Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Thông tư 69/2006/TT-BTC của Bộ Tài chính về việc sửa đổi, bổ sung Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07/12/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
- Tóm tắt
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Thông tư 69/2006/TT-BTC
Cơ quan ban hành: | Bộ Tài chính | Số công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 69/2006/TT-BTC | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Thông tư | Người ký: | Đỗ Hoàng Anh Tuấn |
Ngày ban hành: | 02/08/2006 | Ngày hết hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày hết hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Áp dụng: | Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Đất đai-Nhà ở, Chính sách |
TÓM TẮT VĂN BẢN
* Bồi thường khi thu hồi đất - Ngày 02/8/2006, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 69/2006/TT-BTC sửa đổi, bổ sung Thông tư số 116/2004/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Theo đó, khi thực hiện hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm cho các hộ gia đình bằng việc giao đất tại vị trí có thể làm mặt bằng sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ phi nông nghiệp. Nếu đất giao có nguồn gốc là đất nông nghiệp thì giá đất thu tiền sử dụng đất được tính theo giá đất nông nghiệp tương ứng với loại, hạng đất nông nghiệp của thửa đất giao (nếu diện tích thửa đất giao gồm nhiều loại, hạng đất nông nghiệp khác nhau, thì lấy theo giá bình quân gia quyền của các loại, hạng đất nông nghiệp đó) cộng với chi phí đã đầu tư hạ tầng thực tế trên đất tính bình quân cho 1 mét vuông (nếu có), trường hợp đất giao có nguồn gốc là đất phi nông nghiệp, thì giá đất thu tiền sử dụng đất được tính theo giá đất nông nghiệp tương ứng với loại, hạng đất nông nghiệp khu vực liền kề cộng với chi phí đã đầu tư hạ tầng thực tế trên đất tính bình quân cho một mét vuông (nếu có). Nhưng mức giá đất tính thu tiền sử dụng đất tối đa không được vượt quá giá đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp của UBND cấp tỉnh đã quy định... Trường hợp các dự án không có đất để thực hiện hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm cho các hộ gia đình bằng việc giao đất, thì việc hỗ trợ chuyển đổi nghề cho những thành viên còn trong độ tuổi lao động của các hộ gia đình bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp được thực hiện bằng hình thức hỗ trợ chi phí đào tạo chuyển đổi nghề tại các cơ sở dạy nghề ở địa phương... Thông tư này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày đăng Công báo.
Xem chi tiết Thông tư 69/2006/TT-BTC tại đây
tải Thông tư 69/2006/TT-BTC
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 69/2006/TT-BTC NGÀY 02 THÁNG 8 NĂM 2006
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG THÔNG TƯ SỐ 116/2004/TT-BTC NGÀY 7/12/2004 CỦA
BỘ TÀI CHÍNH HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH SỐ 197/2004/NĐ-CP
NGÀY 3/12/2004 CỦA CHÍNH PHỦ VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ
VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
Căn cứ Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Nghị định số 77/2003/NĐ-CP ngày 1/7/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính;
Căn cứ Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai;
Căn cứ Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất;
Căn cứ Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần;
Bộ Tài chính hướng dẫn sửa đổi, bổ sung Thông tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07 tháng 12 năm 2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (sau đây gọi chung là Thông tư số 116/2004/TT-BTC) như sau:
Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất đã chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư vào Việt Nam có thực hiện ứng trước tiền để chi trả bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo quy định tại Nghị định số 197/2004/NĐ-CP thì được trừ số tiền đã chi trả bồi thường về đất, hỗ trợ về đất vào tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp cho Nhà nước. Mức được trừ không vượt quá số tiền sử dụng đất và tiền thuê đất phải nộp theo quy định”.
Sở Tài chính và các cơ quan chức năng ở địa phương áp dụng giá đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã ban hành để tính bồi thường tại thời điểm có quyết định thu hồi đất. Trường hợp giá đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh công bố chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá đất cụ thể để tính bồi thường cho phù hợp. Việc xác định giá đất được thực hiện theo phương pháp xác định giá đất quy định tại Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp xác định giá và khung giá các loại đất và Thông tư số 114/2004/TT-BTC ngày 26/11/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định số 188/2004/NĐ-CP của Chính phủ”.
2.2. Trường hợp các dự án không có đất để thực hiện hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm cho các hộ gia đình bằng việc giao đất, thì việc hỗ trợ chuyển đổi nghề cho những thành viên còn trong độ tuổi lao động của các hộ gia đình bị thu hồi đất sản xuất nông nghiệp được thực hiện bằng hình thức hỗ trợ chi phí đào tạo chuyển đổi nghề tại các cơ sở dạy nghề ở địa phương. Mức hỗ trợ cụ thể chi phí đào tạo chuyển đổi nghề do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho phù hợp với thực tế tại địa phương.
Nếu ở địa phương chưa tổ chức được việc đào tạo chuyển đổi nghề và chủ dự án sử dụng đất thu hồi không thể tổ chức được việc đào tạo nghề hoặc người được hưởng hỗ trợ đào tạo nghề có nguyện vọng tự học chuyển đổi nghề thì thực hiện hỗ trợ bằng tiền; mức hỗ trợ bằng tiền cụ thể do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định phù hợp với mức chi phí học chuyển đổi nghề thực tế tại địa phương”.
Tổ chức phát triển quỹ đất hoặc Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cấp huyện khi thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho nhiều dự án trên địa bàn, thì được phép điều hòa mức kinh phí được trích giữa các dự án để sử dụng cho việc tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho phù hợp với khối lượng công việc thực tế phải thực hiện đối với từng dự án; nhưng phải bảo đảm tổng số kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của các dự án được giao thực hiện, không vượt quá tổng số kinh phí được trích theo quy định của các dự án đó.
Thông tư này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày đăng Công báo. Những quy định tại Thông tư số 116/2004/TT-BTC không sửa đổi, bổ sung tại Thông tư này vẫn có hiệu lực thi hành.
Trong quá trình thực hiện Thông tư nếu phát sinh vướng mắc, đề nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phản ánh kịp thời cho Bộ Tài chính để nghiên cứu, giải quyết./.
KT.BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Đỗ Hoàng Anh Tuấn
THÔNG TƯ
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 69/2006/TT-BTC NGÀY 02 THÁNG 8 NĂM 2006
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG THÔNG TƯ SỐ
116/2004/TT-BTC NGÀY 7/12/2004 CỦA
BỘ TÀI CHÍNH HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN
NGHỊ ĐỊNH SỐ 197/2004/NĐ-CP
NGÀY 3/12/2004 CỦA CHÍNH PHỦ VỀ BỒI
THƯỜNG, HỖ TRỢ
VÀ TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT
Căn cứ Luật
Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Nghị
định số 77/2003/NĐ-CP ngày 1/7/2003 của Chính
phủ quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Bộ Tài chính;
Căn cứ Nghị
định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính
phủ về thi hành Luật Đất đai;
Căn
cứ Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004
của Chính phủ về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất;
Căn cứ Nghị định số
17/2006/NĐ-CP ngày 27/1/2006 của Chính phủ về sửa
đổi, bổ sung một số điều của các
Nghị định hướng dẫn thi hành Luật
Đất đai và Nghị định số
187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà
nước thành công ty cổ phần;
Bộ Tài chính
hướng dẫn sửa đổi, bổ sung Thông
tư số 116/2004/TT-BTC ngày 07 tháng 12 năm 2004 của
Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị
định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004
của Chính phủ về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất (sau đây gọi chung là Thông tư số
116/2004/TT-BTC) như sau:
1. Sửa đổi,
bổ sung điểm 3.2 mục 3 Phần I như sau:
"3.2. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước
giao đất, cho thuê đất để sử dụng
vào mục đích quy định tại khoản 1
Điều 1 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP có
nghĩa vụ chi trả tiền bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư. Tổ chức, cá nhân
nước ngoài, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài đầu tư vào Việt Nam
được Nhà nước giao đất có thu tiền
sử dụng đất hoặc cho thuê đất thì không
phải chịu chi phí về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư.
Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao
đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê
đất đã chi trả tiền bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư và tổ chức, cá nhân
nước ngoài, người Việt Nam định cư
ở nước ngoài đầu tư vào Việt Nam có
thực hiện ứng trước tiền để chi
trả bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư theo quy định tại Nghị
định số 197/2004/NĐ-CP thì được trừ
số tiền đã chi trả bồi thường về
đất, hỗ trợ về đất vào tiền
sử dụng đất, tiền thuê đất phải
nộp cho Nhà nước. Mức được trừ
không vượt quá số tiền sử dụng
đất và tiền thuê đất phải nộp theo quy
định".
2.
Sửa đổi, bổ sung điểm 3.1 mục 3
Phần II như sau:
"3.1. Khoản 1
quy định giá đất để tính bồi
thường là giá đất theo mục đích đang
sử dụng của đất bị thu hồi
được công nhận theo quy định của pháp
luật tại thời điểm có quyết định
thu hồi đất, đã được Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
(sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh) công
bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm theo quy định của
Chính phủ. Không bồi thường theo giá đất
sẽ được chuyển mục đích sử
dụng đất sau khi thu hồi, không bồi thường theo giá
đất do thực tế sử dụng đất không
phù hợp với mục đích sử dụng đất
theo quy định của pháp luật.
Sở Tài chính và các cơ quan
chức năng ở địa phương áp dụng giá
đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã ban hành để
tính bồi thường tại thời điểm có
quyết định thu hồi đất. Trường
hợp giá đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh công
bố chưa sát với giá chuyển nhượng quyền
sử dụng đất thực tế trên thị
trường trong điều kiện bình thường thì báo
cáo Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định giá
đất cụ thể để tính bồi
thường cho phù hợp. Việc xác định giá đất
được thực hiện theo phương pháp xác
định giá đất quy định tại Nghị
định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính
phủ về phương pháp xác định giá và khung giá
các loại đất và Thông tư số 114/2004/TT-BTC ngày
26/11/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 188/2004/NĐ-CP của Chính
phủ".
3. Sửa đổi, bổ sung mục 2
Phần IV như sau:
"2.1.
Khi thực hiện hỗ trợ chuyển đổi
nghề nghiệp và tạo việc làm cho các hộ gia
đình bằng việc giao đất tại vị trí có
thể làm mặt bằng sản xuất hoặc kinh doanh dịch
vụ phi nông nghiệp. Nếu đất giao có nguồn
gốc là đất nông nghiệp thì giá đất thu
tiền sử dụng đất được tính theo
giá đất nông nghiệp tương ứng với loại, hạng đất nông
nghiệp của thửa đất giao (nếu diện tích thửa
đất giao gồm nhiều loại, hạng đất
nông nghiệp khác nhau, thì lấy theo giá bình quân gia quyền
của các loại, hạng đất nông nghiệp đó) cộng
(+) với chi phí đã
đầu tư hạ tầng thực tế trên
đất tính bình quân cho một mét vuông (nếu có); trường
hợp đất giao có nguồn gốc là đất phi
nông nghiệp, thì giá đất thu tiền sử dụng
đất được tính theo giá đất nông
nghiệp tương ứng với loại, hạng đất nông nghiệp khu vực
liền kề cộng (+) với chi phí đã đầu tư hạ tầng thực
tế trên đất tính bình quân cho một mét vuông (nếu
có). Nhưng mức giá đất tính thu tiền sử
dụng đất tối đa không được
vượt quá giá đất sản xuất, kinh doanh phi
nông nghiệp của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã
quy định và công bố theo quy định của Chính
phủ.
2.2. Trường hợp các dự án không có đất
để thực hiện hỗ trợ chuyển đổi
nghề nghiệp và tạo việc làm cho các hộ gia
đình bằng việc giao đất, thì việc hỗ trợ chuyển
đổi nghề cho những thành viên còn trong độ
tuổi lao động của các hộ gia đình bị
thu hồi đất sản xuất nông nghiệp được
thực hiện bằng hình thức hỗ trợ chi phí đào
tạo chuyển đổi nghề tại các cơ sở
dạy nghề ở địa phương. Mức
hỗ trợ cụ thể chi phí đào tạo chuyển
đổi nghề do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh quyết định cho phù hợp với
thực tế tại
địa phương.
Nếu ở
địa phương chưa tổ chức
được việc đào tạo chuyển đổi
nghề và chủ dự án sử dụng đất thu
hồi không thể tổ chức được việc
đào tạo nghề hoặc người được
hưởng hỗ trợ đào tạo nghề có nguyện
vọng tự học chuyển đổi nghề thì
thực hiện hỗ trợ bằng tiền; mức
hỗ trợ bằng tiền cụ thể do Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết
định phù hợp với mức chi phí học
chuyển đổi nghề thực tế tại
địa phương".
4. Sửa đổi, bổ sung mục 3 và
mục 4 Phần VII như sau:
"3. Trên cơ sở kinh phí bảo
đảm cho cho việc bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư được trích không quá
2% tổng số kinh phí bồi thường, hỗ trợ
của dự án; căn cứ vào điều kiện
thực tế của địa phương Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh quyết định mức kinh phí cụ
thể phục vụ cho việc bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư cho phù hợp với
quy mô, tính chất, đặc điểm của từng
loại dự án để áp dụng thống nhất trên
địa bàn địa phương. Trường hợp
tại địa phương có thành lập Hội
đồng thẩm định phương án bồi
thường hoặc Ban chỉ đạo cấp tỉnh
để chỉ đạo công tác giải phóng mặt
bằng khi Nhà nước thu hồi đất, thì trên
cơ sở nhiệm vụ công tác của Hội
đồng thẩm định, của Ban chỉ
đạo cấp tỉnh, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
quyết định cụ thể tỷ lệ phân chia
mức kinh phí tổ chức thực hiện bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư của
dự án, để sử dụng cho Hội đồng
bồi thường, Hội đồng thẩm
định, Ban chỉ đạo công tác giải phóng
mặt bằng của tỉnh cho phù hợp.
Tổ chức phát triển quỹ
đất hoặc Hội đồng bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư cấp
huyện khi thực hiện công tác bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư cho nhiều dự án
trên địa bàn, thì được phép điều hòa
mức kinh phí được trích giữa các dự án
để sử dụng cho việc tổ chức thực
hiện bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư cho phù hợp với khối lượng
công việc thực tế phải thực hiện đối
với từng dự án; nhưng phải bảo
đảm tổng số kinh phí tổ chức thực
hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư của các dự án được giao thực
hiện, không vượt quá tổng số kinh phí được
trích theo quy định của các dự án đó.
4. Kinh phí phục vụ cho công tác
bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư được sử
dụng để chi cho các công việc tổ chức
thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư của dự án theo nội dung và
mức chi đã được hướng dẫn tại
điểm 1 và điểm 2 Phần VII Thông tư số
116/2004/TT-BTC. Nghiêm cấm việc chi khống và chi trùng
ở các dự án.
Tổ chức hoặc Hội đồng
được giao thực hiện việc bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư, có trách
nhiệm thực hiện việc báo cáo quyết toán về kinh
phí tổ chức thực hiện bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư với Sở Tài chính
để phê duyệt theo quy định hiện hành. Khi xét
duyệt quyết toán đối với khoản kinh phí này,
Sở Tài chính được phép xử lý cho chuyển
tiếp số kinh phí sử dụng không hết cho các
dự án tiếp theo; trường hợp tổ chức
hoặc Hội đồng bồi thường không
được giao thực hiện việc bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư đối với các
dự án tiếp theo, thì xử lý nộp Ngân sách nhà
nước".
5. Hiệu lực thi
hành
Thông tư này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể
từ ngày đăng Công báo. Những quy định
tại Thông tư số 116/2004/TT-BTC không sửa
đổi, bổ sung tại Thông tư này vẫn có
hiệu lực thi hành.
Trong quá trình thực hiện Thông
tư nếu phát sinh vướng mắc, đề
nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương phản ánh kịp thời cho
Bộ Tài chính để nghiên cứu, giải quyết./.
KT.BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Đỗ Hoàng Anh Tuấn