Nghị quyết 05/2005/NQ-CP của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao
- Tóm tắt
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Nghị quyết 05/2005/NQ-CP
Cơ quan ban hành: | Chính phủ | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 05/2005/NQ-CP | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 18/04/2005 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Chính sách, Văn hóa-Thể thao-Du lịch |
TÓM TẮT VĂN BẢN
* Hoạt động xã hội - Ngày 18/4/2005, Chính phủ ra Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao. Theo Nghị quyết, về giáo dục - đào tạo, Nhà nước tiếp tục tăng tỷ lệ chi ngân sách, huy động nguồn lực của các ngành, các cấp, các tổ chức kinh tế - xã hội và cá nhân để phát triển giáo dục - đào tạo. Mặt khác, đổi mới cơ bản chế độ học phí, khuyến khích thành lập các cơ sở giáo dục, đào tạo và dạy nghề ngoài công lập. Củng cố, phát triển và nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục từ xa, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng... Về y tế, Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư, trong đó bảo đảm ngân sách chi cho y tế công cộng, chăm sóc sức khỏe cơ bản cho các đối tượng chính sách, người nghèo và trẻ em dưới sáu tuổi. Tăng cường các hoạt động chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân, đẩy mạnh tiến độ phát triển và nâng cao chất lượng bảo hiểm y tế bắt buộc theo hướng đa dạng hóa các loại hình. Nghị quyết cũng nêu rõ, cần đổi mới chế độ viện phí, khuyến khích mở bệnh viện, phòng khám tư, bác sĩ gia đình cũng như ngăn chặn, xóa bỏ độc quyền trong xuất nhập khẩu, sản xuất và cung ứng thuốc chữa bệnh... Về văn hóa, tăng cường quản lý nhà nước các hoạt động văn hóa, đồng thời có chính sách thu hút mọi nguồn lực, thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân dân tham gia các hoạt động và sáng tạo văn hóa. Có bước đi thích hợp trong việc xã hội hóa một số hoạt động văn hóa chuyên ngành theo từng loại hình, vùng miền, phát triển mạnh ở các vùng kinh tế phát triển. Từng bước chuyển sang loại hình ngoài công lập các đoàn nghệ thuật, các trường đào tạo văn hóa - nghệ thuật trung cấp... Về thể dục - thể thao, ngoài việc Nhà nước tăng đầu tư cho lĩnh vực này, cần tuyên truyền, vận động và tổ chức để ngày càng có nhiều người tập luyện thể dục, thể thao. Bên cạnh đó, từng bước tạo lập và phát triển thị trường dịch vụ...
Xem chi tiết Nghị quyết 05/2005/NQ-CP tại đây
tải Nghị quyết 05/2005/NQ-CP
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
NGHỊ
QUYẾT
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 05/2005/NQ-CP NGÀY 18 THÁNG 4
NĂM 2005
VỀ ĐẨY MẠNH Xà HỘI HOÁ CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC,
Y TẾ, VĂN HOÁ VÀ THỂ DỤC THỂ THAO
Thực hiện chủ trương xã hội hoá các lĩnh vực
hoạt động xã hội theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/CP ngày 21 tháng 8 năm 1997 về
phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá
(dưới đây gọi tắt là Nghị quyết 90) và Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng
8 năm 1999 về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong
lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao (dưới đây gọi tắt là Nghị định 73).
Tại phiên họp thường kỳ tháng 9 năm 2004,
Chính phủ đã đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết 90 và Nghị định 73 và
quyết định ban hành Nghị quyết về đẩy mạnh và nâng cao chất lượng xã hội hoá
trong các lĩnh vực nói trên để thống nhất hơn nữa về nhận thức và chủ trương,
có cơ chế, chính sách cụ thể, có giải pháp và bước đi thích hợp đến năm 2010.
GIÁO DỤC, Y TẾ, VĂN HOÁ VÀ THỂ DỤC THỂ THAO
Qua 7 năm triển khai
thực hiện Nghị quyết 90 và 5 năm thực hiện Nghị định 73, công tác xã hội hoá
các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao đã thu được những kết
quả quan trọng: tiềm năng và nguồn lực to lớn của xã hội bước đầu được phát
huy; khu vực ngoài công lập phát triển với những loại hình và các phương thức
hoạt động mới, đa dạng, phong phú; khu vực công lập đã có nhiều đổi mới trong
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, trong quá
trình thực hiện xã hội hoá đã bộc lộ những mặt hạn
chế, bất cập. Hạn chế lớn nhất là tốc độ xã hội hoá còn chậm so với tiềm năng
và chỉ tiêu định hướng của Nghị quyết 90; mức độ phát triển xã hội hoá không
đồng đều giữa các vùng miền và cả giữa các tỉnh, thành phố, địa phương có điều
kiện kinh tế - xã hội như nhau.
Công
tác quản lý còn bất cập cả trong định hướng phát triển, quy hoạch và chỉ đạo
thực hiện. Việc triển khai thực hiện còn chậm và nhiều lúng túng. Quản
lý nhà nước vừa gò bó, vừa buông lỏng; cơ chế chính sách chưa cụ thể, rõ ràng,
thiếu đồng bộ, còn chưa phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Các lực lượng xã hội chưa được tổ chức và phối hợp tốt để chủ động, tích
cực tham gia vào quá trình xã hội hoá.
Khi thu nhập xã hội tăng lên, nhiều gia đình đã tự túc về các
nhu cầu giáo dục, y tế... (như du học tự túc, khám chữa bệnh ở các cơ sở tư
nhân) thì Nhà nước vẫn sử dụng chính sách bao cấp qua chế độ phí thấp cho tất
cả mọi người, đặt Nhà nước luôn ở trong tình trạng hạn hẹp về ngân sách, không
đủ điều kiện để chăm lo tốt hơn cho các đối tượng chính sách, cho người nghèo,
vùng nghèo, vùng khó khăn, đồng thời cũng không tập trung được cho những mục
tiêu ưu tiên.
Trong các lĩnh vực
giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, các cơ sở công lập chiếm tỷ trọng lớn vẫn áp
dụng cơ chế quản lý
Nguyên nhân của những hạn chế trước hết là do nhận thức còn chưa
đầy đủ, xem xã hội hoá chỉ là biện pháp huy động sự đóng góp của nhân dân trong
điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp. Tư tưởng và thói quen
bao cấp vẫn còn khá nặng nề.
Trong chính sách xã
hội hoá, chưa quy định rành mạch về sở hữu của các cơ sở ngoài công lập (bán
công, dân lập); chưa phân định rõ sự khác biệt giữa các hoạt động có bản chất
lợi nhuận và phi lợi nhuận trong các cơ sở giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể
thao, giữa phúc lợi cho người dân và việc bao cấp cho các cơ sở công lập.
Thực tế đòi hỏi phải
tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, giải pháp để vừa bảo đảm định hướng phát
triển, vừa khuyến khích, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng xã hội hoá các hoạt
động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể thao.
II. QUAN
ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHUNG
1. Thực hiện xã hội
hoá nhằm hai mục tiêu lớn: thứ nhất là phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất
trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá,
thể dục thể thao; thứ hai là tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối
tượng chính sách, người nghèo được thụ hưởng thành quả giáo dục, y tế, văn hoá,
thể dục thể thao ở mức độ ngày càng cao.
2. Nhà nước tiếp tục
đổi mới cơ chế quản lý, đẩy mạnh việc hoàn thiện chính sách; tăng nguồn lực đầu
tư, đồng thời đổi mới mục tiêu, phương thức, cơ cấu và nguồn vốn đầu tư; tập
trung cho các mục tiêu ưu tiên, các chương trình quốc gia phát triển giáo dục,
y tế, văn hoá, thể dục thể thao; hỗ trợ các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc ít người; ưu đãi các đối tượng chính sách và trợ giúp người nghèo trên
cơ sở đổi mới chế độ miễn, giảm phí theo hướng công khai, hợp lý và cấp trực
tiếp tới đối tượng thụ hưởng.
3. Chuyển các cơ sở
công lập đang hoạt động theo cơ chế sự nghiệp mang nặng tính hành chính bao cấp
sang cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ công ích không bao cấp tràn lan và không
nhằm lợi nhuận (gọi tắt là cơ chế cung ứng dịch vụ): có đầy đủ quyền tự chủ về
tổ chức và quản lý; thực hiện đúng mục tiêu và nhiệm vụ; hạch toán đầy đủ chi
phí, cân đối thu chi...; thường xuyên nâng cao hiệu quả và chất lượng dịch vụ,
sản phẩm; bảo đảm quyền lợi và cơ hội tiếp cận bình đẳng của người thụ hưởng.
Đổi mới chế độ thu phí đi đôi với việc thực hiện tốt chính sách ưu đãi các
đối tượng chính sách và trợ giúp người nghèo. Mức phí quy định theo nguyên tắc đủ trang trải các chi phí cần thiết, có tích
luỹ để đầu tư phát triển và xoá bỏ mọi khoản thu khác. Người thụ hưởng có quyền
lựa chọn cơ sở cung ứng dịch vụ phù hợp với từng lĩnh vực.
4. Phát triển mạnh
các cơ sở ngoài công lập với hai loại hình: dân lập và
tư nhân. Quyền sở hữu của các cơ sở ngoài công lập được xác định theo Bộ luật
Dân sự. Tiến tới không duy trì loại hình bán công.
Mỗi cơ sở ngoài công
lập đều có thể hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận
hoặc theo cơ chế lợi nhuận. Theo cơ chế phi lợi nhuận thì
ngoài phần được dùng để bảo đảm lợi ích hợp lý của các nhà đầu tư, phần để tham
gia thực hiện các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, trợ giúp người nghèo,
lợi nhuận chủ yếu được dùng để đầu tư phát triển. Theo cơ chế lợi nhuận thì lợi nhuận có thể được chia cho các cá nhân và phải chịu
thuế. Nhà nước khuyến khích phát triển các cơ sở phi lợi
nhuận.
Tiến hành chuyển một
số cơ sở thuộc loại hình công lập sang loại hình ngoài
công lập để tập thể hoặc cá nhân quản lý và hoàn trả vốn cho Nhà nước.
Khuyến khích đầu tư
trong và ngoài nước bằng nhiều hình thức phù hợp với
quy hoạch phát triển, yêu cầu và đặc điểm của từng lĩnh vực. Các
nhà đầu tư được bảo đảm lợi ích hợp pháp về vật chất và tinh thần.
5. Nhà nước tăng
cường hoạt động thanh tra, kiểm tra việc thực hiện luật pháp; phát huy vai trò
của các đoàn thể, tổ chức quần chúng, đặc biệt là các hội nghề nghiệp trong
việc giám sát các hoạt động dịch vụ.
Nhà nước tạo môi
trường phát triển, môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng theo luật pháp để
thúc đẩy các cơ sở công lập và ngoài công lập phát triển cả về quy mô và chất
lượng, xây dựng các cơ sở đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế
giới.
III. ĐỊNH
HƯỚNG PHÁT TRIỂN Xà HỘI HOÁ TRONG CÁC
LĨNH VỰC GIÁO DỤC, Y TẾ, VĂN HOÁ VÀ THỂ DỤC THỂ THAO
1. Giáo dục - đào
tạo
a) Nhà nước tiếp tục
tăng tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo. Bảo đảm kinh phí cho giáo dục
phổ cập; tập trung đầu tư cho các nhiệm vụ trọng điểm, các chương trình mục
tiêu quốc gia; đào tạo nhân lực cho các ngành, nghề mũi nhọn, trọng điểm, khó
huy động nguồn lực từ xã hội; ưu tiên đầu tư cho những vùng khó khăn, vùng đồng
bào dân tộc ít người.
Nhà nước có cơ chế,
chính sách đào tạo đủ về số lượng và bảo đảm chất lượng giáo viên, cán bộ quản
lý giáo dục và các nhân viên khác, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng
khó khăn; tiếp tục thực hiện các cơ chế chính sách khuyến khích, thu hút học
sinh, sinh viên giỏi làm giáo viên, giảng viên, gắn đào tạo với sử dụng.
b) Huy động nguồn lực của các ngành, các cấp,
các tổ chức kinh tế - xã hội và cá nhân để phát triển giáo dục - đào tạo. Tăng
cường quan hệ của nhà trường với gia đình và xã hội;
huy động trí tuệ, nguồn lực của toàn ngành, toàn xã hội vào việc đổi mới nội
dung, chương trình, thực hiện giáo dục toàn diện. Ban hành cơ chế chính sách cụ
thể khuyến khích và quy định trách nhiệm các ngành, địa phương, các tổ chức
kinh tế - xã hội và người sử dụng lao động tham gia xây dựng trường, hỗ trợ
kinh phí cho người học, thu hút nhân lực đã được đào tạo và giám sát các hoạt
động giáo dục.
c) Đổi mới cơ bản
chế độ học phí: ngoài phần hỗ trợ của Nhà nước theo khả năng ngân sách, học phí
cần bảo đảm trang trải chi phí cần thiết cho giảng dạy, học tập và có tích luỹ
để đầu tư phát triển nhà trường; bước đầu đủ bù đắp chi phí thường xuyên. Xoá bỏ
mọi khoản thu khác ngoài học phí.
Nhà nước có chính
sách trợ cấp học phí hoặc học bổng cho học sinh giáo dục phổ cập, cho người học
là đối tượng chính sách, những người ở vùng khó khăn, những người nghèo và
những người học xuất sắc, không phân biệt học ở trường công lập hay ngoài công
lập.
d) Khuyến khích
thành lập các cơ sở giáo dục, đào tạo và dạy nghề ngoài công lập; chuyển một số cơ sở
công lập sang loại hình ngoài công lập. Hạn chế mở thêm các
cơ sở công lập ở những vùng kinh tế phát triển. Không
duy trì các cơ sở bán công, các lớp bán công trong trường công.
Khuyến khích việc
hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo có chất lượng cao của nước
ngoài; khuyến khích mở các các cơ sở giáo dục đào tạo có chất lượng cao, có uy
tín bằng 100% vốn đầu tư nước ngoài; khuyến khích các nhà khoa học, giáo dục có
trình độ cao ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia giảng
dạy tại Việt Nam.
đ) Củng cố, phát
triển và nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục từ xa, trung tâm giáo dục
thường xuyên, trung tâm học tập cộng đồng đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên
của mọi người, ở mọi nơi, mọi trình độ và mọi lứa
tuổi.
e) Chỉ tiêu định
hướng đến năm 2010:
Chuyển phần lớn các
cơ sở đào tạo và dạy nghề công lập và một phần các cơ sở giáo dục không đảm
nhận nhiệm vụ giáo dục phổ cập sang hoạt động theo cơ
chế cung ứng dịch vụ. Chuyển tất cả các cơ sở bán công sang loại hình dân lập hoặc tư thục.
Tỷ lệ học sinh nhà
trẻ ngoài công lập chiếm 80%, mẫu giáo 70%, trung học phổ thông
40%, trung học chuyên nghiệp 30%, các cơ sở dạy nghề 60%, đại học, cao đẳng
khoảng 40%.
2. Y tế
a) Nhà nước tiếp tục
tăng đầu tư cho y tế, trong đó bảo đảm ngân sách cho y tế công cộng, chăm sóc
sức khoẻ cơ bản cho các đối tượng chính sách, người nghèo và trẻ em dưới 6
tuổi. Ưu tiên đầu tư cho hệ thống y tế dự phòng, y tế cơ sở, đặc biệt là ở vùng
sâu, vùng xa, vùng khó khăn, các bệnh viện nhi, khoa
nhi, các chuyên khoa ít có khả năng thu hút đầu tư. Triển
khai đề án đào tạo bác sĩ, dược sĩ đại học cho vùng núi phía Bắc, miền Trung,
Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. ưu tiên đầu tư
phát triển nguồn nguyên liệu dược và sản xuất thuốc trong nước.
b) Tăng cường các
hoạt động chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Vận
động mọi người tham gia chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho
bản thân, gia đình và cộng đồng. Khuyến khích các cá nhân,
tổ chức trong nước và nước ngoài hoạt động từ thiện, cung cấp, hỗ trợ các thiết
bị y tế và hỗ trợ khám chữa bệnh.
c) Đẩy nhanh tiến độ
phát triển và nâng cao chất lượng bảo hiểm y tế; củng
cố và mở rộng bảo hiểm y tế bắt buộc theo hướng đa dạng hoá các loại hình bảo
hiểm y tế đáp ứng nhu cầu của nhân dân; phát triển mạnh bảo hiểm y tế cộng đồng
dựa chủ yếu vào sự đóng góp của người tham gia bảo hiểm, có sự trợ giúp của Nhà
nước và các nguồn tài trợ khác; khuyến khích các loại hình bảo hiểm y tế tự
nguyện.
Mở rộng diện các cơ
sở y tế đăng ký khám chữa bệnh theo bảo hiểm y tế. Từng bước thực hiện người đóng bảo hiểm y tế tự lựa chọn cơ sở khám
chữa bệnh phù hợp. Nhà nước quy định chế độ thanh toán
bảo hiểm y tế, đồng thời có chính sách ưu đãi đối với các đối tượng chính sách,
trẻ em dưới 6 tuổi, trợ giúp người nghèo, đồng bào dân tộc ít người, vùng khó
khăn.
d) Đổi mới chế độ
viện phí trên cơ sở từng bước tính đúng, tính đủ các chi phí trực tiếp phục vụ bệnh
nhân. Từng bước chuyển đổi việc cấp kinh phí hoạt động thường xuyên cho các cơ
sở khám chữa bệnh sang cấp trực tiếp cho đối tượng thụ hưởng dịch vụ y tế do
Nhà nước cung cấp thông qua hình thức bảo hiểm y tế.
đ) Khuyến khích mở
bệnh viện, phòng khám tư nhân, bác sĩ gia đình.
e) Ngăn chặn, xoá bỏ
độc quyền trong xuất nhập khẩu, sản xuất và cung ứng thuốc chữa bệnh.
g) Chỉ tiêu định
hướng đến năm 2010:
Thực
hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
Chuyển hầu hết các
bệnh viện công lập sang hoạt động theo cơ chế cung ứng
dịch vụ; hoàn thành việc chuyển các cơ sở y tế bán công sang dân lập hoặc tư
nhân.
Các
tỉnh, thành phố có điều kiện kinh tế phát triển đều có bệnh viện ngoài công
lập.
3. Văn hoá
a) Tăng cường quản
lý nhà nước các hoạt động văn hoá. Tăng đầu tư cho văn hoá,
trong đó ưu tiên các vùng nghèo, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng
xa và bảo tồn, tôn tạo, phát huy các di sản văn hoá vật thể và phi vật thể.
Duy trì và phát
triển dưới hình thức công lập đóng vai trò chủ chốt trong sự nghiệp phát triển
văn hoá đối với một số đoàn nghệ thuật truyền thống và tiêu biểu, các bảo tàng,
ban quản lý di tích, thư viện quốc gia, thư viện tỉnh, thành phố, quận huyện,
các đội thông tin, chiếu bóng lưu động, các trường đào tạo nghệ thuật đỉnh cao,
đào tạo cán bộ văn hoá nghệ thuật đầu ngành, cán bộ văn hoá nghệ thuật dân tộc
thiểu số....
b) Có chính sách thu
hút mọi nguồn lực, thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân dân tham gia các hoạt
động và sáng tạo văn hoá nhằm cung cấp, phổ biến và tạo ra nhiều sản phẩm, tác
phẩm, công trình văn hoá có chất lượng, dân tộc và hiện đại để không ngừng nâng
cao mức hưởng thụ văn hoá của nhân dân. Khuyến khích khôi phục và phát triển
các loại hình văn hoá nghệ thuật truyền thống, các trò chơi dân gian của các
dân tộc Việt Nam.
c) Có bước đi thích
hợp trong việc xã hội hoá một số hoạt động văn hoá chuyên ngành cho từng loại
hình, vùng, miền, đặc biệt là tập trung phát triển mạnh ở các vùng kinh tế phát
triển bao gồm: hoạt động nghệ thuật, đào tạo văn hoá nghệ thuật, điện ảnh, xuất
bản - in - phát hành, bảo tồn di sản văn hoá, mỹ thuật - nhiếp ảnh, thư viện,
dịch vụ bảo hộ quyền tác giả. Khuyến khích phát triển các bảo tàng tư nhân.
d) Từng bước chuyển
sang loại hình ngoài công lập các đoàn nghệ thuật, các
trường đào tạo văn hóa - nghệ thuật trung cấp. Khuyến khích một số khoa hoặc
ngành đào tạo không chuyên sâu, có tính phổ thông,
quần chúng của các trường văn hoá nghệ thuật công lập tách ra để thành lập các
cơ sở văn hoá nghệ thuật ngoài công lập.
Khuyến khích các đơn
vị, tổ chức ngoài công lập phối hợp với các tổ chức công lập xây dựng đời sống
văn hoá cơ sở theo định hướng của nhà nước; xây dựng các thiết chế văn hoá
thông tin cơ sở ở xã, phường, thị trấn, thôn, làng, ấp, bản, cơ quan, đơn vị
theo nguyên tắc tự tổ chức, tự quản lý và chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan
có thẩm quyền.
đ) Chỉ tiêu định
hướng đến năm 2010:
Chuyển toàn bộ số cơ
sở công lập hiện có thuộc ngành văn hoá sang hoạt động theo
cơ chế cung ứng dịch vụ.
4. Thể dục, thể thao
a) Nhà nước tăng đầu
tư cho phát triển thể dục thể thao, trong đó tập trung cho các môn thể thao
thành tích cao, xây dựng một số trung tâm thể thao quốc gia và vùng đạt trình
độ, tiêu chuẩn tổ chức thi đấu quốc tế; phát hiện, bồi dưỡng các tài năng thể
dục thể thao; hỗ trợ thể thao quần chúng.
b) Tuyên truyền, vận
động và tổ chức để ngày càng có nhiều người tập luyện thể dục thể thao, góp
phần nâng cao tầm vóc và thể chất con người Việt Nam, đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của nhân dân về hoạt động thể dục thể thao; phát hiện, bồi dưỡng các tài
năng thể dục thể thao của đất nước.
c) Từng bước tạo lập
và phát triển thị trường dịch vụ thể dục thể thao. Khuyến
khích phát triển các cơ sở thể dục thể thao ngoài công lập, các tổ chức xã hội
về thể dục thể thao. Khuyến khích chuyên nghiệp hoá
thể thao thành tích cao trong những lĩnh vực thích hợp. Đẩy mạnh hợp tác
quốc tế về thể dục thể thao.
d) Chỉ tiêu định
hướng đến năm 2010:
Hoàn thành việc
chuyển các cơ sở thể dục thể thao công lập sang hoạt động theo
cơ chế cung ứng dịch vụ; chuyển một số cơ sở công lập có đủ điều kiện sang loại
hình ngoài công lập. Các cơ sở thể dục thể thao ngoài công
lập chiếm khoảng 80 - 85% tổng số cơ sở trong toàn quốc.
Xây dựng hiệp hội,
liên đoàn cấp quốc gia với tất cả các môn thể thao; 80% số môn thể thao có hiệp
hội hoặc liên đoàn cấp tỉnh. Việt
IV. CÁC
GIẢI PHÁP VÀ CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH LỚN
1. Đẩy mạnh công tác
tuyên truyền, nghiên cứu lý luận, nâng cao nhận thức về xã hội hoá
Tuyên truyền sâu
rộng chủ trương, chính sách về xã hội hoá để các cấp ủy Đảng, chính quyền các
cấp, các đơn vị công lập, ngoài công lập và nhân dân có nhận thức đúng, đầy đủ,
thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hoá trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn
hoá, thể dục thể thao.
Tăng cường công tác
nghiên cứu lý luận, làm rõ các vấn đề về sở hữu, về tính chất hoạt động lợi
nhuận và hoạt động phi lợi nhuận, về trách nhiệm xã hội của các tổ chức, về
hình thức xã hội hoá trong mỗi lĩnh vực, để từ đó tiếp tục hoàn thiện cơ chế,
chính sách.
Phát động các phong
trào thi đua, xây dựng và nhân rộng các điển hình xã
hội hoá trong từng lĩnh vực.
2. Tiếp tục đổi mới
chính sách và cơ chế quản lý
a) Hoàn thiện các
quy chế
Hoàn thiện các quy
định về mô hình, quy chế hoạt động của các đơn vị ngoài công lập theo hướng:
quy định rõ trách nhiệm, mục tiêu hoạt động, nội dung, chất lượng dịch vụ, sản
phẩm, chế độ sở hữu và cơ chế hoạt động; quy định chế độ tài chính và trách
nhiệm thực hiện chính sách và nghĩa vụ xã hội của các tổ chức hoạt động theo cơ
chế phi lợi nhuận và áp dụng cơ chế doanh nghiệp đối với các cơ sở hoạt động
theo cơ chế lợi nhuận.
Hoàn thiện hoặc ban
hành mới quy chế hoạt động của các loại quỹ; thể chế hoá vai trò và chức năng
của các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp tham gia vào quá trình
xã hội hoá.
Đơn
giản các thủ tục hành chính trong việc thành lập các cơ sở ngoài công lập trên
cơ sở quy định chặt chẽ, hướng dẫn chi tiết điều kiện thành lập, điều kiện hành
nghề và cơ chế hậu kiểm.
Quy định điều kiện, thủ tục chuyển từ loại hình công
lập sang các loại hình ngoài công lập.
Sửa đổi Nghị định 73
về cơ chế chính sách khuyến khích xã hội hoá; rà soát, sửa đổi các quy định,
quy chế đã ban hành trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao,
đồng thời nghiên cứu mở rộng cho các lĩnh vực khoa học công nghệ, môi trường và
các lĩnh vực xã hội khác.
b) Chuyển cơ chế
hoạt động của các cơ sở công lập sang cơ chế cung ứng dịch vụ.
Sửa đổi Nghị định số
10/2002/NĐ-CP về cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập có thu
chuyển sang hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ nhằm tạo điều kiện phát
triển, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ và tăng hiệu quả đầu tư của nhà
nước cho phúc lợi xã hội. Hoạt động tài chính của cơ sở hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ phải được công khai và được
kiểm toán. Chênh lệch thu chi phải chủ yếu được dùng để đầu tư phát triển cơ
sở.
c) Đổi mới cơ chế sử
dụng ngân sách nhà nước trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể
thao
Nghiên cứu xây dựng
và từng bước thực hiện chính sách đấu thầu cung cấp dịch vụ do nhà nước đặt
hàng; khuyến khích các cơ sở thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia.
Nghiên cứu chuyển
việc cấp phần kinh phí nhà nước hỗ trợ cho người hưởng thụ thông qua các cơ sở
công lập sang cấp trực tiếp cho người hưởng thụ phù hợp với từng lĩnh vực; từng
bước tạo điều kiện để người hưởng thụ lựa chọn cơ sở dịch vụ không phân biệt
công lập hay ngoài công lập; từng bước chuyển việc thực hiện chính sách xã hội
hiện đang giao cho các cơ sở công lập sang cho chính quyền địa phương các cấp.
Nhà nước hỗ trợ ban
đầu có thời hạn cho các cơ sở công lập chuyển sang loại hình
ngoài công lập; hỗ trợ khuyến khích các cơ sở ngoài công lập đăng ký hoạt động
theo cơ chế phi lợi nhuận. Các cơ sở ngoài công lập được tham gia bình đẳng trong việc nhận thầu các dịch vụ do nhà nước đặt
hàng. Thí điểm việc Nhà nước cho các cơ sở ngoài công lập
(nhất là ở các vùng khó khăn, vùng kém phát triển) thuê dài hạn cơ sở hạ tầng.
d) Chính sách thuế
Có chính sách ưu đãi
đối với các cơ sở ngoài công lập, đặc biệt là với các cơ sở hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận.
đ) Chính sách huy
động vốn và tín dụng
Ban hành quy định về
việc các cơ sở công lập hợp tác, liên kết với địa phương, doanh nghiệp, cá nhân
trong việc xây dựng cơ sở vật chất, các cơ sở ngoài công lập huy động vốn để
đầu tư phát triển cơ sở vật chất và hoàn trả theo thoả thuận.
Ban hành chính sách
bảo đảm lợi ích chính đáng, hợp pháp về vật chất và tinh thần, về quyền sở hữu
và thừa kế đối với phần vốn góp và lợi tức của các cá nhân, tập thể thuộc các
thành phần kinh tế, các tầng lớp xã hội tham gia xã hội hoá và chính sách ưu
đãi tín dụng từ Quỹ hỗ trợ phát triển của Nhà nước.
Tiếp tục phát triển
các loại quỹ khám, chữa bệnh cho người nghèo, quỹ phát triển văn hoá, quỹ
khuyến học, quỹ hỗ trợ học nghề v.v... trên nguyên tắc: công khai, minh bạch và
quản lý theo quy định của pháp luật.
e) Chính sách đất
đai
Các
địa phương cần điều chỉnh quy hoạch đất đai dành quỹ đất ưu tiên cho việc xây
dựng các cơ sở giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao công lập và ngoài công
lập.
Thực hiện việc miễn
tiền sử dụng đất, thuê đất đối với các cơ sở ngoài công lập hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận. Công khai, đơn
giản hoá thủ tục giao đất, cho thuê đất. Xử lý kiên quyết, dứt điểm tình trạng lấn chiếm, sử dụng đất sai mục đích.
g) Chính sách nhân lực
Thực hiện chính sách
bình đẳng giữa khu vực công lập và ngoài công lập về thi đua khen thưởng, về
công nhận các danh hiệu nhà nước, về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, về tiếp nhận,
thuyên chuyển cán bộ từ khu vực công lập sang ngoài công lập và ngược lại.Từng
bước xoá bỏ khái niệm ''biên chế'' trong các cơ sở công lập, chuyển dần sang
chế độ ''hợp đồng'' lao động dài hạn.
Ban hành chính sách
đối với cán bộ hành nghề và cán bộ, viên chức nhà nước tham gia hành nghề trong
các cơ sở ngoài công lập; quy định trách nhiệm của cơ sở ngoài công lập bảo đảm
chất lượng và số lượng cán bộ cơ hữu, cán bộ kiêm nhiệm phù hợp với quy mô và
ngành nghề, bảo đảm chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chế độ đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, viên chức.
Ban hành chính sách
đào tạo lại, trẻ hoá đội ngũ trong giai đoạn chuyển đổi loại hình hoặc chuyển
đổi cơ chế hoạt động của các cơ sở công lập, chính sách đào tạo và hỗ trợ của
Nhà nước trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của các cơ sở ngoài công lập,
chính sách hỗ trợ các cơ sở ngoài công lập tự đào tạo, phát triển nhân lực, kể
cả việc đào tạo ở nước ngoài và thu hút nhân tài, chuyên gia, nhà quản lý nước
ngoài đến làm việc.
h) Đổi mới cơ chế
quản lý nhà nước
Nhà nước quản lý
thống nhất đối với các cơ sở công lập và ngoài công lập; tạo điều kiện thuận
lợi để các cơ sở đó cùng phát triển ổn định, lâu dài; bảo đảm lợi ích của từng
cá nhân, tập thể và của toàn xã hội; phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách
nhiệm của từng cấp, của tập thể và cá nhân người đứng đầu các cơ quan hành
chính nhà nước các cấp; gắn phân cấp nhiệm vụ với phân cấp quản lý về tài
chính, tổ chức nhân sự và bảo đảm các điều kiện vật chất khác.
Tách
bạch quản lý nhà nước khỏi việc điều hành công việc thường xuyên của cơ sở. Một mặt trao cho cơ sở đầy đủ quyền tự chủ
và trách nhiệm; mặt khác bảo đảm quyền sở hữu và vai trò của đại diện chủ sở
hữu trong các cơ sở công lập và ngoài công lập.
Hoàn
thiện việc phân cấp quản lý, tăng quyền chủ động và trách nhiệm của các địa
phương. Các địa phuơng
căn cứ vào cơ chế, chính sách chung, quyết định cơ chế, chính sách cụ thể cho
địa phương, xây dựng quy hoạch phát triển xã hội hóa đối với từng lĩnh vực giáo
dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao trên từng địa bàn. Cấp quận, huyện có
quyền cấp phép thành lập các cơ sở do quận, huyện quản lý.
Đẩy mạnh công tác
thanh tra, kiểm tra. Quy định chế độ và trách nhiệm thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm của các cấp, đồng thời, phát huy dân chủ ở cơ sở để
giám sát công việc quản lý của các cấp.
Phát huy vai trò
giám sát của các Hội nghề nghiệp về chất lượng hoạt động của các cơ sở, tư cách
hành nghề của các cá nhân. Khen thưởng kịp thời các cá
nhân, cơ quan, tổ chức làm tốt công tác xã hội hoá.
3. Xây dựng quy
hoạch phát triển xã hội hoá
Xây dựng quy hoạch
chuyển đổi các cơ sở công lập có điều kiện phù hợp với yêu cầu, mục tiêu xã hội
hoá sang hoạt động theo cơ chế cung ứng dịch vụ hoặc sang loại hình ngoài công
lập với các bước đi thích hợp; định rõ chỉ tiêu, các giải pháp, lộ trình chuyển
đổi của từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương trong giai đoạn 2005 - 2010.
Phổ biến rộng rãi dự
báo phát triển mạng lưới các cơ sở, nhu cầu huy động nguồn lực thực hiện quy
hoạch để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế, huy động đầu tư trực tiếp của nước ngoài
trong các lĩnh vực thích hợp.
V. TỔ
CHỨC THỰC HIỆN
1. Các Bộ, ngành
Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Văn hoá - Thông tin, Uỷ
ban Thể dục Thể thao căn cứ vào các định hướng
nêu trên, hoàn chỉnh và phê duyệt đề án xã hội hoá của ngành làm cơ sở
cho việc phát triển xã hội hoá với các bước đi thích hợp, trong kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội năm 2005 và giai đoạn 2006 - 2010; chỉ đạo các địa
phương xây dựng và thực hiện quy hoạch và kế hoạch phát triển xã hội hoá.
Bộ Giáo dục và Đào
tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội xây dựng đề án học phí; Bộ Y tế xây dựng đề án viện phí trình Thủ tướng
Chính phủ trong quý II năm 2005.
Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan:
+ Trình Chính phủ
sửa đổi Nghị định số 73/1999/NĐ-CP về cơ chế chính sách khuyến khích xã hội hoá
trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao và Nghị định số
10/2002/NĐ-CP của Chính phủ ngày 16 tháng 01 năm 2002 về chế độ tài chính áp
dụng cho các đơn vị sự nghiệp có thu khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế cung
ứng dịch vụ trong năm 2005.
+ Nghiên cứu làm rõ
những vấn đề về sở hữu, tính chất lợi nhuận và phi lợi nhuận, trách nhiệm của
các cơ sở và hình thức xã hội hoá trong từng lĩnh vực,
kiến nghị các cơ chế, chính sách phù hợp trong năm 2005.
+ Nghiên cứu xây
dựng chính sách đấu thầu cung cấp dịch vụ do Nhà nước đặt hàng. Nghiên cứu
phương thức thực hiện việc chuyển phần kinh phí Nhà nước hỗ trợ cho người hưởng
thụ thông qua các cơ sở công lập sang cấp trực tiếp cho người hưởng thụ.
Bộ Tài nguyên và Môi
trường chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng hướng dẫn lập quy hoạch, kế hoạch hoặc
rà soát, điều chỉnh, bổ sung và giám sát việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất tại các địa phương, tới các xã, phường, thị trấn, thôn, bản nhằm bảo
đảm đủ quỹ đất đáp ứng nhu cầu xây trường học, bệnh viện, các thiết chế văn
hóa, thể dục thể thao…; phối hợp với Bộ Tài chính hướng dẫn về chế độ phí sử
dụng đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất phù hợp với Luật Đất đai hiện hành,
phù hợp với từng loại hình cơ sở dịch vụ và khi chuyển đổi loại hình.
Bộ Xây dựng chủ trì cùng với Bộ Tài chính xây dựng cơ chế thí điểm việc Nhà
nước xây dựng cơ sở hạ tầng cho các đơn vị ngoài công lập thuê dài hạn.
Bộ Nội vụ chủ trì,
phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu trình Thủ tướng ban hành các mô
hình, cơ cấu tổ chức, cơ chế tự chủ và trách nhiệm của các cơ sở hoạt động theo
cơ chế cung ứng dịch vụ; chế độ chính sách xã hội phù hợp với các chủ trương xã
hội hoá và hướng dẫn việc chuyển đổi cơ sở công lập sang loại hình dân lập hoặc
tư thục.
Bộ Kế hoạch và Đầu
tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu trình Chính phủ
hoặc Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách đầu tư hoặc hỗ trợ của Nhà nước
cho các cơ sở ngoài công lập trong các lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục, thể
dục thể thao, đặc biệt là các cơ sở hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận.
Bộ Bưu chính, Viễn thông phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng chính
sách thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ xã hội hoá các hoạt động
giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao.
Các Bộ: Giáo dục và
Đào tạo, Lao động - Thương binh và Xã hội, Y tế, Văn hoá - Thông tin, Uỷ ban
Thể dục Thể thao và các Bộ, ngành liên quan thường xuyên thanh tra, kiểm tra
việc thực thi pháp luật, quy định của nhà nước về nội dung, chất lượng hoạt
động, về tài chính, kịp thời xử lý nghiêm các trường hợp sai phạm để ngăn chặn
những hành vi tiêu cực, gian lận, làm trái quy định, cạnh tranh thiếu lành mạnh
trong quá trình xã hội hoá. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tuyên truyền
sâu rộng về mục đích, nội dung, phương thức, chính sách và các giải pháp phát
triển xã hội hoá.
2. Các địa phương
Uỷ ban nhân dân các cấp chỉ đạo các cơ quan chức năng xây dựng quy
hoạch, kế hoạch và tổ chức phát triển xã hội hoá phù hợp với chủ trương chính
sách của Nhà nước, với thẩm quyền và điều kiện của địa phương.
Chỉ đạo các ngành
chức năng, huy động các nguồn lực tại địa phương để triển khai thực hiện quy
hoạch; thường xuyên giám sát việc thực thi pháp luật, các quy định của nhà
nước, kịp thời chấn chỉnh những lệch lạc, tiêu cực, xử lý nghiêm các trường hợp
sai phạm. Định kỳ tổng kết rút kinh nghiệm, kịp thời biểu dương những điển hình tốt. Kịp thời đề xuất với Chính phủ các cơ chế chính sách
cần được điều chỉnh hoặc bổ sung, các giải pháp mới, các mô hình tốt cần được nhân rộng.
3. Các cơ sở công
lập và ngoài công lập có trách nhiệm nghiêm chỉnh thực hiện các chủ trương,
chính sách, quy định của nhà nước, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ, sản
phẩm, đề cao trách nhiệm, tuân thủ các mục tiêu hoạt động của cơ sở đã được quy
định trong Điều lệ.
4. Đề nghị Uỷ ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung
ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội Cựu chiến binh
Việt Nam, các Hội xã hội - nghề nghiệp có liên quan, các cơ quan thông tin đại
chúng tuyên truyền sâu rộng, vận động và tổ chức quần chúng cùng tham gia thực
hiện công tác xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá và thể dục thể
thao.
5. Các Bộ: Giáo dục
và Đào tạo, Lao động - Thương binh và Xã hội, Văn hóa - Thông tin, Y tế, Uỷ ban
Thể dục Thể thao và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
có trách nhiệm chỉ đạo triển khai thực hiện Nghị quyết này theo chức năng, thẩm
quyền. Định kỳ sáu tháng và hàng năm có báo cáo trình
Chính phủ về kết quả thực hiện.