Nghị quyết 30/NQ-CP của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6 năm 2009
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Nghị quyết 30/NQ-CP
Cơ quan ban hành: | Chính phủ | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 30/NQ-CP | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Nguyễn Tấn Dũng |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 10/07/2009 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Chính sách |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Nghị quyết 30/NQ-CP
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
NGHỊ QUYẾT
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 30/NQ-CP NGÀY 10 THÁNG 7 NĂM
2009
PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 6 NĂM 2009
Trong hai ngày 06-07 tháng 7 năm 2009, Chính phủ họp phiên
thường kỳ tháng 6 năm 2009, thảo luận và quyết nghị những vấn đề sau đây:
1. Các báo cáo: Tình hình kinh tế-xã hội tháng 6 và 6 tháng
đầu năm 2009; dự báo tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam; kiểm điểm chỉ đạo,
điều hành 6 tháng đầu năm và chương trình công tác 6 tháng cuối năm 2009 của
Chính phủ; diễn biến kinh tế vĩ mô trong và ngoài nước, tình hình triển khai
các giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế và đề xuất chính sách; công tác thanh
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và đấu tranh phòng, chống tham nhũng tháng
6/2009; công tác cải cách hành chính tháng 6/2009; tình hình triển khai thực
hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam; tình hình xây dựng và trình các dự án
luật, pháp lệnh trong quý II/2009 do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ
trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Tổng Thanh tra
Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Tư pháp
trình.
Từ những tháng cuối năm 2008 và 6 tháng đầu năm 2009, cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới đã tác động tiêu cực đến
nhiều mặt của đời sống kinh tế-xã hội nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chính
phủ và các Bộ, ngành, địa phương đã chủ động dự báo tình hình và xác định đúng
mục tiêu, nêu cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, nhất trí và linh hoạt trong
chỉ đạo, điều hành, đề ra và tập trung thực hiện quyết liệt các giải pháp nhằm
ngăn chặn suy giảm kinh tế, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh
tế và bảo đảm an sinh xã hội. Chính phủ đã tập trung giải quyết tốt mối quan hệ
giữa ngăn chặn suy giảm kinh tế và phòng ngừa lạm phát; gắn việc thực hiện các
giải pháp hướng tới các mục tiêu ngắn hạn, mang tính tình thế với triển khai
các giải pháp nhằm thực hiện các mục tiêu trung và dài hạn, mang tính chất cơ
bản, lâu dài; vừa tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp kích thích tăng
trưởng kinh tế, vừa hết sức chú trọng công tác bảo đảm an sinh xã hội; vừa tiếp
tục thực hiện những giải pháp, chính sách về kinh tế-xã hội đã có và áp dụng
trong điều kiện bình thường, vừa ban hành và nhanh chóng triển khai các cơ chế,
chính sách đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; kết hợp tốt giữa giải quyết các
vấn đề cụ thể trong chỉ đạo, điều hành kinh tế-xã hội với công tác xây dựng thể
chế.
Trong 6 tháng đầu năm, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính
trị, cộng đồng doanh nghiệp và toàn dân, chúng ta đã ngăn chặn được suy giảm
kinh tế và dần tạo được đà tăng trưởng: Từ tháng 2/2009, nền kinh tế đã có
chiều hướng tăng dần, tháng sau cao hơn tháng trước. Tốc độ tăng tổng sản phẩm
trong nước quý I tăng 3,1%, quý II tăng 4,51%, tính chung 6 tháng đầu năm đạt
3,9%, là mức tăng trưởng khá trong bối cảnh nền kinh tế thế giới suy thoái, hầu
hết các nước có mức tăng trưởng âm; sản xuất công nghiệp và xây dựng đang có xu
hướng phục hồi; sản xuất nông, lâm, thủy sản phát triển ổn định; khu vực dịch
vụ có mức tăng trưởng cao; kinh tế vĩ mô tiếp tục được kiểm soát và bảo đảm
được các cân đối lớn của nền kinh tế; chính sách tài chính, tiền tệ được điều
hành linh hoạt đã phát huy tác dụng tích cực, khuyến khích, thúc đẩy đầu tư,
sản xuất và tiêu dùng; giá trị kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng từng tháng;
tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng, tiến độ giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản
có tiến bộ; công tác bảo đảm an sinh xã hội tiếp tục được đẩy mạnh hướng vào
xóa đói giảm nghèo, chăm lo cho người nghèo, giải quyết, hỗ trợ việc làm, xây
dựng nhà ở xã hội, y tế, giáo dục, tăng lương cơ bản...; thu nhập của người lao
động tiếp tục được cải thiện; sức mua thị trường trong nước tăng dần; chỉ số
giá tiêu dùng dao động ở mức thấp; công tác cải cách hành chính, giải quyết
khiếu nại tố cáo và phòng, chống tham nhũng được tiếp tục chú trọng và có nhiều
tiến bộ; công tác đối ngoại và hợp tác kinh tế quốc tế có hiệu quả đã góp phần
quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, củng cố hòa bình và nâng cao vị thế,
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; chính trị, xã hội ổn định, tạo được sự
đồng thuận trong cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và toàn dân;
quốc phòng, an ninh tiếp tục được giữ vững; trật tự an toàn xã hội có chuyển
biến. Những kết quả nêu trên đã tạo cơ sở và niềm tin cho chúng ta tiếp tục
quyết tâm phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội cả năm.
Mặc dù tình hình kinh tế-xã hội 6 tháng đầu năm 2009 đã có
những chuyển biến tích cực, nhưng để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ phát
triển kinh tế-xã hội đề ra, khó khăn, thách thức vẫn còn nhiều: tốc độ tăng
trưởng kinh tế và tăng trưởng của các ngành sản xuất còn thấp so với kế hoạch;
kinh tế vĩ mô còn tiềm ẩn nhiều vấn đề chưa vững chắc; xuất khẩu còn tiếp tục
khó khăn; tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng tăng nhanh gây sức ép
tăng chỉ số giá tiêu dùng; thu ngân sách nhà nước đạt thấp so với cùng kỳ; việc
triển khai một số chính sách an sinh xã hội còn chậm; thiên tai, dịch bệnh tiếp
tục gây khó khăn cho sản xuất và đời sống nhân dân; một số vấn đề xã hội bức
xúc chậm được giải quyết; cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu...
Bám sát mục tiêu tổng quát và các chỉ tiêu phát triển kinh
tế-xã hội đã nêu trong Nghị quyết của Quốc hội Khóa XII, Kỳ họp thứ 5, Chính
phủ đã xác định nhiệm vụ trọng tâm chỉ đạo, điều hành từ nay đến cuối năm là
phấn đấu đạt được chỉ tiêu tăng tổng sản phẩm trong nước đạt khoảng 5%; giữ ổn
định kinh tế vĩ mô, kiểm soát và khống chế tăng chỉ số giá tiêu dùng khoảng 7%,
bội chi ngân sách dưới 7%; tiếp tục thực hiện tốt nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã
hội, quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương tiếp tục thực
hiện tốt các giải pháp, chính sách đã được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 9
(khóa X), các kết luận của Bộ Chính trị, các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ
và các quyết định của Thủ tướng Chính phủ nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế,
phòng ngừa lạm phát, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế và
bảo đảm an sinh xã hội, trong đó tập trung chỉ đạo quyết liệt các giải pháp sau:
- Tiếp tục rà soát, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, đồng
thời tăng cường kiểm tra, đôn đốc quyết liệt nhằm thực hiện tốt các giải pháp
kích cầu đầu tư và tiêu dùng, thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh và xuất
khẩu.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chỉ đạo các địa
phương bảo đảm đủ nước tưới, phân bón, thuốc trừ sâu, hỗ trợ giống cây trồng,
vật nuôi chất lượng cao cho nông dân; chủ động phòng chống, không để xảy ra
dịch bệnh lây lan trên diện rộng; phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương
làm tốt công tác dự báo và phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, lũ lụt,
hạn chế thiệt hại tính mạng và tài sản của người dân; phối hợp với Bộ Công
Thương, Ngân hàng Nhà nước đề xuất giải pháp tiêu thụ lúa gạo, nông sản, thủy
sản cho nông dân.
- Bộ Công Thương tập trung chỉ đạo rà soát, tháo gỡ các khó
khăn, vướng mắc liên quan đến thủ tục đầu tư và sản xuất, kinh doanh; phối hợp
với Bộ Ngoại giao thúc đẩy hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ trực tiếp các
mặt hàng và hợp đồng xuất khẩu lớn, truyền thống, khai thác mở rộng các thị
trường xuất khẩu mới có tiềm năng; có chương trình xúc tiến thương mại và đẩy
mạnh khai thác thị trường nội địa, trong đó chú trọng thị trường nông thôn;
tăng cường các biện pháp chống buôn lậu, gian lận thương mại để bảo vệ sản xuất
trong nước.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành
liên quan, lập các đoàn công tác liên ngành kiểm tra, đôn đốc nhằm thực hiện
việc triển khai các gói kích thích kinh tế, bảo đảm sử dụng đúng đối tượng,
đúng mục đích, có hiệu quả, góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế; khẩn trương
hoàn thành Nghị định hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
các luật có liên quan đến đầu tư xây dựng cơ bản, trình Chính phủ ban hành
trong tháng 7/2009.
- Tiếp tục tập trung chỉ đạo thúc đẩy tiến độ giải ngân các
công trình, dự án sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ,
vốn ODA, nhất là đối với các công trình, dự án quy mô lớn thuộc các lĩnh vực
kết cấu hạ tầng, phát triển nông nghiệp, nông thôn. Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem
xét điều chuyển các khoản vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước của các Bộ, ngành
ở Trung ương, các khoản vốn bổ sung có mục tiêu ở địa phương, vốn trái phiếu
Chính phủ mà đến hết tháng 8/2009 chưa triển kkhai hoặc không thể giải ngân hết
trong năm 2009.
- Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Công Thương, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư theo dõi chặt chẽ diễn biến tình hình kinh tế trong và ngoài
nước, tiếp tục chỉ đạo, điều hành linh hoạt các chính sách tài chính, tiền tệ
nhằm vừa giữ được các cân đối lớn, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, vừa thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và bảo đảm ngăn ngừa tái lạm phát một cách chủ động,
hiệu quả; hướng dẫn thực hiện tốt chính sách giãn, giảm, miễn thuế, hỗ trợ lãi
suất, bảo lãnh cho vay, tạo điều kiện tốt cho doanh nghiệp phát triển sản xuất
kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu và tiêu thụ hàng hóa,
kiềm chế nhập siêu.
- Bộ Y tế tiếp tục tập trung chỉ đạo phòng chống và kiểm
soát tốt dịch sốt xuất huyết, dịch bệnh cúm A (H1N1), có phương án xử lý đúng
mức không để ảnh hưởng đến phát triển kinh tế-xã hội, nhất là du lịch, tránh
tình trạng tập trung quá tải tại một số địa điểm; Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ
Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu đề xuất công nghệ xử lý chất thải tiên
tiến, hiệu quả để hướng dẫn các địa phương triển khai đầu tư xây dựng các cơ
sở, công trình xử lý rác thải sinh hoạt tại các khu dân cư, xử lý chất thải,
nước thải y tế tại các bệnh viện; Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính xem xét
bố trí đủ nguồn vốn để đầu tư thực hiện nhiệm vụ này, phấn đấu hoàn thành dứt
điểm trong hai năm 2009-2010.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp với Bộ Xây
dựng xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ, bắt buộc các dự án, công trình phải
thực hiện các phương án xử lý môi trường có hiệu quả; tập trung xử lý dứt điểm
các điểm gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nhất là các dự án mới, dự án mở
rộng.
- Bộ Kế hgoạch và Đầu tư chịu trách nhiệm trước Chính
phủ về công tác dự báo kinh tế, đồng thời các Bộ, ngành chức năng tăng cường và
nâng cao năng lực nghiên cứu, phân tích, dự báo các biến động của tình hình
kinh tế trong nước và thế giới để đề xuất kịp thời các giải pháp, chính sách
phù hợp với thực tiễn; tăng cường phối hợp trong xử lý công việc và trong công
tác xây dựng thể chế.
- Bộ Nội vụ chủ trì tổ chức sơ kết, đánh giá tình hình thực
hiện Nghị định số 13/2008/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Nghị định số
14/2008/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, để từ đó nghiên cứu, đề xuất giải
pháp tổ chức bộ máy phù hợp với thực tiễn và phát huy tốt hiệu quả quản lý nhà
nước; xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước ở các cơ quan Bộ,
ngành, địa phương, nhất là những địa phương có nhiều khu kinh tế lớn mà mới có
3 Phó Chủ tịch để nghiên cứu, đề xuất việc tăng thêm số lượng Thứ trưởng hoặc
tương đương, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương.
- Các Bộ, ngành, địa phương chú trọng phát hiện, đào tạo, bố
trí phát huy cán bộ trẻ, cán bộ nữ có năng lực, đạo đức, phẩm chất tham gia vào
đội ngũ lãnh đạo cơ quan, tổ chức nhà nước. Tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng gắn liền với
cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao.
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ khẩn trương trình Chính phủ các
văn bản hướng dẫn các luật, pháp lệnh có hiệu lực từ trước ngày 01/7/2007; hoàn
tất việc chuẩn bị để ban hành các văn bản hướng dẫn và triển khai thực hiện tốt
các luật, pháp lệnh có hiệu lực từ ngày 1/7 và 1/8/2009; tập trung chuẩn bị để
trình Chính phủ tại các phiên họp thường kỳ các dự án luật trong chương trình
công tác quý III/2009; tổ chức triển khai thực hiện chương trình luật, pháp
lệnh năm 2010 ngay sau khi có quyết định phân công của Thủ tướng Chính phủ.
Việc dự thảo các dự án luật cần linh hoạt, căn cứ vào
nội dung của từng dự án để xây dựng các quy định khung hoặc quy định chi tiết,
cụ thể. Sau phiên họp này, Chính phủ dự kiến tổ chức một phiên họp riêng để cho
ý kiến về một số dự án luật trong chương trình công
tác quý III/2009.
- Bộ Thông tin và Truyền thông tiếp tục chỉ đạo các cơ quan
thông tin đại chúng thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các thành tựu
kinh tế - xã hội đạt được, nhằm tạo sự đồng thuận trong xã hội, động viên nhân dân,
doanh nghiệp tự tin, tiếp tục phấn đấu thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ
đặt ra; các Bộ, ngành, địa phương tăng cường chủ động cung cấp đầy đủ, kịp thời
thông tin, đáp ứng quyền được thông tin của nhân dân.
2. Chính phủ thông qua dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 204/2004/NĐ-Chính phủ ngày 14/12/2004 về chế độ
tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang do Bộ
trưởng Bộ Nội vụ trình.
Giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan, tiếp
thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự thảo Nghị định trên, trình
Thủ tướng Chính phủ ký ban hành.
3. Chính phủ thông qua dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 127/2007/NĐ-CP ngày 01/8/2007 quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật, Nghị định số
132/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Chất lượng sản phẩm, hàng hóa do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ trình.
Giao Bộ Khoa học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư
pháp, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan, tiếp thu ý kiến các thành
viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự thảo hai Nghị định trên, trình Thủ tướng Chính
phủ ký ban hành.
4. Chính phủ đã thảo luận các dự án Luật Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam (sửa đổi), Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) do Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam trình và Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo
tổng hợp các ý kiến thành viên Chính phủ.
a. Về dự án Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sửa đổi): Là
khuôn khổ pháp lý cơ bản điều chỉnh tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã góp phần từng bước hoàn thiện
khuôn khổ, thể chế tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước theo cơ chế thị
trường, nâng cao hiệu quả quản lý và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước và hệ
thống ngân hàng. Tuy nhiên, một số quy định của Luật chưa đáp ứng được yêu cầu
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước trong quá trình hội nhập
quốc tế; trong điều hành và thực thi chính sách tiền tệ; giám sát hoạt động
ngân hàng và xử lý các tổ chức tín dụng gặp khó khăn; công bố thông tin về chủ
trương, chính sách tiền tệ, ngân hàng… Vì vậy, việc xây dựng và ban hành Luật
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sửa đổi) là cần thiết để khắc phục những tồn tại,
bất cập của Luật hiện hành, nâng cao trách nhiệm, quyền hạn của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam trong hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ trong nền kinh tế
thị trường, cải cách hệ thống thanh tra, giám sát hoạt động các tổ chức tín
dụng và thực hiện các cam kết quốc tế…
b. Về Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi): Sau hơn 10 năm
thực hiện, Luật Các tổ chức tín dụng đã tạo môi trường pháp lý lành mạnh cho tổ
chức và hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng, góp phần phát triển đáng
kể quy mô, chất lượng, hiệu quả các tổ chức tín dụng và tăng cường hiệu quả
công tác quản lý nhà nước. Mặc dù vậy, trước sự pháp triển của nền kinh tế và
yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luật Các tổ chức tín dụng hiện
hành đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng đến sự phát triển của hệ
thống tín dụng cũng như yêu cầu nâng cao khả năng quản lý an toàn trong hoạt
động của hệ thống, một số quy định còn xung đột với các luật khác… Vì vậy, cần
thiết phải ban hành Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi) nhằm khắc phục các bất
cập và bảo đảm sự đồng bộ của hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu của quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế và xây dựng hệ thống các tổ chức tín dụng hiện đại.
Giao Ngân hàng Nhà nước Việt Nam báo cáo xin ý kiến Bộ Chính
trị về sự cần thiết sửa đổi, định hướng nội dung sửa đổi hai dự án luật nêu
trên; trên cơ sở ý kiến của Bộ Chính trị, chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Văn
phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan, tiếp thu ý kiến thành viên Chính phủ,
hoàn chỉnh hai dự án luật này trình Thủ tướng Chính phủ cho ý kiến trước khi
trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội./.
TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng