Nghị quyết 03/2006/NQ-CP của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 02 năm 2006
- Tóm tắt
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Nghị quyết 03/2006/NQ-CP
Cơ quan ban hành: | Chính phủ | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 03/2006/NQ-CP | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 02/03/2006 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Chính sách |
TÓM TẮT VĂN BẢN
* Phiên họp Chính phủ - Theo Nghị quyết số 03/2006/NQ-CP ra ngày 02/3/2006 về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 02 năm 2006, Chính phủ yêu cầu: giai đoạn 2006 - 2010 cần tập trung phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, làm động lực thúc đầy tăng trưởng GDP, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và giải quyết việc làm, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu thô. àể đạt mục tiêu trên, cần tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách xuất khẩu, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại và thông tin thị trường, nâng cấp kết cấu hạ tầng phục vụ xuất khẩu, cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, chuyên nghiệp hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hiệp hội ngành hàng, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam...
Xem chi tiết Nghị quyết 03/2006/NQ-CP tại đây
tải Nghị quyết 03/2006/NQ-CP
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
NGHỊ QUYẾT
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 03/2006/NQ-CP NGÀY 02 THÁNG
3 NĂM 2006
VỀ PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 02
NĂM 2006
Trong 02 ngày 27 và
28 tháng 02 năm 2006, Chính phủ họp Phiên thường
kỳ tháng 02, bàn và quyết nghị các vấn đề
sau đây:
1. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ
Thương mại trình Đề án Phát triển xuất
khẩu giai đoạn 2006 - 2010.
Qua 5 năm 2001 - 2005, quy mô và tốc
độ tăng trưởng xuất khẩu của
nền kinh tế nước ta đã được
mở rộng và tăng trưởng ở mức
độ khá cao, đạt chỉ tiêu đề ra; cơ
cấu hàng hoá xuất khẩu có bước chuyển
dịch tích cực; nhiệm vụ phát triển thị
trường xuất khẩu đạt được
nhiều thành tựu quan trọng; các chủ thể tham gia
xuất khẩu không ngừng được mở
rộng, đa dạng hoá và hoạt động ngày càng có
hiệu quả. Tuy vậy, quy mô xuất khẩu vẫn còn
nhỏ bé, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu
người còn thấp so với các nước trong khu
vực và trên thế giới; xuất khẩu tăng
trưởng nhanh nhưng chưa vững chắc; cơ
cấu mặt hàng xuất khấu còn chưa hợp lý;
khả năng chủ động nắm bắt những
cơ hội thuận lợi để thâm nhập và khai
thác các thị trường xuất khẩu còn nhiều
hạn chế; năng lực cạnh tranh còn yếu kém.
Giai đoạn 2006 - 2010 cần tập trung
phát triển xuất khẩu với tốc độ
tăng trưởng cao và bền vững, làm động
lực thúc đẩy tăng trưởng GDP, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động và giải quyết việc làm; đẩy
mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có
lợi thế cạnh tranh, nâng cao hiệu quả xuất
khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu
theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu
những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, những sản
phẩm có hàm lượng chất xám cao, giảm dần
tỷ trọng hàng xuất khẩu thô. Để
đạt mục tiêu trên, cần tiếp tục
đổi mới cơ chế, chính sách xuất khẩu,
đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại và
thông tin thị trường, nâng cấp kết cấu
hạ tầng phục vụ xuất khẩu; cải cách
mạnh mẽ thủ tục hành chính; chuyên nghiệp hoá và
nâng cao hiệu quả hoạt động của các
hiệp hội ngành hàng, từng bước nâng cao khả
năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.
Giao Bộ Thương mại tiếp thu các ý kiến phát biểu tại phiên họp, hoàn chỉnh Đề án Phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
2. Chính phủ đã thảo luận về
dự án Luật Đưa người lao động
đi làm việc ở
nước ngoài do Bộ trưởng Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội trình; dự án
Luật Công chứng do Bộ trưởng Bộ Tư pháp
trình; dự án Luật Đê điều do Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn trình; dự án Luật
Cư trú do Bộ Công an trình; nghe Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo tổng
hợp ý kiến các Thành viên Chính phủ về các dự án
Luật nói trên.
a) Hoạt động đưa lao động
đi làm việc ở nước ngoài thời gian qua
đã thu được những kết quả đáng kể:
giải quyết việc làm cho một bộ phận lao
động, cải thiện thu nhập của
người lao động và có đóng góp xây dựng
đất nước; thị trường lao động
ngoài nước mở rộng hơn, chất lượng
nguồn lao động từng bước được
nâng lên; các văn bản pháp luật về lĩnh vực
này ngày càng hoàn thiện.... Tuy vậy, kết quả
đạt được vẫn chưa tương
xứng với tiềm năng của lực lượng
lao động trong nước; việc đưa lao
động đi làm việc ở nước ngoài phát
triển chưa ổn định; trình độ tay
nghề và ngoại ngữ, ý thức kỷ luật và tác
phong công nghiệp của lao động Việt Nam còn
thấp; việc tuyển chọn, đào tạo nghề,
giáo dục định hướng cho lao động
chưa tốt; còn xảy ra tiêu cực trong việc
đưa đi và quản lý lao động ngoài
nước.... Trong thời gian tới cần tăng
cường trách nhiệm của các tổ chức,
đơn vị đưa người lao động
đi làm việc tại nước ngoài trong việc
đào tạo, giáo dục, quản lý người lao
động, nâng cao chất lượng và khả năng
cạnh tranh của lao động Việt Nam
Giao Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội chủ trì, phối hợp với Văn phòng
Chính phủ và các cơ quan liên quan, tiếp thu các ý kiến
tại phiên họp, hoàn chỉnh dự án Luật
Đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài; Bộ trưởng Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội thừa uỷ quyền
Thủ tướng Chính phủ trình Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội dự án Luật này.
b) Về Dự án Luật Công chứng,
cần thể hiện rõ chủ trương đổi
mới hoạt động công chứng theo định
hướng cải cách hành chính, cải cách tư pháp và
chủ trương xã hội hoá hoạt động bổ
trợ tư pháp; tạo khung pháp lý cần thiết cho
việc đổi mới tổ chức và hoạt
động công chứng; minh bạch, đơn giản hoá
trình tự, thủ
tục công chứng, tạo thuận lợi cho công dân và tổ
chức trong hoạt động công chứng.
Giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối
hợp với Văn phòng Chính phủ và các cơ quan có liên
quan, tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, hoàn chỉnh
dự án Luật Công chứng; Bộ trưởng Bộ
Tư pháp thừa uỷ quyền Thủ tướng Chính
phủ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
dự án Luật này.
c) Việc thực hiện Pháp lệnh
Đê điều năm 2000 đã đạt
được những kết quả nhất
định: công tác quản lý, bảo vệ đê
điều được củng cố và tăng
cường, nhất là việc kiểm tra, thanh tra chấp
hành pháp luật và xử
lý vi phạm về đê điều; hệ thống đê
điều từng bước được nâng cấp
vững chắc hơn..... Tuy vậy, quá trình thực
hiện Pháp lệnh đã bộc lộ một số
hạn chế, bất cập về việc cấp
quyền sử dụng đất lâu dài trong phạm vi
bảo vệ đê điều, sử dụng bãi sông
để xây dựng công trình, nhà cửa ở những vùng
đê qua khu đô thị, khu dân cư; việc xử lý nhà
cửa, công trình trong phạm vi bảo vệ đê
điều và ở bãi sông, lòng sông; việc phân công phân
cấp, xã hội hoá công tác quản lý và bảo vệ
đê điều. Dự án Luật Đê điều
phải khắc phục được những hạn
chế trên, đồng thời các quy định về
hành lang thoát lũ, sử dụng bãi ven sông phải
thống nhất, bảo đảm tính khoa học, tính
khả thi cao; các công trình xây dựng ven các tuyến đê,
ven sông phải theo đứng quy hoạch, bảo đảm
thoát lũ và an toàn đê điều.
Giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính
phủ và các cơ quan có liên quan, tiếp thu các ý kiến
tại phiên họp, hoàn chỉnh dự án Luật Đê
điều; Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn thừa uỷ quyền Thủ
tướng Chính phủ trình Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội dự án Luật này.
d) Tự
do cư trú là một trong những quyền cơ bản
của công dân, đã được ghi nhận trong
Hiến pháp và nhiều văn bản pháp luật khác. Thời
gian qua, việc quản lý cư trú đã góp phần vào
cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm và
nắm tình hình biến động của nhân khẩu,
hộ khẩu. Tuy nhiên, các quy định trước
đây về đăng ký, quản lý cư trú
được ban hành trong thời kỳ bao cấp với
thủ tục hành chính rườm rà, tạo ra sự phân
tán, thiếu tập trung, thống nhất trong quản lý
cư trú; nhiều văn bản pháp luật quy định
về cư trú còn tản mạn, chồng chéo, không phù
hợp với yêu cầu đổi mới hiện nay. Vì
vậy, dự án Luật Cư trú phải thể hiện
rõ tinh thần cải cách hành chính, tạo khuôn khổ pháp lý
để quản lý nhà nước về cư trú
đối với công dân Việt Nam và người
nước ngoài, tôn trọng quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân Việt Nam và người nước
ngoài tại Việt Nam; bảo đảm tính hiệu
quả, công khai minh bạch, thuận tiện trong công tác
đăng ký, quản lý cư trú, tạo thuận lợi
tối đa cho công dân Việt Nam, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, người
nước ngoài tại Việt Nam trong cư trú, làm ăn
sinh sống.
Giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp
với Văn phòng Chính phủ và các cơ quan có liên quan,
tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, hoàn chỉnh
dự án Luật Cư trú; Bộ trưởng Bộ Công an
thừa uỷ quyền Thủ tướng Chính phủ
trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội dự án
Luật này.
3. Chính phủ nghe Bộ trưởng, Chủ
nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo kết quá xin ý
kiến các thành viên Chính phủ về dự thảo
Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị
định số 57/2002/NĐ-CP ngày 03 tháng 6 năm 2002 quy
định chi tiết thi hành Pháp lệnh Phí và lệ phí;
nghe Bộ trưởng Bộ Thương mại báo cáo
về một số vấn đề cần quan tâm trong
đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO).
a) Chính phủ nhất trí thông qua dự
thảo Nghị định sửa đổi, bố sung
Nghị định số 57/2002/NĐ-CP quy định chi
tiết thi hành Pháp lệnh Phí và lệ phí. Giao Bộ Tài
chính chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính
phủ khẩn trương hoàn chỉnh dự thảo
Nghị định, trình Thú tướng Chính phủ ký ban
hành.
b) Bộ Thương mại chủ trì,
khẩn trương soạn thảo văn bản thông báo
ý kiến của Thủ tướng Chính phủ về
nội dung các công việc cần phải hoàn thành phục
vụ cho kết thúc đàm phán gia nhập WTO để các
Bộ, ngành thực hiện. Các Bộ trưởng,
Thủ trường cơ quan liên quan trực tiếp
chỉ đạo xử lý ngay các vấn đề liên quan
đến lĩnh vực của Bộ, cơ quan mình
phụ trách để sớm kết thúc đàm phán gia
nhập WTO với các đối tác theo đúng tiến
độ và lộ trình đã đề ra.
4. Chính phủ đã xem xét Báo cáo tình hình kinh
tế - xã hội 02 tháng đầu năm 2006 và kết
quả giao ban sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
đầu tư tháng 02 năm 2006 do Bộ trưởng Bộ
Kế hoạch và Đầu tư trình; Báo cáo tình hình
thương mại tháng
02 năm 2006 do Bộ trưởng Bộ Thương
mại trình.
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 02 và 02
tháng đầu năm giữ được tốc
độ tăng trưởng khá: sản xuất công
nghiệp tiếp tục duy trì được tốc
độ tăng trưởng; trong nông nghiệp, mặc
dù gặp hạn hán, thiên tai, vẫn bảo đảm
tiến độ gieo trồng; dịch vụ tiếp
tục phát triển; xuất khẩu phát triển khá;
nguồn vốn đầu tư đạt khá; thu, chi ngân
sách bảo đảm tiến độ, chỉ số giá
hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng thấp hơn so với cùng
kỳ năm trước. Các cấp, các ngành đã
tổ chức tốt các hoạt động cho nhân dân
đón Tết Nguyên đán vui tươi, lành mạnh,
tiết kiệm, chăm lo tốt hơn cho các đối
tượng chính sách. An ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội trong dịp Tết cơ bản ổn
định.
Những khó khăn nổi lên là tình hình
hạn hán, mưa lũ, sâu bệnh và hậu quả
của dịch cúm gia cầm gây khó khăn cho sản
xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân; giá
một số hàng công nghiệp và dịch vụ có xu
hướng tăng; xuất khẩu giày dép là một trong
những sản phẩm chủ lực đang bị EU áp
thuế bán phá giá; tình hình trật tự an toàn giao thông
tiếp tục diễn biến phức tạp, nhiều
vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra......
Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành và địa phương thực hiện tốt các giải pháp trong Nghị quyết số 01/2006/NQ-CP, tập trung khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp; thúc đấy xuất khẩu; kiềm chế tốc độ tăng giá trong tầm kiểm soát của Nhà nước; thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí; đẩy mạnh cải cách hành chính; tăng cường công tác bảo đảm an toàn giao thông; phấn đấu thực hiện tốt kế hoạch kinh tế - xã hội năm 2006 ngay từ quý đầu.
TM. Chính phủ
Thủ tướng
Phan Văn
Khải