Nghị quyết 13/2006/NQ-CP của Chính phủ về Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6 năm 2006
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Nghị quyết 13/2006/NQ-CP
Cơ quan ban hành: | Chính phủ | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 13/2006/NQ-CP | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Nguyễn Tấn Dũng |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 07/07/2006 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Chính sách |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Nghị quyết 13/2006/NQ-CP
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
NGHỊ QUYẾT
CỦA
CHÍNH PHỦ SỐ 13/2006/NQ-CP NGÀY 07 THÁNG 7 NĂM 2006
PHIÊN
HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 6 NĂM 2006
Trong hai ngày 30 tháng 6 và 01
tháng 7 năm 2006, Chính phủ họp phiên thường
kỳ tháng 6 để đánh giá tình hình kinh tế - xã
hội và kiểm điểm sự chỉ đạo,
điều hành của Chính phủ 6 tháng đầu năm;
bàn nhiệm vụ và chương trình công tác 6 tháng cuối
năm 2006.
1. Sáu tháng qua, Chính phủ
đã tập trung chỉ đạo thực hiện
Chương trình công tác đã ban hành, thể chế hoá và
tổ chức thực hiện các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước trên tất cả
các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc
phòng, đối ngoại và cải cách hành chính; tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế; đẩy mạnh huy động vốn
đầu tư phát triển, nâng cao hiệu quả
đầu tư, chống thất thoát, lãng phí trong
đầu tư xây dựng; đẩy mạnh xã hội
hoá các mặt công tác xã hội; đồng thời, ứng
phó kịp thời và có hiệu quả những biến
động bất lợi về giá cả thị
trường, thiên tai và dịch bệnh; tiếp tục
thực hiện Chương trình cải cách hành chính nhà
nước, phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí.
Tập thể Chính
phủ, Thủ tướng và các thành viên của Chính
phủ đã nêu cao tinh thần trách nhiệm và quyết tâm
chỉ đạo điều hành, xử lý có hiệu
quả các lĩnh vực công tác; thực hiện tốt các
Nghị quyết của Trung ương Đảng,
Quốc hội và Chính phủ, bảo đảm sự chỉ
đạo điều hành toàn diện, thống nhất, có
trọng tâm, trọng điểm, vừa ổn
định các cân đối vĩ mô, vừa giải
quyết có hiệu quả, kịp thời các vấn
đề phát sinh đột xuất, cấp bách. Quan
hệ phối hợp công tác giữa Chính phủ với các
cơ quan của Đảng, Quốc hội, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân được
tiếp tục duy trì và ngày càng có nội dung thiết
thực, đồng bộ và hiệu quả. Với phong cách
làm việc cụ thể, sâu sát, điều hành quyết
liệt, gắn với việc tăng cường
kiểm tra giám sát, sự chỉ đạo điều hành
của Chính phủ đã đạt được
những kết quả đáng kể.
Nền kinh tế
vẫn duy trì được tốc độ tăng
trưởng (GDP) tương đối cao (ước
đạt 7,4%), giá trị sản xuất công nghiệp
tiếp tục duy trì tăng trưởng ở mức cao.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn do thời tiết
diễn biến bất thường và dịch bệnh cây
trồng, gia cầm, gia súc nhưng sản xuất nông
nghiệp vẫn ổn định. Kim ngạch xuất
khẩu đạt tốc độ tăng trưởng
cao. Các hoạt động dịch vụ tiếp tục
phát triển. Vốn đầu tư xã hội cho phát
triển và vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài tiếp tục tăng. Thu ngân sách nhà
nước đạt khá, chi ngân sách nhà nước cơ
bản đáp ứng nhu cầu đặt ra. Hoạt
động tiền tệ, tín dụng ổn định.
Chỉ số giá tiêu dùng tính chung 6 tháng đầu năm
2006 tăng 4%, thấp hơn so với cùng kỳ năm 2005
và vẫn trong tầm kiểm soát (cùng kỳ năm 2005
tăng 5,2%). Việc chuẩn bị gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO) và hội
nhập kinh tế quốc tế chuyển biến
thuận lợi. Một số mặt hoạt động
xã hội có tiến bộ: văn hoá - thông tin, giáo dục
và đào tạo, khoa học - công nghệ có bước phát
triển; bảo vệ môi trường có chuyển
biến tích cực; giải quyết việc làm, thực
hiện xoá đói giảm nghèo và phòng, chống dịch
bệnh tiếp tục được đẩy mạnh.
Quốc phòng an ninh được tăng cường, chính
trị - xã hội ổn định.
2 Tuy vậy, tốc độ
tăng trưởng kinh tế (GDP) 6 tháng đầu năm
thấp hơn cùng kỳ năm trước (7,6%) và
thấp hơn mục tiêu kế hoạch đề ra
(8,0%). Để hoàn thành kế hoạch tăng
trưởng cả năm là 8% thì 6 tháng cuối năm
phải phấn đấu đạt tốc độ
tăng trưởng trên 8,6%. Sản xuất nông nghiệp
gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng
thấp. Chi phí sản xuất trong nhiều ngành công
nghiệp còn cao làm cho sức cạnh tranh của nhiều
sản phẩm yếu. Thị trường trong
nước còn tiềm ẩn những yếu tố gây
biến động giá, nhất là giá xăng dầu và
những vật tư đầu vào chủ yếu của
sản xuất kinh doanh. Nền kinh tế tăng
trưởng vẫn chủ yếu là về bề
rộng, chưa bền vững, chất lượng
tăng trưởng và sức cạnh tranh thấp; cơ
chế quản lý vốn đầu tư xây dựng còn
nhiều sơ hở. Một số vấn đề
về xã hội còn nhiều khó khăn gay gắt, nhất
là về giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu
lao động có tay nghề cao cho các khu công nghiệp, khu
chế xuất và xuất khẩu lao động; yêu
cầu về cải thiện điều kiện lao
động; công tác an toàn vệ sinh thực phẩm; phòng
chống dịch bệnh và tai nạn lao động; tình
hình tội phạm, tệ nạn xã hội và tai nạn
giao thông vẫn diễn biến phức tạp. Việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân
một số nơi vẫn còn bức xúc.
Kết quả hoàn thành
các đề án trong Chương trình công tác 6 tháng
đầu năm đạt thấp, chất lượng
nhiều đề án chuẩn bị chưa cao. Công tác xây
dựng thể chế còn rất chậm, số
lượng các văn bản hướng dẫn thi hành
luật, pháp lệnh đã có hiệu lực pháp luật
tồn đọng lớn, một số văn bản có
các nội dung quy định mâu thuẫn, bất cập
nhưng chưa được xử lý kịp thời.
3. Bên cạnh những
thuận lợi cơ bản, khó khăn thách thức
đặt ra cho 6 tháng cuối năm là rất lớn,
đòi hỏi sự phấn đấu quyết liệt của
các cấp, các ngành, các doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế. Vì vậy, nhiệm vụ trọng tâm
trong chỉ đạo điều hành của Chính phủ 6
tháng cuối năm là tiếp tục triển khai thực
hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp
lớn đã được đề cập trong Nghị
quyết của Quốc hội, Nghị quyết số
01/2006/NQ-CP của Chính phủ, đồng thời, phát huy
những thành tích đã đạt được trong
sự chỉ đạo, điều hành của Chính
phủ 6 tháng đầu năm, tổ chức thực
hiện có hiệu quả các nhiệm vụ và giải pháp
trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, quốc phòng -
an ninh, đối ngoại và cải cách hành chính, cụ
thể là:
3.1. Đẩy mạnh
phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao tốc
độ tăng trưởng kinh tế. Khẩn
trương ban hành đầy đủ, đồng
bộ các văn bản hướng dẫn và tổ
chức thực hiện tốt Luật Doanh nghiệp,
Luật Đầu tư góp phần thúc đẩy sự
phát triển mạnh mẽ của các loại hình doanh
nghiệp. Tiếp tục rà soát, loại bỏ ngay các quy
định không phù hợp, gây cản trở cho các hoạt
động đầu tư, sản xuất kinh doanh,
nhất là các "giấy phép con".
Đẩy mạnh
tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Tập trung tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp,
nhất là doanh nghiệp ngoài quốc doanh để thúc
đẩy phát triển. Kịp thời xử lý các
vướng mắc, kiến nghị của doanh nghiệp.
Coi trọng hoạt động đào tạo nghề,
chấp hành pháp luật lao động, bảo đảm
an toàn, vệ sinh lao động trong doanh nghiệp. Thực
hiện các giải pháp cần thiết để
đẩy mạnh sản xuất nông, lâm nghiệp và
thủy sản.
Tăng
cường các biện pháp để phòng chống dịch
bệnh trong sản xuất nông nghiệp, trước
hết là dịch lở mồm long móng gia súc, chủ động
ngăn chặn tái phát dịch cúm gia cầm, đồng
thời tiếp tục khuyến khích chuyển
hướng sang chăn nuôi tập trung, khôi phục đàn
gia súc, gia cầm sau dịch.
Chủ động
dự báo, phòng chống thiên tai, hạn chế thấp
nhất thiệt hại do thiên tai gây ra đối với
sản xuất và đời sống nhân dân. Rà soát các phương
án bảo vệ đê điều, tu bổ hồ,
đập chứa nước và các công trình ven sông;
củng cố đê điều ở những nơi xung
yếu, đặc biệt là hệ thống đê sông
Hồng, đê biển Bắc bộ và Bắc Trung bộ.
Ban hành các cơ chế,
chính sách thích hợp, thúc đẩy phát triển đa
dạng và khai thác thế mạnh của các ngành dịch
vụ, nhất là dịch vụ tài chính, bảo hiểm,
tín dụng, du lịch, vận tải để tạo
bước phát triển mới, nâng cao chất
lượng sản phẩm dịch vụ và khả
năng cạnh tranh trên thị trường nội
địa và quốc tế.
3.2. Tập trung chỉ
đạo đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là
đối với các mặt hàng đang có thế mạnh
và có thị trường. Làm tốt hơn nữa công tác
xúc tiến thương mại, mở rộng các thị
trường truyền thống; đồng thời, tìm
kiếm thị trường xuất khẩu mới.
Đẩy mạnh công tác dự báo xu thế thị trường,
đặc biệt là ở những thị trường
lớn.
Các Bộ, ngành chức
năng đẩy mạnh việc cung cấp thông tin
thị trường, trợ giúp xúc tiến thương
mại cho các doanh nghiệp. Ban hành và phổ biến
rộng rãi các thỏa thuận đã ký kết song
phương với Hoa Kỳ và các nước, nêu rõ những
thuận lợi, khó khăn sẽ nảy sinh sau khi gia
nhập WTO để các doanh nghiệp chủ động
trong việc khai thác các điều kiện thuận lợi
cho sản xuất, xuất khẩu, đề ra giải
pháp giảm thiểu các tác động tiêu cực của
hội nhập kinh tế. Thúc đẩy, vận
động tiêu chuẩn hóa và công nhận lẫn nhau về
các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực
phẩm và hệ thống kiểm dịch giữa Việt
Nam và các đối tác thương mại nước ngoài,
đặc biệt là đối với những bạn
hàng lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản...
3.3. Đẩy mạnh
đầu tư phát triển và nâng cao hiệu quả
đầu tư là giải pháp quyết định tốc
độ tăng trưởng. Tổ chức thực
hiện giải ngân nhanh nguồn vốn đầu tư
thuộc ngân sách nhà nước, vốn ODA, tín dụng nhà
nước, trái phiếu chính phủ, công trái giáo dục.
Tháo gỡ ngay mọi phát sinh gây ách tắc, cản trở
các hoạt động đầu tư, cả về
cơ chế, chính sách và tâm lý.
Tăng cường phân
cấp trong việc cấp giấy phép và quản lý
đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thực
hiện đơn giản hoá, công khai, minh bạch các thủ
tục hành chính trong đầu tư, nhất là các quy
định về đất đai, xây dựng, hải
quan, thuế... nhằm đạt mục tiêu giảm chi phí
đầu tư, nâng cao tính cạnh tranh của môi
trường đầu tư, qua đó tranh thủ
những điều kiện quốc tế thuận
lợi để tạo nên làn sóng đầu tư
nước ngoài mới hướng vào Việt Nam sau khi gia
nhập WTO. Đẩy mạnh việc đổi mới
công tác quản lý đầu tư xây dựng; bổ sung,
hoàn thiện các cơ chế chính sách, đồng bộ các
văn bản hướng dẫn thi hành các luật,
nghị định về đầu tư xây dựng.
Tổ chức lại các Ban quản lý dự án; hoàn
thiện và ban hành quy chế tổ chức và hoạt
động của các Ban quản lý dự án ODA theo
hướng thiết thực, hiệu quả và tinh
gọn; xây dựng và thực hiện lộ trình chống
khép kín trong đầu tư và xây dựng; tăng
cường công tác giám sát, thanh tra chất lượng xây
dựng, đặc biệt chú trọng quản lý chất
lượng xây dựng các công trình kết cấu hạ
tầng nhằm ngăn chặn có hiệu quả tình
trạng tham nhũng, lãng phí, nâng cao chất lượng
công trình. Quy định rõ trách nhiệm của tổ
chức, cá nhân tư vấn thiết kế, giám sát thi công
và nhà thầu khi tham gia xây dựng công trình.
3.4. Chủ động,
tích cực chuẩn bị gia nhập WTO và thực hiện
các cam kết quốc tế có hiệu quả. Rà soát, hoàn
thiện các cơ chế, chính sách bảo đảm môi
trường kinh doanh bình đẳng, thống nhất cho
các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế,
không phân biệt doanh nghiệp trong nước và ngoài
nước. Tiếp tục thực hiện các lộ trình
giảm thuế, nghiên cứu các cơ chế, chính sách
để hỗ trợ sản xuất trong nước
một cách hợp lý trong khuôn khổ các cam kết quốc
tế; xây dựng đề án nâng cao năng lực
cạnh tranh, tận dụng cơ hội, vượt qua
thách thức khi trở thành thành viên của WTO. Tổ
chức thành công Hội nghị cấp cao APEC cùng với
việc đón các nguyên thủ quốc gia APEC thăm chính
thức Việt Nam, qua đó nâng cao vị thế
đất nước ta trong khu vực và quốc tế,
đồng thời thúc đẩy các mối quan hệ
hợp tác song phương với các đối tác lớn
trong APEC.
3.5. Ổn định
các cân đối vĩ mô của nền kinh tế,
điều hành thị trường trong nước
bảo đảm bình ổn thị trường, kiểm
soát tốc độ tăng giá thấp hơn tốc
độ tăng trưởng GDP; không để sốt hàng,
sốt giá; tăng cường công tác quản lý thị
trường, ngăn chặn và xử lý nghiêm khắc
hiện tượng lợi dụng việc biến
động giá thế giới để tăng giá các
sản phẩm không hợp lý, hạn chế tác
động dây chuyền của việc tăng giá xăng
dầu.
Tổ chức tốt
hệ thống đại lý, gắn đại lý với
các nhà sản xuất, các nhà phân phối lớn để
bảo đảm kiểm soát được giá.
Đồng thời, thực hiện các biện pháp
tiết kiệm, giảm chi phí tiêu hao vật tư, nguyên
liệu. Kiểm soát chặt chẽ việc định
giá, chi phí giá thành đối với các sản phẩm
độc quyền và có tính độc quyền, nhất là
đối với các vật tư nguyên liệu quan
trọng.
Bảo đảm
việc điều hành chính sách tài khóa gắn với chính
sách tiền tệ, ổn định các cân đối
vĩ mô. Thực hiện chính sách tiền tệ linh
hoạt và thận trọng; tăng cường sử
dụng các công cụ chính sách tiền tệ, phục
vụ tốt các mục tiêu tăng trưởng kinh
tế và kiềm chế lạm phát. Điều hoà ổn
định tỷ giá, lãi suất và cân đối ngoại
tệ; bảo đảm cung ứng đủ ngoại
tệ để nhập khẩu các vật tư nguyên
liệu quan trọng, nhất là xăng dầu, sắt thép
và một số vật tư, hóa chất chủ yếu
khác.
Thực hiện các
biện pháp chống buôn lậu, gian lận thương
mại và hàng giả, chống thất thu thuế và các
nguồn thu khác vào ngân sách nhà nước. Kiểm soát
chặt chẽ chi tiêu ngân sách nhà nước, khắc
phục tình trạng chi vượt dự toán, ứng
trước, vay để chi tiêu nhưng không có nguồn
trả, nhất là trong xây dựng cơ bản.
3.6. Giải quyết có
hiệu quả các vấn đề xã hội bức xúc:
Tăng cường phòng chống dịch bệnh,
đặc biệt là các dịch bệnh trong mùa hè và
dịch bệnh mới phát sinh. Thực hiện tốt các
nội dung đổi mới giáo dục - đào tạo,
kiên quyết khắc phục các hiện tượng tiêu
cực trong lĩnh vực này; tổ chức tốt kỳ
thi tuyển sinh đại học, cao đẳng và trung
học chuyên nghiệp; thực hiện tốt
chương trình kiên cố hoá trường lớp
học; nâng cao chất lượng đội ngũ giáo
viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo và
dạy nghề; hoàn thiện hệ thống dạy
nghề gắn với thị trường lao động
và lập nghiệp của thanh niên, từng bước
đáp ứng nguồn lao động kỹ thuật cao cho
các khu công nghiệp, khu chế xuất và xuất khẩu
lao động. Đẩy mạnh công tác xoá đói giảm
nghèo, đặc biệt đối với đồng bào
dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa; ban hành
các cơ chế, chính sách hỗ trợ để
người nghèo phấn đấu vươn lên thoát nghèo
một cách bền vững. Tiếp tục kiểm soát và
hạn chế các cuộc đình công trong các doanh nghiệp,
khu công nghiệp, khu chế xuất. Tăng cường
thực hiện các giải pháp về kiềm chế gia
tăng, tiến tới giảm dần tai nạn và ùn
tắc giao thông, lập lại trật tự kỷ
cương, trật tự an toàn giao thông; quyết liệt
trong phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã
hội.
3.7. Tiếp tục
thực hiện Chương trình cải cách hành chính;
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; tăng
cường công tác phòng, chống tham nhũng đang là
đòi hỏi bức thiết. Các Bộ, ngành và địa
phương tiến hành các hoạt động cụ
thể trong Chương trình hành động thực
hiện Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật
Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí với
những cơ chế phòng ngừa hữu hiệu, xử
lý nghiêm minh, công khai, tạo sự chuyển biến trong
nhận thức và hành động ở mọi cấp,
mọi ngành và toàn xã hội.
Chính phủ khẳng
định quyết tâm đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực, trước hết là trong các
lĩnh vực quản lý đất đai, đầu
tư xây dựng cơ bản, quản lý vốn, tài
sản của Nhà nước và doanh nghiệp nhà
nước. Người đứng đầu các cơ
quan, đơn vị từ Trung ương đến
địa phương phải chịu hoàn toàn trách
nhiệm về tổ chức phòng, chống tham nhũng,
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, về thanh
tra, kiểm tra việc thực hiện chức trách,
nhiệm vụ của công chức, viên chức thuộc
quyền. Bộ Công an khẩn trương hoàn thành kết
luận điều tra những vụ án tham nhũng
đang gây bức xúc trong dư luận, đưa ra xét
xử theo pháp luật. Các Bộ, ngành và địa
phương có kế hoạch cụ thể để nâng
cao chất lượng tuyển dụng, sử dụng,
đào tạo, bồi dưỡng công chức; xử lý
nghiêm minh, kịp thời những cán bộ, công chức
lợi dụng chức vụ, quyền hạn
được giao để nhũng nhiễu, gây phiền
hà cho dân và doanh nghiệp, loại trừ khỏi bộ máy
những cán bộ, công chức thoái hóa, biến chất,
tham nhũng, tiêu cực.
Trong 6 tháng cuối
năm, tiến hành việc rà soát, đánh giá đầy
đủ, toàn diện về việc thành lập, tổ
chức và hoạt động của các tổ chức có
chức năng tư vấn, phối hợp liên ngành;
đề xuất phương án sắp xếp,
điều chỉnh cơ bản các tổ chức này,
nhất là các tổ chức liên ngành do Thủ tướng
và các Phó Thủ tướng đứng đầu, kiên
quyết thực hiện nguyên tắc tinh giản, hiệu
quả, thiết thực; chỉ duy trì những tổ
chức thực sự cần thiết có thể giúp
Thủ tướng tập trung nghiên cứu, chỉ
đạo, phối hợp giải quyết những
vấn đề lớn, quan trọng, liên ngành vượt
quá thẩm quyền của Bộ trưởng. Theo nguyên
tắc tương tự như vậy, mỗi Bộ,
ngành, địa phương cũng phải khẩn
trương rà soát, sắp xếp lại các tổ chức
liên ngành đang tồn tại thuộc Bộ, cơ quan.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ và các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương phải đặt nhiệm vụ cải cách
hành chính gắn với phòng, chống tham nhũng, thực
hành tiết kiệm, chống lãng phí là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm trong công tác chỉ đạo,
điều hành của mình.
3.8. Tạo chuyển
biến mạnh trong công tác xây dựng thể chế,
đổi mới sự chỉ đạo điều hành
của Chính phủ và các cơ quan hành chính Nhà nước.
Khẩn trương ban hành Chương trình hành
động thực hiện Nghị quyết Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Nghị
quyết của Quốc hội về nhiệm vụ
kế hoạch 5 năm 2006 - 2010. Đẩy nhanh tiến
độ nghiên cứu, soạn thảo, thẩm
định, thẩm tra; tăng cường sự phối
hợp giữa các Bộ, cơ quan trong việc xây dựng
các văn bản pháp luật. Từ nay đến hết
năm phải khắc phục về cơ bản tình
trạng nợ đọng các văn bản hướng
dẫn thi hành luật, pháp lệnh.
Nghiên cứu, trình
Quốc hội sửa đổi Luật Tổ chức
Chính phủ, bổ sung thêm những quy định pháp lý
mới, thiết thực về đổi mới phương
thức và nội dung chỉ đạo điều hành
của Chính phủ. Xác định lại một cách
đích thực nội dung và phạm vi quản lý Nhà
nước mà Chính phủ phải làm để đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới
như gia nhập WTO, đẩy mạnh xã hội hoá và
sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước...;
từng bước sắp xếp lại bộ máy Chính
phủ và hệ thống cơ quan hành chính theo hướng
tinh gọn, rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả. Cải tiến lề lối làm việc và phong cách
chỉ đạo điều hành theo đúng các quy chế
làm việc đã ban hành; nâng cao chất lượng hội
họp, giảm giấy tờ hành chính. Các Bộ có thay
đổi lãnh đạo phải khẩn trương bàn
giao, ổn định tổ chức, bảo đảm
triển khai thực hiện liên tục nhiệm vụ.
Người đứng đầu các cơ quan hành chính Nhà
nước giảm các chức danh kiêm nhiệm, giảm các
hoạt động nghi lễ không thực sự cần
thiết, dành thời gian tập trung chỉ đạo,
kiểm tra các công việc trọng tâm; kịp thời
phát hiện và tháo gỡ những khó khăn, vướng
mắc đang cản trở việc thực hiện
kế hoạch; phấn đấu hoàn thành thắng
lợi nhiệm vụ kế hoạch năm 2006./.
TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn
Dũng