tảng công nghệ số này có thể được mô tả bằng một hoặc nhiều thuật ngữ nền tảng kinh tế số. Điều này là trực giao và bổ sung cho việc mô tả dịch vụ như một nền tảng công nghệ số.
VÍ DỤ Một dịch vụ PaaS (hoặc một nền tảng phát triển phần mềm, xem) bao gồm một số dạng danh mục các cấu phần của bên thứ ba, trình kết nối, nguồn dữ liệu, cơ chế thanh toán hoặc các yếu tố khác mà khách hàng có thể sử dụng để xây dựng ứng dụng, điều này có thể tạo thành một thị trường đa phương như được mô tả ở nơi khác trong tiêu chuẩn này ngay cả khi đây không phải là mục đích chính của dịch vụ PaaS. Việc bản thân dịch vụ PaaS có tạo thành một thị trường đa phương như vậy hay không sẽ phụ thuộc phần lớn vào mức độ tự do mà khách hàng có để bỏ qua các cấu phần được cung cấp đó hoặc để tạo hoặc đưa vào các giải pháp thay thế (như mã nguồn mở) thay thế, hoặc thực sự là họ không cần các cấu phần như vậy. Điều này thường phụ thuộc vào nhu cầu cụ thể của khách hàng.
7 Nền tảng kinh tế số
7.1 Tổng quan
Các nhà kinh tế đã xác định một số loại chính của nền tảng kinh tế số tạo lập thị trường đa phương diện.
Phân loại và mô tả trong Điều này nhằm mục đích làm rõ các khái niệm ngoài cách diễn đạt trong định nghĩa ở Điều 3.
7.2 Đặc điểm chung của nền tảng kinh tế số
Những điều sau đây cần được xem xét cho tất cả các loại.
7.2.1 Nền tảng kinh tế số như một bộ điều phối ghép nối
Các nền tảng kinh tế số, ngoài các chức năng khác, thường đóng vai trò là bộ điều phối ghép nối giữa các bên mà nếu không có họ, các bên có thể không biết đến nhau. Bộ điều phối ghép nối kết nối những người tham gia và tương tác với những người tham gia trong nhiều nhóm người tham gia.
Những bộ điều phối ghép nối tinh vi có thể sử dụng bối cảnh và sở thích của người dùng phong phú (nếu có) cũng như kiến thức về các lần ghép nối trước đó như một phần của việc cá nhân hóa kết quả ghép nối.
VÍ DỤ 1 Khi quảng cáo xuất hiện trong công cụ tìm kiếm, công cụ tìm kiếm đó thực hiện chức năng kết nối (matchmaking), xác định quảng cáo nào được hiển thị để phản hồi lại các truy vấn tìm kiếm. Nếu việc kết nối này hoàn toàn mang tính ngữ cảnh tức thì, thì hệ thống kết nối cần có kiến thức về bối cảnh của người dùng và nhu cầu thông tin, đồng thời phải có khả năng đánh giá mức độ phù hợp của quảng cáo đối với bối cảnh đó.
VÍ DỤ 2 Đảm bảo tính tương thích về ngôn ngữ và vị trí địa lý là rất quan trọng: sẽ không có ý nghĩa gì khi trả lời một truy vấn tìm kiếm “bãi đậu xe gần đây” bằng các chỉ dẫn thuần văn bản được viết bằng một ngôn ngữ và bảng chữ cái mà người dùng không thể hiểu, hoặc bằng các liên kết đến trang web về các cơ sở ở một quốc gia khác - ngay cả khi những nơi đó nằm ở một địa danh có tên là “Gần đây”.
7.2.2 Thanh toán khi sử dụng nền tảng kinh tế số
Kiếm tiền trong một nền tảng kinh tế số có thể là trực tiếp (người dùng thanh toán cho một dịch vụ bằng tiền) hoặc gián tiếp (bên thứ ba thanh toán cho việc cung cấp dịch vụ) hoặc trì hoãn (chi phí trả trước được các nhà đầu tư chi trả với kỳ vọng lợi nhuận tiếp theo từ khoản đầu tư do kiếm tiền sau này, có thể không liên kết trực tiếp với người dùng này). Thanh toán có thể là ngay lập tức (trả theo lần sử dụng), trả trước (ví dụ thông qua việc mua giấy phép), trả định kỳ (thông qua thuê bao) hoặc trả bằng hiện vật (ví dụ thông qua quảng cáo). Trên thực tế, có thể có nhiều hình thức thanh toán vốn có trong việc sử dụng một nền tảng, kết hợp lại để làm cho bên cung cấp nền tảng khả thi về mặt kinh tế.
Các hình thức thanh toán có thể bao gồm nhưng không giới hạn ở:
- tiền mặt;
- chú ý thụ động (ví dụ như xem video quảng bá thương hiệu);
- hoàn thành các nhiệm vụ phụ (ví dụ trả lời các cuộc khảo sát ẩn danh, hoàn thành các nghiên cứu về người dùng);
- cung cấp nội dung hoặc dữ liệu (ví dụ đóng góp bài đánh giá hoặc thêm dữ liệu vào kho lưu trữ của nhà môi giới ùng để bán lại sau đó);
- tham gia trực tiếp (ví dụ trò chơi nhiều người chơi trực tuyến hoặc ứng dụng hẹn hò không thể hoạt động nếu không có đủ người dùng);
- Hoa hồng hoặc phí giao dịch (ví dụ: chia sẻ doanh thu từ các giao dịch mua hàng trong ứng dụng).
Thanh toán có nhiều hình thức và trên thực tế thường là một sự trao đổi kinh tế đa chiều lai ghép phân tán theo thời gian, và khái niệm tiêu dùng không phải là tầm thường trong các thiết lập số. Ví dụ, khi xem phim trên video phát trực tuyến, người dùng không "tiêu thụ" bộ phim theo nghĩa là sử dụng hết. Mặc dù họ đang sử dụng băng thông mà nếu không thì có thể đã không được sử dụng (băng thông là một hàng hóa dễ hỏng) hoặc có thể đã được sử dụng cho mục đích khác. Vì vậy, trên thực tế, họ có thể đang áp đặt một tác động bên ngoài lên hàng xóm của mình, người có dịch vụ Internet bị suy giảm đôi chút trong khi phim đang phát trực tuyến. Vì khoản thanh toán cho dịch vụ phát trực tuyến khác với khoản thanh toán cho ISP, nên về cơ bản, khách hàng đang trả:
i) nội dung có thời hạn, mặc dù được gộp vào gói đăng ký cố định hàng tháng,
ii) để cung cấp băng thông cho một tháng hoặc một năm cố định đã chọn sử dụng tại thời điểm này,
iii) cho các thiết bị để nhận và xem phim, thông qua các lần mua phần cứng trước đó và
iv) với sự chú ý, thông qua chi phí cơ hội của việc ngồi xem phim thay vì làm việc khác.
VÍ DỤ Một người dùng mua một máy chơi game (trả tiền như một khoản phí tham gia), nhận một số trò chơi miễn phí như một phần của gói máy chơi game, mua các trò chơi khác bằng tiền mặt, trả phí cấp phép định kỳ cho nhiều trò chơi hơn nữa và tải xuống các trò chơi "miễn phí để chơi" từ một cửa hàng trực tuyến, có thể thực hiện các giao dịch mua "trong ứng dụng" tiếp theo, chẳng hạn như" gói chiến lợi phẩm", trình tăng tốc hoặc tiền tệ trong trò chơi để mua các cải tiến hoặc trình tăng tốc. Trong khi chơi trò chơi ở chế độ chơi một mình, người dùng sẽ tập trung vào trò chơi hoặc đôi khi bị phân tâm bởi quảng cáo (ví dụ: đối với các trò chơi khác). Phản hồi có khả năng (rõ ràng hoặc ngầm định) được cung cấp về động lực, cấu trúc hoặc công cụ của trò chơi thông qua các hành động. Nếu trò chơi được chơi dưới dạng cộng tác hoặc thi đấu nhiều người chơi, với những người tham gia từ xa ban đầu không được người dùng biết đến, thì người dùng cũng đang cung cấp giá trị thông qua sự tham gia - vì nhóm người chơi lớn hơn có thể khiến hệ sinh thái hấp dẫn hơn đối với những người dùng mới khác.
7.3 Ví dụ về nền tảng kinh tế số
Tiêu chuẩn này mô tả nhiều danh mục phổ biến nhất, mặc dù chắc chắn không bao gồm đầy đủ tất cả. Các danh mục đôi khi có thể được kết hợp. Một nền tảng kinh tế số duy nhất đôi khi có thể phù hợp với nhiều danh mục.
7.3.1 Nền tảng trao đổi
Trong trường hợp này, nền tảng này tạo thuận lợi cho việc khám phá và giao dịch kinh doanh giữa người mua sắm và bên cung cấp.
Như minh họa trong Hình 3, một nền tảng trao đổi tập hợp hai nhóm người dùng riêng biệt: người mua sắm và bên cung cấp (hoặc “người bán”). Nền tảng này cung cấp một địa điểm gặp gỡ chung và tạo thuận lợi cho việc khám phá, tương tác và giao dịch giữa người mua sắm và bên cung cấp. Các sàn giao dịch có thể cung cấp thông tin cho người mua sắm để so sánh các bên cung cấp khác nhau (ví dụ: cung cấp so sánh giá) và có thể cung cấp thông tin về người mua sắm cho bên cung cấp (ví dụ: đánh giá). Thông thường, người mua sắm coi trọng việc tiếp cận nhiều bên cung cấp hơn và bên cung cấp coi trọng việc tiếp cận nhiều người mua sắm hơn, cho thấy sự hiện diện của các hiệu ứng mạng chéo bên.

Hình 3 - Nền tảng trao đổi
Nền tảng trao đổi có thể lấy phí từ mỗi giao dịch. Việc chuyển khoản thực tế cho các giao dịch giữa bên cung cấp và người mua sắm thường được chuyển cho một hoặc nhiều nền tảng thanh toán (xem 7.3.3) do cùng một công ty hoặc bên thứ ba điều hành.
Nền tảng trao đổi tồn tại khi hai hoặc nhiều bên cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ (ví dụ: ứng dụng, cấu phần phần mềm, API) cho hai hoặc nhiều người dùng tiềm năng của những hàng hóa hoặc dịch vụ đó.
Một nền tảng trao đổi có thể có các quy tắc tham gia, do bên cung cấp nền tảng trao đổi đặt ra hoặc do bên thứ tư đặt ra. Các quy tắc đó có thể được thực thi theo hợp đồng hoặc công nghệ hoặc cả hai, chủ động, liên tục hoặc phản ứng, ở các mức độ hiệu quả khác nhau. Ví dụ, các ứng dụng trong cửa hàng số có thể phải chịu quá trình quét phần mềm độc hại trước khi được chào bán. Các cuộc trao đổi không nhất thiết phải liên quan đến việc mua và bán: nội dung và ứng dụng có thể được cung cấp mà không mất phí, ví dụ, trong một nền tảng viết blog mà cuộc trao đổi cho phép phổ biến các ý tưởng, với các tác giả cung cấp tài liệu và độc giả lựa chọn các mục để dành thời gian.
Những người tham gia nền tảng trao đổi có thể bao gồm bên cung cấp, cơ chế và cơ quan thực thi quy định, cơ chế bảo vệ, bên cung cấp và người dùng/khách hàng.
Một nền tảng trao đổi có thể bao gồm một hoặc nhiều cơ chế đề xuất, chẳng hạn như giúp người dùng điều hướng các dịch vụ có sẵn hoặc gợi ý cho bên cung cấp về nơi và cách đặt hàng hóa để thu hút sự quan tâm của người dùng. Có một loạt các khả năng đề xuất, chẳng hạn như làm nổi bật các mặt hàng mới hoặc đang bán, chỉ ra các mặt hàng tương tự hoặc bổ sung, khớp với danh sách mong muốn, tư vấn dựa trên hoạt động trước đó của người dùng này hoặc chia sẻ thông tin chi tiết dựa trên cộng đồng dựa trên việc sử dụng trước đó của nhiều hoặc tất cả người dùng.
Ví dụ về nền tảng trao đổi bao gồm:
- Các nền tảng bán lẻ đa bên cung cấp,
- Các dịch vụ gọi xe,
- Các trao đổi dịch vụ địa phương, chẳng hạn như cho người làm vườn, thợ sửa ống nước và những người thợ địa phương khác,
- " quảng cáo được phân loại", nơi bên cung cấp có thể đăng quảng cáo nhỏ và người mua sắm có thể tìm kiếm. Điều này bao gồm quảng cáo nhỏ thông thường ban đầu được đăng trên báo, và các dịch vụ cao cấp và chuyên biệt hơn như quảng cáo ô tô cũ, thuyền và chỗ ở.
7.3.2 Thị trường ứng dụng
Thị trường ứng dụng là một loại nền tảng trao đổi đặc biệt (xem TCVN 13056 (ISO/IEC 19944)). Một "cửa hàng" để mua các ứng dụng phần mềm hoặc "ứng dụng" trong hệ điều hành máy tính hoặc thiết bị di động có thể là một ví dụ về nền tảng phần mềm hai chiều. Người dùng sẽ chọn sử dụng thiết bị và nền tảng cửa hàng liên quan, nơi họ mong đợi nhiều công ty thêm các ứng dụng mới hoặc cập nhật các ứng dụng hiện có, cho thấy sự hiện diện của các hiệu ứng mạng chéo bên.
Các công ty muốn cung cấp ứng dụng của mình thông qua một "cửa hàng" phù hợp với thiết bị sẽ phải triển khai ứng dụng đó cho loại thiết bị phù hợp, nghĩa là họ phải viết mã để chạy trong hệ điều hành cho thiết bị đó, sử dụng API mà cửa hàng cung cấp và trong một số trường hợp cũng phải đáp ứng các nghĩa vụ cụ thể (như quyền riêng tư, an toàn hoặc khả năng truy cập) đi kèm với việc sử dụng cửa hàng đó.
Các quy tắc xung quanh việc sử dụng các kho lưu trữ như vậy có ý nghĩa đối với quản trị nền tảng, tính bảo mật của thiết bị (riêng lẻ và như một cấu phần trong hệ thống công nghệ thông tin của công ty), tính dễ sử dụng và quyền riêng tư của người dùng.
Ngoài ra còn có các mô hình bán phần mềm kết hợp những cách tiếp cận này.
7.3.3 Nền tảng thanh toán
Một nền tảng thanh toán[2] tạo ra một thị trường đa phương giúp tạo thuận lợi thuận lợi cho việc thanh toán từ khách hàng (cá nhân/doanh nghiệp) đến bên cung cấp (còn được gọi là thương nhân). Nền tảng thanh toán có thể kiếm tiền, chẳng hạn như bằng cách tính phí giao dịch, thường được tính cho bên cung cấp.
CHÚ THÍCH Cũng có những hệ thống chuyển tiền ngang hàng. Những hệ thống này không đủ tiêu chuẩn là nền tảng kinh tế số vì chúng không tạo ra một thị trường đa chiều.
Nền tảng thanh toán cung cấp các cấu phần mà bên cung cấp có thể đưa vào trang web, ứng dụng hoặc cửa hàng thực tế của mình để xử lý các khoản thanh toán do khách hàng thực hiện cho sản phẩm hoặc dịch vụ của bên cung cấp.
Nền tảng thanh toán có thể cung cấp dịch vụ bảo mật chung cho tất cả các nhóm thành viên, dù là người mua sắm, bên cung cấp hay ngân hàng, và có thể cung cấp cho các ngân hàng các công cụ hỗ trợ cho quá trình[3] phát hiện và giảm thiểu gian lận.
Một số nền tảng thanh toán có thể cung cấp ứng dụng riêng để người tiêu dùng sử dụng trực tiếp hoặc cho phép nhúng hoặc kết nối chức năng thanh toán với trang web hoặc ứng dụng của bên cung cấp hoặc ngân hàng.
VÍ DỤ 1 Một trang web mua sắm, bán hàng hóa riêng, sử dụng chức năng "giỏ hàng" do nền tảng thanh toán của bên thứ ba cung cấp cho phép khách hàng hoàn tất giao dịch mua sắm. Nền tảng thanh toán nhận thanh toán, bao gồm bất kỳ bước bảo mật bổ sung nào được yêu cầu, sau đó thông báo cho trang web mua sắm rằng thanh toán đã hoàn tất và hàng hóa có thể được giao.
VÍ DỤ 2 Một trang web tin tức cho phép khách hàng thanh toán cho đăng ký bằng cách lựa chọn nền tảng, thanh toán của bên thứ ba thay vì yêu cầu họ cung cấp thông tin thẻ tín dụng. Điều này cho phép trang web tin tức tránh xử lý nhiều thông tin cá nhân về khách hàng, đơn giản hóa nghĩa vụ tuân thủ quyền riêng tư.
Như thể hiện trong Hình 4, có thể có nhiều nhóm người tham gia nền tảng thanh toán khác nhau, ngay cả khi chỉ tham gia một giao dịch duy nhất.

Hình 4 - Nền tảng thanh toán
Có những hiệu ứng mạng chéo bên mạnh mẽ và tích cực (xem 5.3.1 và 8.2 bên dưới) giữa các bên cung cấp và người dùng trên nền tảng. Ví dụ, khách hàng nhận được nhiều giá trị hơn khi có nhiều bên cung cấp tham gia, vì dịch vụ giao dịch được chấp nhận rộng rãi hơn tại các địa điểm mua sắm. Ngược lại, các bên cung cấp cũng nhận được nhiều giá trị hơn khi có nhiều người mua tiềm năng đăng ký sử dụng. Điều này dường như tạo ra một "rào cản gia nhập loại con gà và quả trứng", vì có thể rất khó để thu hút người dùng nếu không có bên bán lẻ nào sẵn sàng chấp nhận một nền tảng thanh toán mới, và cũng khó để thu hút bên bán lẻ không dự đoán được nhu cầu từ phía người dùng. Tuy vậy, các hình thức nền tảng thanh toán mới, phương thức thanh toán mới, và các đối thủ mới trong các lĩnh vực thị trường hiện tại vẫn liên tục xuất hiện và thành công. Những lập luận theo kiểu “con gà và quả trứng" có vẻ thuyết phục, nhưng không phải lúc nào cũng đúng khi đối mặt với thực tế.
Các nền tảng thanh toán điển hình bao gồm:
- các công ty thẻ tín dụng;
- dịch vụ thanh toán trực tuyến và ký quỹ;
- bên cung cấp thanh toán qua di động;
- mạng máy rút tiền tự động;
- mạng thanh toán cho trạm sạc xe điện.
CHÚ THÍCH Ở một số quốc gia, khách hàng có thể sử dụng máy rút tiền tự động (máy ATM) kết nối mạng để thanh toán tiền điện thoại di động hoặc thanh toán hóa đơn gia đình ngoài các giao dịch ngân hàng thông thường như rút tiền mặt.
7.3.4 Nền tảng được tài trợ bởi quảng cáo
Nền tảng được tài trợ bởi quảng cáo là một loại con của nền tảng "được tài trợ bởi sự chú ý" nói chung. Có các loại khác, chẳng hạn như khi khoản bù đắp đến từ thời gian của người dùng cuối hoặc thông tin mà họ cung cấp (chẳng hạn như một khảo sát tiếp thị trực tuyến). Tuy nhiên, tiêu chuẩn này tập trung vào quảng cáo có trả phí là mô hình quan trọng nhất.
Nền tảng được tài trợ bởi quảng cáo phục vụ hai nhóm riêng biệt: người dùng và nhà quảng cáo. Nó hoạt động bằng cách tập hợp người dùng bằng cách cung cấp dịch vụ (như nội dung tin tức) và tính phí nhà quảng cáo để thể hiện quảng cáo cho những người dùng đó.
Trong một nền tảng được tài trợ bằng quảng cáo, các nhà quảng cáo đánh giá cao người dùng, và thường thì một nền tảng có nhiều người dùng sẽ hấp dẫn hơn đối với nhà quảng cáo. Việc người dùng có đánh giá cao các nhà quảng cáo hay không phụ thuộc vào từng nền tảng và ngữ cảnh cụ thể - ví dụ như khi họ được giới thiệu về các sản phẩm mà họ thấy hứng thú. Nói cách khác, hiệu ứng mạng chéo bên tồn tại và thường mạnh hơn theo một chiều. Người dùng cũng có thể đánh giá cao những người dùng khác, thể hiện mức độ tồn tại của hiệu ứng mạng cùng bên, ví dụ như trên mạng xã hội. Do đó, việc tập hợp và phát triển số lượng người dùng là một phần quan trọng trong chiến lược của nền tảng được tài trợ bằng quảng cáo. Các nhà quảng cáo thường hướng đến việc tiếp cận các nhóm người dùng lớn và có liên quan. Nền tảng tính phí các nhà quảng cáo - đôi khi chỉ khi người dùng có phản hồi tích cực với quảng cáo - trong khi người dùng có thể được truy cập nền tảng miễn phí.
Lưu ý rằng một số dịch vụ được tài trợ bằng quảng cáo cũng có thể cung cấp phiên bản "cao cấp" của dịch vụ, trong đó người dùng trả tiền cho nền tảng để có thêm các dịch vụ hoặc sản phẩm hoặc để tránh quảng cáo.
Điều quan trọng nữa là phải hiểu sự khác biệt giữa nền tảng được tài trợ bởi quảng cáo và nền tảng quảng cáo. Nền tảng quảng cáo thực sự là một hình thức nền tảng trao đổi, tạo thành cầu nối giữa những người muốn đặt quảng cáo cho sản phẩm và các trang web khác nhau cùng các địa điểm khác mà quảng cáo được thể hiện cho người dùng cuối.
Hình 5 bên dưới cho thấy mối quan hệ giữa hai loại nền tảng này. Thông tin chính xác được trao đổi giữa hai nền tảng (trên các mũi tên ở giữa) khác nhau tùy theo hợp đồng giữa các doanh nghiệp và trong nhiều trường hợp cũng tùy thuộc vào các quy định áp dụng tại các khu vực tài phán có liên quan.

Hình 5 - Nền tảng được tài trợ bởi quảng cáo
Có những trường hợp được tài trợ quảng cáo cho từng loại dịch vụ trực tuyến sau đây và nhiều loại dịch vụ trực tuyến khác:
- công cụ tìm kiếm
- mạng xã hội
- trang web đánh giá sản phẩm hoặc dịch vụ
- trang web quảng cáo rao vặt
- trang web tin tức trực tuyến
- dịch vụ bản đồ trực tuyến
- trang web đặt phòng du lịch và nghỉ dưỡng
- dịch vụ phát nhạc trực tuyến
VÍ DỤ Một dịch vụ phát nhạc trực tuyến, kiếm tiền từ phiên bản "miễn phí" thông qua quảng cáo và cung cấp trải nghiệm tốt hơn nếu người dùng trả phí đăng ký. Theo quan điểm chiến lược, việc có cả đăng ký miễn phí và trả phí giúp nền tảng phân biệt giá theo mức độ sẵn sàng trả tiền của người dùng, đồng thời tăng lượng người dùng, điều này rất quan trọng khi có hiệu ứng mạng.
8 Tác động của đặc điểm nền tảng đến hành vi của người tham gia
8.1 Tổng quan
Sự kết nối giữa những người tham gia nền tảng trong dịch vụ, cả trong nhóm người tham gia nền tảng riêng và với những người trong các nhóm người tham gia nền tảng khác, có thể ảnh hưởng đến hành vi của những người tham gia nền tảng theo nhiều cách khác nhau. Điều này khám phá một số hiện tượng này.
8.2 Hiệu ứng mạng
Như trong 5.3.1, hiệu ứng mạng phát sinh từ số lượng người tham gia khác trong một nền tảng. Những hiệu ứng này phát sinh dưới nhiều hình thức khác nhau, được phân biệt theo “phía” của những người tham gia khác và theo hiệu ứng là tích cực hay tiêu cực.
8.2.1 Hiệu ứng mạng tích cực
Hiệu ứng mạng tích cực tồn tại khi việc sử dụng dịch vụ trở nên hấp dẫn hơn khi số lượng người tham gia tăng lên.
8.2.1.1 Hiệu ứng mạng tích cực cùng bên
Như đã mô tả ở trên, điều này có thể áp dụng trong cùng một nhóm người tham gia. Ví dụ, nếu các thành viên gia đình, bạn bè và người nổi tiếng hoạt động trên một mạng xã hội cụ thể, mạng đó trở nên thú vị và hấp dẫn hơn nhiều đối với những người tham gia khác cũng tham gia thay vì một mạng thay thế không có cùng những người mà họ quan tâm. Điều này được gọi là hiệu ứng mạng "cùng bên".
8.2.1.2 Hiệu ứng mạng tích cực chéo bên
Ngược lại, hiệu ứng mạng “chéo bên” phát sinh khi có mối tương quan giữa giá trị được quy cho hệ thống và số lượng thành viên của một nhóm tham gia khác nhau.
VÍ DỤ 1 Một nền tảng trao đổi cung cấp hàng hóa từ nhiều bên cung cấp hơn sẽ hấp dẫn hơn đối với người mua sắm đang tìm kiếm sản phẩm, đặc biệt nếu sản phẩm có thể thay thế được và họ không quá quan tâm đến việc chính xác bên cung cấp nào sẽ cung cấp sản phẩm đó.
VÍ DỤ 2 Một dịch vụ truyền thông trực tuyến cung cấp phim và chương trình truyền hình từ nhiều hãng phim và đơn vị sản xuất khác nhau.
8.2.2 Hiệu ứng mạng tiêu cực
Mặc dù ít phổ biến hơn, nhưng đôi khi có thể xảy ra hiệu ứng mạng tiêu cực khi số lượng người tham gia lớn khiến dịch vụ kém hấp dẫn đối với người tham gia mới.
VÍ DỤ 1 Các mạng xã hội trở nên kém hấp dẫn đối với những người trẻ tuổi khi cha mẹ họ bắt đầu sử dụng chúng (yếu tố “không còn thú vị nữa”)
VÍ DỤ 2 Các giao dịch có quá nhiều bên cung cấp tương tự nhau khiến khách hàng tiềm năng thấy khó xác định được các ưu đãi phù hợp nhất với tìm kiếm. Điều này có thể xảy ra khi các sản phẩm có thể thay thế được phần lớn, thậm chí có thể giống hệt nhau và sự khác biệt giữa chúng có thể rất tinh tế và khó xác định (chẳng hạn như chất lượng dịch vụ khách hàng). Ví dụ có thể bao gồm các ưu đãi bảo hiểm xe cơ giới hoặc các tiện ích cạnh tranh khác như viễn thông và điện.
VÍ DỤ 3 Dịch vụ truyền phát phương tiện truyền thông mà chủ sở hữu nội dung như các hãng phim quyết định họ muốn cung cấp nền tảng phát trực tuyến riêng hơn là tiếp tục trả hoa hồng cho một công ty phát trực tuyến cũng đang cung cấp nhiều nội dung cạnh tranh với nội dung.
8.2.3 Tác động của hiệu ứng mạng
Hiệu ứng mạng là hệ quả tự nhiên của các cá nhân và tổ chức muốn tối ưu hóa trải nghiệm và cơ hội. Do đó, những hiệu ứng này có thể tạo lập rào cản gia nhập thị trường đáng kể cho các nền tảng mới. Tuy nhiên, các sản phẩm, dịch vụ và nền tảng mới và những người mới tham gia vào các lĩnh vực thị trường hiện tại vẫn xuất hiện và thành công. Các lập luận và mối quan tâm theo kiểu "con gà và quả trứng” về tác động tiêu cực tiềm tàng của hiệu ứng mạng có vẻ hấp dẫn, nhưng không phải lúc nào cũng đứng vững trước sự giám sát thực tế.
8.3 Sự trì trệ của khách hàng
Nhiều người dùng (thậm chí là doanh nghiệp) phát triển lòng trung thành tiềm thức với các dịch vụ cụ thể và có vẻ miễn cưỡng khi thử các giải pháp thay thế có sẵn. Điều này có thể là do họ quen thuộc với dịch vụ và giao diện người dùng của nó hoặc đơn giản là vì họ không nghĩ đến việc tìm kiếm ở bất kỳ nơi nào khác.
Ngoài ra, bất kỳ thay đổi nào về bên cung cấp dịch vụ cũng tiềm ẩn một số rủi ro đối với khách hàng doanh nghiệp, khiến họ ngần ngại thực hiện những thay đổi tạm thời hoặc nhanh chóng mà không có lý do chính đáng về mặt kinh doanh, ngay cả khi có giải pháp thay thế rẻ hơn hoặc phù hợp hơn.
Điều này không chỉ xảy ra với các dịch vụ số. Nhiều người đến siêu thị quen thuộc nhất trước tiên để đáp ứng nhu cầu và chỉ tìm kiếm ở nơi khác khi không có thứ gì đó hoặc rõ ràng là rẻ hơn hoặc tốt hơn.
Các công ty sử dụng các công cụ như thẻ khách hàng thân thiết để cố tình tăng mức độ trì trệ của khách hàng.
8.4 Tính kết dính
Tính kết dính phát sinh khi một người tham gia đã đầu tư đáng kể về tiền mặt, thời gian hoặc công sức vào một dịch vụ số, đặc biệt là khi khoản đầu tư này liên tục tăng theo thời gian. Việc chuyển sang một dịch vụ cạnh tranh trở nên khó khăn nếu khoản đầu tư trước đó bị mất hoặc sẽ yêu cầu khoản đầu tư mới đáng kể để đạt được sự ngang bằng về dịch vụ cung cấp.
Nguyên nhân gây dính có thể bao gồm nhưng không giới hạn ở:
- mạng liên lạc (con người và doanh nghiệp) được xây dựng theo thời gian;
- nội dung đã được tải lên (chẳng hạn như ảnh), đặc biệt là khi các bản tải lên thô đã được "nâng cao" trong nền tảng, chẳng hạn như phiên bản đã chỉnh sửa, dòng thời gian, gắn thẻ những người xuất hiện trong ảnh và danh sách "lượt thích" và "lượt chia sẻ";
- sự kết nối được tạo lập giữa các mục nội dung;
- nhật ký hoạt động có giá trị lịch sử đối với người tham gia (ví dụ: địa điểm đã đến, sách đã đọc, tiến trình trò chơi và điểm số);
- hồ sơ thanh toán.
Tính khả chuyển của dữ liệu khách hàng dịch vụ đám mây có thể làm giảm bớt tính kết dính ở một mức độ nào đó, tuy nhiên một số loại dữ liệu có nguồn gốc từ dịch vụ đám mây được người tham gia coi trọng, chẳng hạn như dữ liệu kết nối mạng xã hội, có thể bị chi phối bởi các quy định về quyền riêng tư (chẳng hạn như sự đồng ý của nhiều người khác) và do đó vẫn không thể chuyển sang dịch vụ khác.
9 Quan sát và kết luận
Các nhà kinh tế sử dụng định nghĩa về thuật ngữ "nền tảng” trong bối cảnh thị trường hai chiều hoặc đa chiều.
Các nhà công nghệ sử dụng thuật ngữ “nền tảng” với nhiều cách giải thích liên quan và dễ hiểu, bao gồm cả khía cạnh mô tả về kiến trúc hệ thống và ứng dụng, cho các sản phẩm và dịch vụ công nghệ được các nhà phát triển khác sử dụng làm nền tảng xây dựng và để mô tả chức năng của các sản phẩm dành cho doanh nghiệp và khách hàng.
Ngoài ra còn có các định nghĩa khác theo từng chuyên ngành và lĩnh vực về từ “nền tảng” được sử dụng trong các bối cảnh trùng lặp với cách sử dụng của các nhà kinh tế và công nghệ.
Sự mâu thuẫn trong cách sử dụng thuật ngữ giữa các nhà kinh tế học, kỹ sư và những người khác phát sinh là do cách dùng từ “nền tảng” trong kỹ thuật - chẳng hạn để biểu thị các lớp, các thành phần trong kiến trúc hệ thống và các góc nhìn kỹ thuật có cấu trúc khác (bao gồm cả cách dùng trong Điện toán đám mây liên quan đến laaS và PaaS) - đã tồn tại từ nhiều năm trước. Thuật ngữ này đã được dùng trong rất nhiều tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế trên toàn thế giới. Do đó, không thể đơn giản thay đổi cách dùng này chỉ vì mục đích phân biệt rõ ràng. Tương tự, mặc dù cách dùng từ “nền tảng” trong kinh tế có thể mới hơn, nhưng nó đã trở thành một phần không thể thiếu trong diễn ngôn kinh tế, nên việc ngừng sử dụng từ này trong bối cảnh đó cũng là điều không khả thi.
Điều này không gây nhầm lẫn nếu bối cảnh sử dụng thuật ngữ nền tảng rõ ràng.
Do đó, người biên soạn các tiêu chuẩn, thông số kỹ thuật và các tài liệu khác liên quan đến vấn đề "nền tảng" nên tránh sự không rõ ràng liên quan đến các tham chiếu rộng đến các thuật ngữ "nền tảng" hoặc "nền tảng số " bằng cách nêu rõ bối cảnh và ý nghĩa dự định khi sử dụng thuật ngữ đó.
PHỤ LỤC A
(tham khảo)
Hệ thống bậc phân loại minh họa
Có thể sử dụng nhiều tiêu chí phân biệt khác nhau để hỗ trợ mô tả về các dịch vụ số. Ví dụ, khi chúng tạo thành một không gian đa chiều, vì chúng cung cấp các phân vùng trực giao của bộ sưu tập các mục, thì có thể biểu diễn trực quan cấu trúc của không gian đó, bằng cách sử dụng sơ đồ phân loại hoặc thông qua các kỹ thuật trình bày thông tin khác. Các cấu trúc phân loại có cấu trúc dạng cây dựa trên trình tự của các tiêu chí phân biệt cơ bản, điều này tạo cơ hội ngầm báo hiệu tầm quan trọng cao hơn của một số tiêu chí so với các tiêu chí khác.
Hình A.1 trình bày một ví dụ khả thi về nguyên tắc phân loại cho các dịch vụ số. Trong khi ví dụ này bắt đầu bằng cách xem xét sự khác biệt giữa thị trường một chiều và hai hoặc nhiều chiều, các cách tiếp cận khác cũng khả thi và có liên quan.
Khi thiết kế và tạo lập các hình ảnh trực quan như vậy, cần phải cẩn thận để không làm người đọc bối rối bằng cách nhấn mạnh quá mức vào một tiêu chí mà không đưa ra các phương án thay thế.
VÍ DỤ 1 Đối với mục đích phân tích thị trường và tác động kinh tế, có thể bắt nguồn từ phân loại trong tiêu chí mô hình tài trợ (ví dụ phân biệt giữa các hình thức thanh toán khác nhau do người dùng thực hiện hoặc tài trợ do bên cung cấp nhận được). Trong Hình A 1 sự phân biệt này được xếp vào cấp thấp hơn trong hệ thống phân cấp.
VÍ DỤ 2 Một giải pháp thay thế thứ ba có thể là thực hiện một số sáng kiến về quy định và bắt đầu bằng cách phân loại đơn giản mục đích của dịch vụ số và phân biệt theo quy mô.
Cơ quan quản lý thị trường hoặc cơ quan giám sát thị trường có thể cần xem xét chi phí gia nhập, chi phí tham gia và chi phí thoát cho khách hàng cũng như nhà sản xuất, và trong các thiết lập số, chi phí kinh tế đối với người dùng có thể hoặc không thể là chi phí tài chính trực tiếp. Thay vào đó, đầu tư công sức vào việc học trước, hoặc công sức dự kiến hoặc thực tế bỏ ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, có thể ảnh hưởng đến hành động của người dùng. Tương tự như vậy, lợi ích đối với người dùng của hiệu ứng mạng trong các bộ sản phẩm có thể ảnh hưởng đến quyết định về việc sử dụng công cụ trực tuyến nào để thực hiện nhiệm vụ và các rào cản khi chuyển đổi (thông qua nhu cầu học lại các giao diện người dùng khác nhau hoặc khó khăn về tính khả chuyển dữ liệu) có thể là các vấn đề quan trọng đối với một góc nhìn vấn đề nhất định.
Các yếu tố khó đánh giá, chẳng hạn như tính trực quan hay mức độ hấp dẫn ban đầu của giao diện người dùng, có thể là những yếu tố quan trọng trong việc xác định liệu người dùng có khả năng hoặc sẵn sàng chuyển đổi giữa các sản phẩm hay không - chẳng hạn như giữa các máy chơi game, trình soạn thảo văn bản, trình duyệt hay công cụ tìm kiếm. Trên thực tế, những yếu tố này thậm chí có thể đóng vai trò quan trọng hơn trong phân tích động lực thị trường so với ngân sách tiếp thị hay khả năng nâng cao nhận thức về sản phẩm của các nhà cung cấp. Ngoài ra, các cấu trúc và biểu diễn phân loại này không cố định theo thời gian. Các nền tảng cũng liên tục thay đổi và phát triển theo những cách tiệm tiến. Một nền tảng hiện tại, đang chiếm một vị trí cụ thể trong một cấu trúc phân loại, có thể xuất hiện như một nền tảng hoàn toàn mới vào ngày mai, thuộc về một danh mục khác. Những thay đổi tiệm tiến này có thể dẫn đến các chuyển đổi trạng thái tưởng như đột ngột (thay đổi “thảm họa" theo nghĩa toán học được định nghĩa bởi Lý thuyết Thảm họa).
VÍ DỤ 3 Một nhà phát triển trò chơi điện tử thành công cung cấp một sản phẩm hấp dẫn đối với người dùng. Một công ty như vậy chắc chắn được hưởng lợi từ hiệu ứng mạng trong cộng đồng người chơi riêng nhưng thường không tập hợp được các nhóm người tham gia riêng biệt (trừ khi trò chơi có các yếu tố bổ sung như giao dịch của bên thứ ba, quảng cáo hoặc khả năng phát triển). Mặt khác, các bên cung cấp máy chơi game thường hoạt động như nền tảng, phục vụ cả các nhà phát triển trò chơi bên thứ ba tạo lập trò chơi và người dùng muốn chơi trò chơi điện tử. Người chơi được hưởng lợi từ nhiều lựa chọn trò chơi hơn, trong khi các nhà phát hành được hưởng lợi từ nhóm người chơi lớn hơn và năng động hơn. Ngoài ra, máy chơi game có thể hỗ trợ mua sắm trong trò chơi, nâng cấp, phần tiếp theo và hỗ trợ quảng cáo (ít nhất là đối với các trò chơi chị em, dưới dạng đoạn giới thiệu). Tương tự như vậy, các công cụ công nghệ (ví dụ như công cụ kết xuất, công cụ tạo bảng phân cảnh) và thư viện (ví dụ như công cụ vật lý) được sử dụng để xây dựng và chạy trò chơi tạo thành hệ sinh thái riêng của chúng với các yếu tố thị trường đa chiều. Các công cụ này thường giúp phát triển trò chơi đa nền tảng dễ dàng hơn, do đó tăng phạm vi tiếp cận của các nhà phát triển trò chơi trong khi ở một mức độ nào đó làm suy yếu hiệu ứng mạng của các nhà sản xuất máy chơi game.

Hình A.1 - Minh họa nguyên tắc phân loại
CHÚ THÍCH Bất kỳ dịch vụ nào cũng có thể phù hợp với nhiều hơn một danh mục. Cũng lưu ý rằng các ví dụ bên phải chỉ mang tính minh họa và không đầy đủ. Ví dụ, dịch vụ "Nền tảng như một dịch vụ" có thể bao gồm một số biến thể của thị trường phần mềm hoặc ứng dụng, nơi các nhà phát triển có thể mua thêm chức năng từ các bên cung cấp bên thứ ba.
Một hình thức quan trọng của nền tảng số là nền tảng thương mại điện tử. Mặc dù không có mục nhập duy nhất cho “Thương mại điện tử” vì nhiều mục nhập trong phân loại có thể phù hợp với danh mục đó, nhưng nền tảng thương mại điện tử đại diện cho một mô hình kinh doanh tượng trưng bằng cách quy định các bên liên quan hoạt động trên nền tảng số, chẳng hạn như B2B (Doanh nghiệp với Doanh nghiệp), B2C (Doanh nghiệp với Người tiêu dùng) và C2C (Người tiêu dùng với Người tiêu dùng). Một ví dụ về góc nhìn của cùng một khái niệm phân loại, nhưng tập trung vào Thương mại điện tử như một tập con cụ thể của các nền tảng số có thể xem trong Hình A.2:

Hình A.2 - Phân loại áp dụng cho thương mại điện tử
Điều này minh họa rằng nhiều loại nền tảng số khác nhau có thể tham gia vào các hoạt động thương mại điện tử và chúng vẫn có thể phù hợp với cấu trúc phân loại tổng thể được cung cấp ở trên.
Như một ví dụ khác, Hình A.3 minh họa mối quan hệ có thể có giữa “các dịch vụ nền tảng cốt lõi” được xác định trong Đạo luật thị trường số của châu Âu (DMA).

Hình A.3 - Phân loại áp dụng cho các dịch vụ nền tảng cốt lõi được định nghĩa trong Đạo luật thị trường số của châu Âu
Phụ lục B
(tham khảo)
So sánh hiệu ứng kiếm tiền và hiệu ứng mạng
Bảng B.1 bao gồm các ví dụ về phương pháp kiếm tiền và hiệu ứng mạng được thể hiện trong nhiều loại dịch vụ khác nhau được mô tả trong tiêu chuẩn này.
Bảng B.1 - So sánh ví dụ về kiếm tiền và hiệu ứng mạng
| Nền tảng số | Nhóm người tham gia | Ví dụ về kiếm tiền | Hiệu ứng mạng có thể xảy ra trong một số trường hợp | Ví dụ về dịch vụ số |
| Nền tảng công nghệ số (một mặt) (không phải là nền tảng kinh tế số) | Một nhóm người tham gia; có thể là nhà phát triển, hoặc người dùng doanh nghiệp, hoặc (hiếm khi) là cá nhân (người tiêu dùng) | thuê/sử dụng do khách hàng doanh nghiệp thanh toán | Không thể biểu hiện hiệu ứng mạng chéo bên vì chỉ có một nhóm người tham gia. Có thể có một số hiệu ứng mạng cùng bên tích cực do sự gia tăng tính sẵn có của nhân viên, huấn luyện, công cụ, cộng đồng người dùng, v.v. trên các dịch vụ phổ biến. | Các dịch vụ đám mây thuộc các danh mục như laaS. Một dịch vụ laaS đám mây cụ thể được chào bán cho khách hàng tiềm năng là một ví dụ về thị trường một chiều. Tuy nhiên, nếu một nhà môi giới phát triển một trang web cho phép nhiều bên cung cấp laaS lớn cung cấp hàng hóa và thu hút người dùng quan tâm đến việc mua dịch vụ laaS, thì trang web môi giới đó sẽ là một nền tảng hỗ trợ thị trường đa chiều |
| Thị trường ứng dụng (đa phương diện) (nền tảng kinh tế số) | Người dùng (người mua sắm) Nhà phát triển/ bên cung cấp phần mềm | Đôi khi cấp phép phần mềm, đôi khi chia sẻ doanh thu bán ứng dụng | chéo mạnh mẽ: nhà phát triển coi trọng người dùng, người dùng coi trọng nhà phát triển (ứng dụng) Có thể có một số hiệu ứng mạng cùng bên tiêu cực đối với các nhà phát triển do sự cạnh tranh hiệu ứng mạng cùng bên tích cực cho người dùng | Kho ứng dụng thiết bị di động |
| Nền tảng thanh toán nền tảng kinh tế sổ) | Người mua sắm Bên cung cấp | Hoa hồng giao dịch, chênh lệch tỷ giá hối đoái | mạng chéo mạnh mẽ: người mua sắm đánh giá cao nền tảng thanh toán có nhiều bên cung cấp hơn, bên cung cấp đánh giá cao nền tảng có nhiều người mua sắm hơn mạng cùng bên bị hạn chế. | thanh toán qua thiết bị di động, dịch vụ thanh toán qua website. |
| Nền tảng được tài trợ bởi quảng cáo (nền tảng kinh tế số) | Khách hàng (doanh nghiệp hoặc cá nhân) Nhà quảng cáo | Được trả bởi các nhà quảng cáo | Hiệu ứng mạng chéo bên tích cực mạnh mẽ theo một hướng: các nhà quảng cáo coi trọng Người dùng cuối. Người dùng cuối thường không coi trọng nhà quảng cáo. Có thể có hiệu ứng mạng tích cực mạnh mẽ cùng bên giữa những người dùng cuối (ví dụ: phương tiện truyền thông xã hội, trang web đánh giá). Hiệu ứng mạng cùng bên có khả năng tiêu cực giữa các nhà quảng cáo do sự cạnh tranh gia tăng để thu hút sự chú ý của người dùng cuối | tìm kiếm, mạng xã hội, trang web chia sẻ nội dung, trang web đánh giá sản phẩm |
| Nền tảng trao đổi tảng kinh tế số) | Người mua sắm và bên cung cấp hàng hóa và dịch vụ | Hoa hồng giao dịch | mạng chéo, thường mạnh (bên cung cấp coi trọng người mua sắm, người mua sắm coi trọng bên cung cấp) Các hiệu ứng mạng cùng bên tiêu cực tiềm ẩn giữa các bên cung cấp, do sự cạnh tranh gia tăng giữa các bên cung cấp trên nền tảng | vụ trao đổi nhiều bên cung cấp, dịch vụ đặt phòng du lịch và chỗ ở |
Thư mục tài liệu tham khảo
[1] TCVN 13055 : 2020 (ISO/IEC 19941 : 2017), Công nghệ thông tin-Tính toán mây-Tính liên tác và tính khả chuyển;
[2] ISO/IEC 23751, Information technology - Cloud computing and distributed platforms - Data sharing agreement (DSA) framework;
[3] ISO 23897, Financial services - Unique transaction Identifier (UTI);
[4] Tufte E. Envisioning Information. Cheshire, Graphics Press, 1990;
[5] Regulation (EU) 2022/1925 of the European Parliament and of the Council of 14 September 2022 on Contestable And Fair Markets In The Digital Sector And Amending Directives (EU) 2019/1937 and (EU) 2020/1828 (Digital Markets Act);
[6] European Commission 2022/0047(COD), Proposal for a regulation of the european parliament and of the council on harmonised rules on yair access to and use of data (Data Act);
[7] Communication from the Commission to the European Parliament, The Council, The European Economic and Social Committee and the Committee of the Regions Online Platforms and the Digital Single Market Opportunities and Challenges for Europe, 2016;
[8] De Reuver, M. Sorensen, C. and Basole, R. C. The Digital Platform: A Research Agenda. Journal of Information Technology. 2018, 33(2), 124-135;
[9] Rochet, J.-C. and Tirole, J. Two-Sided Markets: An Overview, 2004;
[10] Rochet, J.-C. and Tirole, J. Platform Competition in Two-Sided Markets. Journal of the European Economic Association. 2003, l(4), 990-1029;
[11] Gawer, A. and Cusumano, M. Platform Leadership: How Intel, Microsoft, and Cisco Drive Industry Innovation. Harvard Business School Press, 2002;
[12] Evans, D. S. et al. Platyorm Economics: Essays on Multi-Sided Businesses, 2011. Available at httos:// ssrn.com/abstract=1974020;
[13] Evans, D. S. and Schmalensee, R. Industrial Organization of Markets with Two-Sided Platforms, Competition Policy International. 2007, 3 (1), 151-179;
[14] Evans, D. S. and Noel, M. D., The Analysis of Mergers That Involve Multisided Platform Businesses. Journal of Competition Law & Economy, 663, 2008.
[1]Từ viết tắt CaaS được ngành công nghiệp sử dụng cho nhiều mục đích, hai trong số đó được liệt kê ở đây. Vì vậy , tốt nhất là sử dụng thuật ngữ mở rộng để đảm bảo bối cảnh chính xác.
[2]Một số sẽ sử dụng thuật ngữ “nền tảng giao dịch tài chính" thay vì “nền tảng thanh toán”. Tuy nhiên, ISO 23897:2020, 3.3 “giao dịch tài chính” áp dụng cụ thể cho các công cụ tài chính được sử dụng giữa các tổ chức tài chính, không phải cho các khoản thanh toán cho dịch vụ.
[3]Có nhiều vai trò khác nhau được các tổ chức tài chính đảm nhận để tạo điều kiện cho giao dịch (xem ví dụ https //digital.hbs.edu /platform-digit/submission/visa-leveraging-indirect-network-effects/)
Bạn chưa Đăng nhập thành viên.
Đây là tiện ích dành cho tài khoản thành viên. Vui lòng Đăng nhập để xem chi tiết. Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!