Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia
- Tóm tắt
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11
Cơ quan ban hành: | Ủy ban Thường vụ Quốc hội | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 1037/2006/NQ-UBTVQH11 | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Nguyễn Phú Trọng |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 27/07/2006 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Đất đai-Nhà ở, Chính sách |
TÓM TẮT VĂN BẢN
* Giao dịch nhà ở đối với người Việt Nam ở nước ngoài (SMS: 201758) - Ngày 27/7/2006, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 1037/2006/NQ-UBTVQH11 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 01/7/1991 có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia. Theo đó, tất cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài có quốc tịch Việt Nam đều được phép xác lập quyền sở hữu đối với nhà ở trước ngày 1/7/1991 (thời điểm trước khi có Pháp lệnh Nhà ở)... Việt kiều có thể tiếp tục cho thuê cho mượn nhà tại Việt Nam, song phải có hợp đồng rõ ràng. Trường hợp muốn lấy lại nhà phải thông báo cho bên thuê, mượn trước 6-12 tháng. Cơ quan tổ chức phải trả lại nhà cho Việt kiều có thể thực hiện theo các phương thức: trả nhà ở đang quản lý sử dụng, trả bằng nhà ở khác, trả bằng tuền, nhà nước giao đất và họ không phải trả tiền sử dụng đất... Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được xác lập quyền sở hữu nhà ở khi có các giấy tờ: đơn đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, giấy tờ chứng minh là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, các hợp đồng cho thuê, mượn, giấy tờ thừa kế, sơ đồ nhà ở đất ở, hộ chiếu hợp lệ của Việt Nam hoặc của nước ngoài Trường hợp sử dụng hộ chiếu nước ngoài thì phải kèm theo giấy chứng nhận có quốc tịch Việt Nam hoặc giấy xác nhận mất quốc tịch Việt Nam hoặc giấy xác nhận đăng ký kinh doanh... Nghị quyết có hiệu lực từ 1/9/2006.
Xem chi tiết Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 tại đây
tải Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
NGHỊ QUYẾT
CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI SỐ 1037/2006/NQ-UBTVQH11
NGÀY 27 THÁNG 7 NĂM 2006
VỀ GIAO DỊCH DÂN SỰ VỀ NHÀ
Ở ĐƯỢC XÁC LẬP TRƯỚC NGÀY 01 THÁNG 7 NĂM 1991 CÓ
NGƯỜI VIỆT NAM ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC
NGOÀI THAM GIA
ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC
HỘI
NƯỚC CỘNG HOÀ Xà
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ vào Hiến pháp nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
đã được sửa đổi, bổ sung theo
Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001
của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Căn cứ vào Nghị quyết số 45/2005/QH11 ngày
14 tháng 6 năm 2005 của Quốc hội khoá XI, kỳ
họp thứ 7 về việc thi hành Bộ luật dân
sự;
Căn cứ vào Nghị quyết số
49/2005/QH11 ngày 19 tháng 11 năm 2005 của Quốc hội khoá
XI, kỳ họp thứ 8 về Chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh năm 2006;
QUYẾT NGHỊ:
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi áp dụng
1. Nghị
quyết này được áp dụng để giải
quyết các giao dịch dân sự về nhà ở thuộc
sở hữu tư nhân được xác lập
trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 có người Việt
Nam định cư ở nước ngoài tham gia, bao
gồm:
a) Thuê nhà ở;
b) Mượn nhà
ở, ở nhờ nhà ở;
c) Mua bán nhà ở;
d) Đổi nhà
ở;
đ) Tặng cho
nhà ở;
e) Thừa kế
nhà ở;
g) Uỷ quyền
quản lý nhà ở giữa cá nhân với cá nhân.
2. Các loại nhà
sau đây được coi là đối tượng
của các giao dịch thuộc phạm vi áp dụng của
Nghị quyết này:
a) Nhà đang
được sử dụng vào mục đích không
phải để ở nhưng tại thời
điểm xác lập giao dịch dân sự trước
ngày 01 tháng 7 năm 1991 là nhà ở;
b) Nhà đang
được sử dụng vào mục đích để
ở nhưng tại thời điểm xác lập giao
dịch dân sự trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 không
phải là nhà ở;
c) Nhà đang
được sử dụng vào mục đích để
ở nhưng tại thời điểm xác lập giao
dịch dân sự trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 không
xác định được mục đích sử
dụng.
Điều 2. Nguyên tắc giải quyết
1.
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
chủ sở hữu nhà ở; quyền, lợi ích hợp
pháp của các bên tham gia giao dịch; lợi ích của Nhà
nước, lợi ích công cộng.
2. Khuyến khích,
tôn trọng sự thoả thuận của các bên tham gia giao
dịch dân sự; phát huy truyền thống đoàn kết,
tương thân, tương ái, tương trợ, giúp
đỡ lẫn nhau trong nội bộ nhân dân; tránh lãng phí
của cải, vật chất phát sinh do việc đòi
lại nhà gây ra.
3. Bảo
đảm ổn định xã hội, khả năng
thực thi.
Điều 3. Mục đích, nội dung của giao
dịch dân sự về nhà ở vi phạm điều
cấm của pháp luật hoặc trái đạo
đức xã hội
Các giao dịch dân
sự về nhà ở quy định tại khoản 1
Điều 1 của Nghị quyết này có mục đích,
nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật
hoặc trái đạo đức xã hội thì bị vô
hiệu toàn bộ hoặc một phần và hậu quả
pháp lý được giải quyết theo quy định
của Bộ luật dân sự năm 2005.
Chương II
THUÊ NHÀ Ở
Điều 4. Hợp
đồng thuê nhà ở
Các trường
hợp sau đây được coi là hợp đồng
thuê nhà ở:
1. Có hợp
đồng bằng văn bản được các bên cùng
ký;
2. Người
ở tại nhà ở đó chứng minh được
việc họ ở tại nhà ở đó là theo quan hệ
thuê nhà ở;
3. Chủ sở
hữu nhà ở, người thừa kế nhà ở
hoặc người được chủ sở hữu
nhà ở uỷ quyền chứng minh được họ
cho thuê nhà ở đó.
Điều 5. Bên cho thuê nhà ở là người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, bên thuê
nhà ở thường trú tại Việt Nam
1. Trường
hợp thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng
đã hết trước ngày Nghị quyết này có
hiệu lực thì bên cho thuê và bên thuê nhà ở có thể
thoả thuận việc tiếp tục thuê nhà ở;
nếu thoả thuận được thì các bên phải ký
kết hợp đồng thuê nhà ở theo quy định
của Bộ luật dân sự năm 2005; nếu không
thoả thuận được thì được giải
quyết như sau:
a) Trường
hợp bên thuê đã có chỗ ở khác thông qua các hình
thức mua nhà ở, xây dựng nhà ở, thuê nhà ở khác
hoặc được thừa kế nhà ở, được
tặng cho nhà ở, được Nhà nước giao
đất để xây dựng nhà ở hoặc bên cho thuê
đã tự nguyện tạo điều kiện cho bên thuê
có chỗ ở khác thì bên cho thuê được lấy
lại nhà ở nhưng phải thông báo bằng văn
bản cho bên thuê biết trước ít nhất sáu tháng;
b) Trường
hợp bên thuê không có chỗ ở thì bên cho thuê vẫn
được lấy lại nhà ở nhưng phải
thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết
trước ít nhất mười hai tháng.
2. Trường
hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu
lực mà thời hạn thuê nhà ở theo hợp
đồng vẫn còn, nếu các bên không có thoả
thuận khác thì bên cho thuê được lấy lại nhà
ở kể từ ngày hết thời hạn thuê nhưng
phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết
trước ít nhất sáu tháng.
3. Trường
hợp thời hạn thuê nhà ở không được xác
định trong hợp đồng và các bên không có thoả
thuận khác thì bên cho thuê được lấy lại nhà
ở nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên
thuê biết trước ít nhất hai mươi bốn
tháng.
Điều 6. Bên cho thuê nhà ở thường trú tại Việt Nam,
bên thuê nhà ở là người Việt Nam định cư
ở nước ngoài
Trường
hợp bên cho thuê nhà ở thường trú tại Việt
Nam, bên thuê nhà ở là người Việt Nam định
cư ở nước ngoài nhưng nhà ở đó đang
do người khác sử dụng thì hợp đồng thuê
nhà ở giữa bên cho thuê và bên thuê nhà ở chấm
dứt; bên cho thuê và người đang sử dụng nhà
ở có thể thoả thuận việc tiếp tục cho
thuê; nếu thoả thuận được thì các bên
phải ký kết hợp đồng thuê nhà ở theo quy
định của Bộ luật dân sự năm 2005;
nếu không thoả thuận được thì bên cho thuê
được lấy lại nhà ở nhưng phải
thông báo bằng văn bản cho người đang sử
dụng nhà ở đó biết trước ít nhất
mười hai tháng.
Điều 7. Bên cho thuê nhà ở và
bên thuê nhà ở đều
định cư ở nước ngoài
Trường
hợp bên cho thuê nhà ở và bên thuê nhà ở đều
định cư ở nước ngoài nhưng nhà ở
đó đang do người khác thường trú tại
Việt Nam sử dụng thì hợp đồng giữa bên
cho thuê nhà ở và bên thuê nhà ở chấm dứt. Quan
hệ hợp đồng giữa chủ sở hữu là
bên cho thuê nhà ở và người đang sử dụng nhà
ở đó được thực hiện theo quy
định tại Điều 6 của Nghị quyết
này.
Chương III
MƯỢN NHÀ Ở, Ở NHỜ NHÀ Ở
Điều
8. Hợp đồng mượn nhà ở, ở nhờ
nhà ở
Các trường
hợp sau đây được coi là hợp đồng
mượn nhà ở, ở nhờ nhà ở:
1. Có hợp
đồng bằng văn bản được các bên cùng
ký;
2. Người
đang ở tại nhà ở đó không chứng minh
được việc họ ở tại nhà ở đó
là theo quan hệ mua bán, thuê, đổi, tặng cho, thừa
kế nhà ở, uỷ quyền quản lý nhà ở giữa
cá nhân với cá nhân;
3. Chủ sở
hữu nhà ở, người thừa kế nhà ở
hoặc người được chủ sở hữu
nhà ở uỷ quyền chứng minh được họ
cho mượn, cho ở nhờ nhà ở đó.
Điều 9. Bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở
là người Việt Nam định cư ở nước ngoài; bên
mượn, bên ở nhờ nhà ở thường trú
tại Việt Nam
1. Trường
hợp thời hạn cho mượn, cho ở nhờ nhà
ở theo hợp đồng đã hết trước ngày
Nghị quyết này có hiệu lực thì bên cho mượn,
bên cho ở nhờ nhà ở được lấy lại
nhà ở, trừ trường hợp có thoả thuận
khác nhưng phải thông báo bằng văn bản cho bên
mượn, bên ở nhờ nhà ở biết trước
ít nhất sáu tháng.
2. Trường
hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu
lực mà thời hạn cho mượn, cho ở nhờ
nhà ở theo hợp đồng vẫn còn thì bên cho
mượn, bên cho ở nhờ nhà ở được
lấy lại nhà ở kể từ ngày hết thời
hạn cho mượn, cho ở nhờ, trừ
trường hợp có thoả thuận khác nhưng
phải thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên
ở nhờ nhà ở biết trước ít nhất sáu
tháng.
3. Trường
hợp thời hạn cho mượn, cho ở nhờ nhà
ở không được xác định trong hợp
đồng thì bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà
ở được lấy lại nhà ở, trừ
trường hợp có thoả thuận khác nhưng phải
thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở
nhờ nhà ở biết trước ít nhất sáu tháng;
trong trường hợp bên mượn, bên ở nhờ
nhà ở không có chỗ ở khác hoặc không có điều
kiện tạo lập chỗ ở khác thì các bên thoả
thuận việc tiếp tục cho mượn, cho ở
nhờ nhà ở; nếu thoả thuận được
thì các bên phải ký kết hợp đồng mượn
nhà ở theo quy định của Bộ luật dân sự
năm 2005; nếu không thoả thuận được thì
bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở
được lấy lại nhà ở nhưng phải
thông báo bằng văn bản cho bên mượn, bên ở
nhờ nhà ở biết trước ít nhất hai
mươi bốn tháng.
Điều 10. Bên cho
mượn, bên cho ở nhờ nhà ở thường trú
tại Việt Nam, bên mượn, bên ở nhờ nhà
ở là người Việt Nam định cư ở
nước ngoài
Trường hợp bên cho
mượn, bên cho ở nhờ nhà ở thường trú
tại Việt Nam, bên mượn, bên ở nhờ nhà
ở là người Việt Nam định cư ở
nước ngoài nhưng nhà ở đó đang do
người khác thường trú tại Việt Nam sử
dụng thì hợp đồng mượn, ở nhờ nhà
ở giữa bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà
ở và bên mượn, bên ở nhờ nhà ở chấm
dứt; bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở và người
đang sử dụng nhà ở có thể thoả thuận
việc tiếp tục cho mượn nhà ở, cho ở
nhờ nhà ở; nếu thoả thuận được
thì các bên phải ký kết hợp đồng mượn
nhà ở theo quy định của Bộ luật dân sự
năm 2005; nếu không thoả thuận được thì
bên cho mượn, bên cho ở nhờ nhà ở
được lấy lại nhà ở nhưng phải
thông báo bằng văn bản cho người đang sử
dụng nhà ở biết trước ít nhất mười
hai tháng.
Điều 11. Bên cho mượn, bên cho ở
nhờ nhà ở và bên mượn, bên ở nhờ nhà ở
đều là người Việt Nam định cư
ở nước ngoài
Trường hợp bên cho
mượn, bên cho ở nhờ nhà ở và bên mượn,
bên ở nhờ nhà ở đều định cư
ở nước ngoài nhưng nhà ở đó đang do
người khác thường trú tại Việt Nam sử
dụng thì hợp đồng giữa bên cho mượn,
bên cho ở nhờ nhà ở và bên mượn, bên ở
nhờ nhà ở chấm dứt. Quan hệ hợp đồng
giữa chủ sở hữu là bên cho mượn, bên cho
ở nhờ nhà ở và người đang sử dụng
nhà ở đó được thực hiện theo quy định
tại Điều 10 của Nghị quyết này.
Chương IV
MUA BÁN NHÀ Ở
Điều 12. Hợp đồng mua bán nhà ở
Các trường
hợp sau đây được coi là hợp đồng
mua bán nhà ở:
1. Có hợp
đồng bằng văn bản được các bên cùng
ký;
2. Người
đang ở tại nhà ở đó chứng minh
được là họ đã mua nhà ở đó một cách
hợp pháp;
3. Chủ sở
hữu nhà ở, người thừa kế nhà ở
hoặc người được chủ sở hữu
nhà ở uỷ quyền thừa nhận đã bán nhà ở đó.
Điều 13. Bên mua nhà ở là người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, bên bán nhà ở
thường trú tại Việt Nam
1. Trường
hợp không có tranh chấp về hợp đồng mua bán
nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu
chưa hoàn tất thì các bên phải làm thủ tục
chuyển quyền sở hữu.
2. Trường
hợp có tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà
ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu
chưa hoàn tất thì giải quyết như sau:
a) Nếu bên mua
đã trả đủ tiền mà bên bán chưa giao nhà
ở thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo
hợp đồng và phải làm thủ tục chuyển
quyền sở hữu;
b) Nếu bên mua
chưa trả đủ tiền mà bên bán đã giao nhà thì
bên mua phải trả cho bên bán khoản tiền còn thiếu
tính theo giá trị của nhà ở đó theo giá thị
trường tại thời điểm thanh toán và các bên
phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu;
c) Nếu bên mua
chưa trả đủ tiền mà bên bán chưa giao nhà thì
bên bán phải giao nhà cho bên mua và bên mua phải trả cho bên
bán khoản tiền còn thiếu tính theo giá trị của
nhà ở đó theo giá thị trường tại thời
điểm thanh toán và các bên phải làm thủ tục
chuyển quyền sở hữu.
3. Trường
hợp thủ tục chuyển quyền sở hữu
đã hoàn tất nhưng bên bán chưa giao nhà ở hoặc
bên mua chưa trả đủ tiền thì các bên phải
thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng,
trừ trường hợp có thoả thuận khác; nếu
bên mua chưa trả đủ tiền thì phải trả
cho bên bán khoản tiền còn thiếu tính theo giá trị
của nhà ở đó theo giá thị trường tại
thời điểm thanh toán.
4. Trường
hợp hợp đồng mua bán nhà ở có điều
kiện mà điều kiện đó đã xảy ra
hoặc đã được thực hiện thì
được giải quyết theo quy định tại
các khoản 1, 2 và 3 Điều này.
5. Bên không thực
hiện nghĩa vụ quy định tại Điều
này mà có lỗi, gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của Bộ luật dân
sự năm 2005.
Điều 14. Bên bán nhà ở là người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, bên mua nhà ở
thường trú tại Việt Nam hoặc bên mua nhà ở
và bên bán nhà ở đều là người Việt Nam
định cư ở nước ngoài
1. Trường
hợp không có tranh chấp về hợp đồng mua bán
nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu
chưa hoàn tất thì các bên phải làm thủ tục
chuyển quyền sở hữu.
2. Trường
hợp có tranh chấp về hợp đồng mua bán nhà
ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu
chưa hoàn tất thì quyền và nghĩa vụ của các
bên được giải quyết theo quy định
tại khoản 2 và khoản 5 Điều 13 của
Nghị quyết này.
3. Trường
hợp thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà
ở đã hoàn tất nhưng bên bán chưa giao nhà ở
hoặc bên mua chưa trả đủ tiền thì quyền
và nghĩa vụ của các bên được giải
quyết theo quy định tại khoản 3 và khoản 5
Điều 13 của Nghị quyết này.
Chương V
ĐỔI NHÀ Ở
Điều 15. Hợp
đồng đổi nhà ở
Các trường
hợp sau đây được coi là hợp đồng
đổi nhà ở:
1. Có hợp
đồng bằng văn bản được các bên cùng
ký;
2. Người
đang ở tại nhà ở đó chứng minh
được việc họ ở tại nhà ở đó
là theo quan hệ đổi nhà ở một cách hợp pháp;
3. Chủ sở
hữu nhà ở, người thừa kế nhà ở
hoặc người được chủ sở hữu
nhà ở uỷ quyền thừa nhận họ đổi
nhà ở đó.
Điều 16. Một bên đổi nhà ở là người Việt Nam
định cư ở nước ngoài
1. Trường
hợp không có tranh chấp về hợp đồng
đổi nhà ở mà các bên đã giao nhà ở cho nhau và
thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn
tất thì các bên phải làm thủ tục chuyển
quyền sở hữu.
2. Trường
hợp có tranh chấp về hợp đồng đổi
nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu
chưa hoàn tất thì giải quyết như sau:
a) Nếu hai bên
đã giao nhà ở cho nhau thì giải quyết theo quy
định tại khoản 1 Điều này sau khi đã
giải quyết xong tranh chấp;
b) Nếu một
bên đã giao nhà ở mà bên kia chưa giao thì bên chưa giao
nhà ở phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp
đồng;
c) Nếu các bên
đã giao một phần nhà ở cho nhau thì mỗi bên
phải giao phần còn lại cho bên kia;
d) Nếu các bên
đã giao nhà ở cho nhau mà có chênh lệch về giá trị
và bên có nghĩa vụ thanh toán chưa trả đủ
tiền thì phải trả cho bên kia khoản tiền còn
thiếu theo giá thị trường tại thời
điểm thanh toán;
đ) Nếu các
bên chưa giao nhà ở cho nhau thì hợp đồng bị
huỷ bỏ, trừ trường hợp có thoả
thuận khác.
3. Trường
hợp thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà
ở đã hoàn tất mà các bên chưa giao nhà ở cho nhau
hoặc một bên chưa giao nhà ở cho bên kia thì các bên
phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp
đồng.
4. Trường
hợp các bên chỉ đổi nhà ở cho nhau để
sử dụng mà không chuyển quyền sở hữu nhà
ở đó, nếu xảy ra tranh chấp thì giải quyết
như sau:
a) Nếu một
bên đã giao nhà ở mà bên kia chưa giao thì bên chưa giao
phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp
đồng;
b) Nếu hợp
đồng có thời hạn thì khi thời hạn đó
đã hết, các bên phải trở lại tình trạng ban
đầu trong thời hạn một tháng, kể từ
ngày hết hạn hợp đồng, trừ trường
hợp có thoả thuận khác; nếu hợp đồng
không xác định thời hạn thì một trong các bên có
quyền yêu cầu trở lại tình trạng ban
đầu nhưng phải thông báo bằng văn bản
cho bên kia biết trước ít nhất sáu tháng.
5. Bên không thực
hiện nghĩa vụ quy định tại Điều
này mà có lỗi, gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của Bộ luật dân
sự năm 2005.
Điều 17. Các bên đổi nhà
ở đều là người Việt Nam định
cư ở nước ngoài
1. Trường
hợp không có tranh chấp về hợp đồng
đổi nhà ở và thủ tục chuyển quyền
sở hữu chưa hoàn tất thì các bên được
xác lập quyền sở hữu.
2. Trường
hợp có tranh chấp về hợp đồng đổi
nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu
chưa hoàn tất thì quyền và nghĩa vụ của các
bên được giải quyết theo quy định
tại khoản 2 và khoản 5 Điều 16 của
Nghị quyết này.
3. Trường
hợp thủ tục chuyển quyền sở hữu
đã hoàn tất mà các bên chưa giao nhà cho nhau hoặc
một bên chưa giao nhà cho bên kia thì quyền và nghĩa
vụ của các bên được giải quyết theo quy
định tại khoản 3 và khoản 5 Điều 16
của Nghị quyết này.
Chương VI
TẶNG
CHO NHÀ Ở
Điều 18. Hợp đồng tặng cho nhà ở
Các trường
hợp sau đây được coi là hợp đồng
tặng cho nhà ở:
1. Có hợp
đồng bằng văn bản được các bên cùng
ký;
2. Người
đang ở tại nhà ở đó chứng minh
được việc họ ở tại nhà ở đó
là theo quan hệ tặng cho nhà ở một cách hợp pháp;
3. Chủ sở
hữu nhà ở, người thừa kế nhà ở
hoặc người được chủ sở hữu
nhà ở uỷ quyền thừa nhận họ đã
tặng cho nhà ở đó.
Điều 19. Bên
tặng cho nhà ở là người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
bên được tặng cho nhà ở thường trú
tại Việt Nam
1. Trường hợp không có tranh
chấp về hợp đồng tặng cho nhà ở và
thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn
tất thì bên được tặng cho nhà ở được
làm thủ tục xác lập quyền sở hữu.
2. Trường hợp có tranh
chấp về hợp đồng tặng cho nhà ở và
thủ tục chuyển quyền sở hữu chưa hoàn
tất thì giải quyết như sau:
a) Bên
được tặng cho đã nhận nhà ở thì xác
lập quyền sở hữu nhà ở cho bên
được tặng cho;
b) Bên
được tặng cho chưa nhận nhà ở thì
hợp đồng tặng cho nhà ở bị huỷ
bỏ, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
3. Trường
hợp thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà
ở đã hoàn tất mà nhà ở chưa được
giao cho bên được tặng cho thì bên tặng cho
phải giao nhà ở cho bên được tặng cho trong
thời hạn sáu tháng, kể từ ngày bên được
tặng cho có yêu cầu bằng văn bản, trừ
trường hợp có thoả thuận khác.
Điều 20. Bên tặng cho nhà ở thường trú
tại Việt Nam, bên được tặng cho nhà ở
là người Việt Nam định cư ở nước ngoài
1. Trường
hợp không có tranh chấp về hợp đồng
tặng cho nhà ở và thủ tục chuyển quyền
sở hữu chưa hoàn tất mà bên được
tặng cho đã nhận nhà ở thì bên được
tặng cho nhà ở được xác lập quyền
sở hữu.
2. Trường
hợp có tranh chấp về hợp đồng tặng cho
nhà ở và thủ tục chuyển quyền sở hữu
chưa hoàn tất thì hợp đồng tặng cho nhà ở
bị huỷ bỏ, trừ trường hợp có
thoả thuận khác.
3. Trường
hợp thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà
ở đã hoàn tất mà nhà ở chưa được
giao cho bên được tặng cho thì bên tặng cho
phải giao nhà ở cho bên được tặng cho trong
thời hạn sáu tháng, kể từ ngày bên được
tặng cho có yêu cầu bằng văn bản, trừ
trường hợp có thoả thuận khác.
Điều 21. Bên
tặng cho nhà ở và bên được tặng cho nhà
ở đều là người Việt Nam định
cư ở nước ngoài
1. Trường
hợp bên được tặng cho nhà ở đã
nhận nhà ở mà thủ tục chuyển quyền sở
hữu chưa hoàn tất thì bên được tặng cho
nhà ở được xác lập quyền sở hữu.
2. Trường hợp bên
được tặng cho nhà ở chưa nhận nhà
ở thì hợp đồng tặng cho nhà ở bị
huỷ bỏ, trừ trường hợp có thoả thuận
khác.
Chương VII
THỪA KẾ NHÀ Ở; UỶ QUYỀN QUẢN LÝ NHÀ
Ở
GIỮA CÁ NHÂN VỚI CÁ NHÂN
Điều 22. Thừa kế nhà ở
1. Trường
hợp thừa kế nhà ở được mở
trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 thì giải quyết
như sau:
a) Nếu
người thừa kế có quốc tịch Việt Nam
hoặc đã nhập quốc tịch nước ngoài
nhưng chưa thôi quốc tịch Việt Nam hoặc
đã thôi quốc tịch Việt Nam nhưng chưa
nhập quốc tịch nước ngoài thì được
xác lập quyền sở hữu nhà ở đối
với phần thừa kế của mình;
b) Nếu
người thừa kế đã nhập quốc tịch
nước ngoài và đã thôi quốc tịch Việt Nam
hoặc người gốc Việt Nam nhưng chưa
từng có quốc tịch Việt Nam thì được
hưởng giá trị phần thừa kế đó.
2. Trường
hợp thừa kế nhà ở được mở
trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 mà không có người
thừa kế thì xác lập quyền sở hữu cho
người đang quản lý, sử dụng nhà ở
đó liên tục từ ba mươi năm trở lên,
kể từ ngày bắt đầu quản lý, sử
dụng đến ngày Nghị quyết này có hiệu
lực; nếu không có những người này thì nhà ở
đó thuộc Nhà nước và người đang
quản lý, sử dụng nhà ở được ưu
tiên thuê, mua nhà ở đó.
Điều 23. Uỷ quyền quản lý nhà ở giữa cá nhân với
cá nhân
1. Trường
hợp trước khi xuất cảnh, chủ sở
hữu nhà ở đã uỷ quyền cho người khác
thường trú tại Việt Nam quản lý, nếu
thời hạn uỷ quyền đã hết trước
ngày Nghị quyết này có hiệu lực thì bên uỷ
quyền được lấy lại nhà ở nhưng
phải thông báo bằng văn bản cho người
đang quản lý, sử dụng nhà ở đó biết
trước ít nhất sáu tháng.
2. Trường
hợp trước khi xuất cảnh, chủ sở
hữu nhà ở đã uỷ quyền cho người khác
thường trú tại Việt Nam quản lý, nếu
đến ngày Nghị quyết này có hiệu lực mà
thời hạn uỷ quyền vẫn còn thì chủ sở
hữu được lấy lại nhà ở, kể
từ ngày hết thời hạn uỷ quyền nhưng phải
thông báo bằng văn bản cho người đang
quản lý, sử dụng nhà ở đó biết
trước ít nhất sáu tháng.
3. Trường
hợp trước khi xuất cảnh, chủ sở
hữu nhà ở đã uỷ quyền cho người khác
thường trú tại Việt Nam quản lý, nếu
thời hạn uỷ quyền không xác định thì bên
uỷ quyền được lấy lại nhà ở
nhưng phải thông báo bằng văn bản cho
người đang quản lý, sử dụng nhà ở
đó biết trước ít nhất mười hai tháng.
4. Trường
hợp người đang quản lý, sử dụng nhà
ở quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều
này không được công nhận là chủ sở hữu
nhà ở đó thì có quyền yêu cầu chủ sở
hữu nhà ở đó phải đền bù một
khoản chi phí hợp lý do đã trông nom, bảo quản nhà
ở.
Chương VIII
SỬA CHỮA, CẢI TẠO, NÂNG CẤP NHÀ Ở,
LÀM THÊM DIỆN TÍCH, XÂY DỰNG NHÀ Ở MỚI
Điều 24. Sửa chữa, cải tạo, nâng
cấp nhà ở
1. Trường hợp nhà
ở cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ giữa cá nhân
với cá nhân đã được bên thuê, bên mượn,
bên ở nhờ sửa chữa, cải tạo, nâng cấp
thì việc lấy lại nhà ở được giải
quyết như sau:
a) Nếu nhà ở đã
được sửa chữa thì bên cho thuê, bên cho
mượn, bên cho ở nhờ phải thanh toán cho bên thuê,
bên mượn, bên ở nhờ giá trị đầu tư
sửa chữa còn lại theo giá thị trường
tại thời điểm thanh toán, trừ trường
hợp có thoả thuận khác;
b) Nếu nhà ở đã
được cải tạo, nâng cấp mà trước
khi nhà ở được cải tạo, nâng cấp
đã không có sự phản đối của bên cho thuê, bên
cho mượn, bên cho ở nhờ thì khi lấy lại nhà
ở bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ
phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ
giá trị đầu tư cải tạo, nâng cấp còn
lại theo giá thị trường tại thời
điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả
thuận khác; trường hợp đã có sự phản
đối của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở
nhờ trước khi tiến hành cải tạo, nâng
cấp thì bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ
phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ
một phần của giá trị đầu tư cải
tạo, nâng cấp còn lại theo giá thị trường
tại thời điểm thanh toán, trừ trường
hợp có thoả thuận khác.
2. Trường hợp
uỷ quyền quản lý nhà ở giữa cá nhân với cá
nhân mà người quản lý, sử dụng đã sửa
chữa, cải tạo, nâng cấp thì bên được
nhận nhà phải thanh toán cho bên đã sửa chữa,
cải tạo, nâng cấp giá trị đầu tư
sửa chữa, cải tạo, nâng cấp còn lại theo
giá thị trường tại thời điểm thanh
toán, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Điều 25. Làm thêm
diện tích, xây dựng nhà ở mới
Trường hợp bên
thuê, bên mượn, bên ở nhờ đã làm thêm diện
tích hoặc xây dựng nhà ở mới trong khuôn viên nhà
ở thuê, mượn, ở nhờ thì giải quyết
như sau:
1. Nếu bên cho thuê, bên cho
mượn, bên cho ở nhờ đã đồng ý hoặc
đến trước ngày 01 tháng 7 năm 1996 không khiếu
kiện đến cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về việc làm thêm diện tích, xây dựng nhà
ở mới và diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới
có thể sử dụng để ở một cách riêng
biệt với nhà ở cho thuê, cho mượn, cho ở
nhờ thì diện tích làm thêm hoặc nhà ở mới đó
thuộc quyền sở hữu của bên thuê, bên
mượn, bên ở nhờ và họ phải thanh toán cho
bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ giá trị
quyền sử dụng đất đối với
diện tích đất làm thêm nhà ở hoặc nhà ở
mới theo giá chuyển nhượng quyền sử
dụng đất trên thị trường tại thời
điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả
thuận khác; trường hợp diện tích làm thêm
hoặc nhà ở mới không thể sử dụng một
cách riêng biệt với nhà ở cho thuê, cho mượn, cho
ở nhờ thì diện tích làm thêm, nhà ở mới đó
vẫn thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê,
bên cho mượn, bên cho ở nhờ và họ phải thanh
toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ giá trị
đầu tư xây dựng còn lại của phần
diện tích làm thêm, nhà ở mới theo giá thị
trường tại thời điểm thanh toán, trừ
trường hợp có thoả thuận khác;
2. Nếu bên cho thuê, bên cho
mượn, bên cho ở nhờ đã không đồng ý về việc
làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới thì diện
tích làm thêm, nhà ở mới đó thuộc quyền sở
hữu của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở
nhờ và họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn,
bên ở nhờ một phần của giá trị
đầu tư xây dựng còn lại của phần
diện tích làm thêm, nhà ở mới theo giá thị
trường tại thời điểm thanh toán, trừ
trường hợp có thoả thuận khác;
3. Nếu nhà ở cho thuê,
cho mượn, cho ở nhờ bị phá dỡ và bên thuê,
bên mượn, bên ở nhờ đã xây dựng nhà ở
mới thay thế thì giải quyết như sau:
a) Nếu việc phá
dỡ đã có sự đồng ý của bên cho thuê, bên cho
mượn, bên cho ở nhờ nhà ở hoặc
đến trước ngày 01 tháng 7 năm 1996 mà bên cho thuê,
cho mượn, cho ở nhờ không khiếu kiện
đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì
nhà ở mới đó thuộc quyền sở hữu
của bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ và
họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở
nhờ giá trị đầu tư xây dựng còn lại
của nhà ở mới theo giá thị trường tại
thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có
thoả thuận khác; trường hợp bên cho thuê, cho
mượn, cho ở nhờ không có yêu cầu lấy
lại nhà ở thì nhà ở mới thuộc quyền
sở hữu của bên thuê, bên mượn, bên ở
nhờ và họ phải thanh toán cho bên cho thuê, bên cho
mượn, bên cho ở nhờ giá trị quyền sử
dụng đất theo giá chuyển nhượng quyền
sử dụng đất trên thị trường tại
thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có
thoả thuận khác;
b) Nếu việc phá
dỡ đã không có sự đồng ý của bên cho thuê,
bên cho mượn, bên cho ở nhờ thì nhà ở xây
dựng mới thuộc quyền sở hữu của bên
cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ và họ
phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn, bên ở nhờ
một phần của giá trị đầu tư xây
dựng còn lại của nhà ở mới đó theo giá thị
trường tại thời điểm thanh toán, trừ
trường hợp có thoả thuận khác; trường
hợp các bên có thoả thuận nhà ở mới đó
thuộc quyền sở hữu của bên thuê, bên
mượn, bên ở nhờ thì họ phải thanh toán cho
bên cho thuê, bên cho mượn, bên cho ở nhờ giá trị
quyền sử dụng đất theo giá chuyển
nhượng quyền sử dụng đất trên thị
trường tại thời điểm thanh toán, trừ
trường hợp có thoả thuận khác;
4. Trường hợp
uỷ quyền quản lý nhà ở giữa cá nhân với cá
nhân mà người được uỷ quyền quản
lý, sử dụng đã làm thêm diện tích hoặc xây
dựng nhà ở mới thì giải quyết như sau:
a) Nếu diện tích làm
thêm hoặc nhà ở mới có thể sử dụng
một cách riêng biệt thì diện tích làm thêm hoặc nhà
ở mới thuộc quyền sở hữu của người
làm thêm diện tích hoặc xây dựng nhà ở mới và
họ phải thanh toán cho bên uỷ quyền quản lý nhà
ở giá trị quyền sử dụng đất
đối với diện tích đất làm thêm hoặc nhà
ở mới theo giá thị trường tại thời
điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả
thuận khác; trường hợp diện tích làm thêm
hoặc nhà ở mới không thể sử dụng
để ở một cách riêng biệt thì diện tích làm
thêm, nhà ở mới thuộc quyền sở hữu
của bên uỷ quyền quản lý nhà ở nhưng
phải thanh toán cho người làm thêm diện tích hoặc
xây dựng nhà ở mới giá trị đầu tư xây
dựng còn lại của phần diện tích làm thêm
hoặc nhà ở mới theo giá thị trường tại
thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có
thoả thuận khác;
b) Nếu người
được uỷ quyền quản lý, sử dụng
đã phá dỡ nhà ở và xây dựng nhà ở mới thay
thế thì nhà ở mới đó thuộc quyền sở
hữu của bên uỷ quyền nhưng phải thanh toán
cho bên được uỷ quyền giá trị đầu
tư xây dựng còn lại của nhà ở mới theo giá
thị trường tại thời điểm thanh toán,
trừ trường hợp có thoả thuận khác;
c) Nếu vì lý do bất
khả kháng mà nhà ở được uỷ quyền
quản lý không còn và người đang quản lý, sử
dụng đã xây dựng nhà ở mới thay thế thì công
nhận quyền sở hữu nhà ở mới cho
người đó nhưng họ phải thanh toán cho bên
uỷ quyền giá trị quyền sử dụng
đất theo giá thị trường tại thời
điểm thanh toán, trừ trường hợp có thoả
thuận khác.
Chương IX
GIAO DỊCH DÂN SỰ VỀ NHÀ Ở GIỮA CÁ NHÂN LÀ
NGƯỜI VIỆT NAM
ĐỊNH CƯ Ở NƯỚC NGOÀI VỚI CƠ
QUAN, TỔ CHỨC TRONG NƯỚC
Điều 26. Bên
cho thuê nhà ở là người Việt Nam định cư
ở nước ngoài, bên thuê nhà ở là cơ quan, tổ
chức trong nước
1. Trường
hợp nhà ở đang được cơ quan, tổ
chức sử dụng làm trụ sở làm việc, cơ
sở sản xuất, kinh doanh, công trình công cộng thì
giải quyết như sau:
a) Trường
hợp thời hạn thuê nhà ở theo hợp đồng
đã hết trước ngày Nghị quyết này có
hiệu lực hoặc thời hạn thuê nhà ở không
được xác định trong hợp đồng thì
các bên thoả thuận để giải quyết, nếu
không thoả thuận được thì bên cho thuê
được lấy lại nhà ở nhưng phải
thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết trước
ít nhất mười hai tháng;
b) Trường
hợp đến ngày Nghị quyết này có hiệu
lực mà thời hạn thuê nhà ở theo hợp
đồng vẫn còn, nếu các bên không có thoả
thuận khác thì bên cho thuê được lấy lại nhà
ở kể từ ngày hết thời hạn thuê nhưng
phải thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết
trước ít nhất sáu tháng.
2. Trường
hợp nhà ở đang được sử dụng
để ở thì giải quyết như sau:
a) Trường
hợp nhà ở đang được sử dụng cho cá
nhân ở mà thời hạn thuê nhà ở theo hợp
đồng đã hết trước ngày Nghị quyết
này có hiệu lực hoặc thời hạn thuê không xác
định và bên thuê là cơ quan, tổ chức chưa
chấm dứt hoạt động thì bên cho thuê
được lấy lại nhà ở nhưng phải
thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết
trước ít nhất mười hai tháng, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác; trường
hợp cá nhân trả lại nhà ở đó không có chỗ
ở và không có điều kiện tạo lập chỗ
ở khác thì cơ quan, tổ chức có trách nhiệm xem
xét, giải quyết chỗ ở cho họ theo chính sách
về nhà ở của Nhà nước.
Trường
hợp bên thuê là cơ quan, tổ chức đã chấm
dứt hoạt động thì cá nhân đang ở nhà ở
đó thỏa thuận với bên cho thuê để giải
quyết, nếu không thỏa thuận được thì
bên cho thuê được lấy lại nhà ở nhưng phải
thông báo bằng văn bản cho cá nhân đang ở nhà
ở đó biết trước ít nhất mười hai
tháng; trường hợp cá nhân trả lại nhà ở
đó không có chỗ ở và không có điều kiện
tạo lập chỗ ở khác thì cơ quan, tổ
chức kế thừa quyền, nghĩa vụ của
cơ quan, tổ chức đã chấm dứt hoạt
động có trách nhiệm xem xét, giải quyết chỗ
ở cho họ theo chính sách về nhà ở của Nhà
nước, nếu không có cơ quan, tổ chức này thì Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương nơi có nhà ở đó có trách nhiệm xem xét,
giải quyết;
b) Trường
hợp nhà ở đang được sử dụng cho cá
nhân ở và cho đến ngày Nghị quyết này có
hiệu lực mà thời hạn thuê nhà ở theo hợp
đồng vẫn còn và bên thuê là cơ quan, tổ chức
chưa chấm dứt hoạt động thì bên cho thuê
được lấy lại nhà ở kể từ ngày
hợp đồng hết thời hạn nhưng phải
thông báo bằng văn bản cho bên thuê biết
trước ít nhất sáu tháng, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác; trường hợp cá nhân trả
lại nhà ở đó không có chỗ ở và không có
điều kiện tạo lập chỗ ở khác thì
cơ quan, tổ chức có trách nhiệm xem xét, giải
quyết chỗ ở cho họ theo chính sách về nhà ở
của Nhà nước.
Trường
hợp bên thuê là cơ quan, tổ chức đã chấm
dứt hoạt động thì cá nhân đang ở nhà ở
đó thỏa thuận với bên cho thuê để giải
quyết, nếu không thỏa thuận được thì
bên cho thuê được lấy lại nhà ở kể
từ ngày hợp đồng hết thời hạn
nhưng phải thông báo bằng văn bản cho cá nhân
đang ở nhà ở đó biết trước ít nhất
mười hai tháng; trường hợp cá nhân trả
lại nhà ở đó không có chỗ ở và không có
điều kiện tạo lập chỗ ở khác thì
cơ quan, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ
của cơ quan, tổ chức đã chấm dứt
hoạt động có trách nhiệm xem xét, giải quyết
chỗ ở cho họ theo chính sách về nhà ở của
Nhà nước, nếu không có cơ quan, tổ chức này
thì Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương nơi có nhà ở đó có trách nhiệm xem
xét, giải quyết.
Điều 27. Cơ
quan, tổ chức trong nước mượn nhà ở
của cá nhân là người Việt Nam định cư
ở nước ngoài
1. Trường
hợp nhà ở do cơ quan, tổ chức mượn
đang được sử dụng cho cá nhân ở thì
việc lấy lại nhà ở được thực hiện
theo quy định tại Điều 9 của Nghị
quyết này.
2. Trường
hợp nhà ở do cơ quan, tổ chức mượn
đang được sử dụng làm trụ sở làm
việc, cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình công
cộng thì việc lấy lại nhà ở được
thực hiện theo quy định tại khoản 1
Điều 26 của Nghị quyết này.
Điều 28. Mua
bán nhà ở, đổi nhà ở, tặng cho nhà ở,
thừa kế nhà ở giữa cá nhân là người
Việt Nam định cư ở nước ngoài với
cơ quan, tổ chức trong nước
1. Trường
hợp bên bán nhà ở là người Việt Nam
định cư ở nước ngoài, bên mua là cơ quan,
tổ chức trong nước thì giải quyết theo quy
định tại Điều 14 của Nghị quyết
này.
2. Trường
hợp bên đổi nhà ở là người Việt Nam
định cư ở nước ngoài thì giải
quyết theo quy định tại Điều 16 của
Nghị quyết này.
3. Trường
hợp bên tặng cho nhà ở là người Việt Nam
định cư ở nước ngoài thì giải
quyết theo quy định tại Điều 19 của
Nghị quyết này.
4. Trường
hợp chủ sở hữu nhà ở là người
Việt Nam định cư ở nước ngoài chết
mà để lại thừa kế cho cơ quan, tổ chức
trong nước theo di chúc thì cơ quan, tổ chức
đó được hưởng thừa kế nhà ở.
Điều 29. Sửa chữa, cải tạo, nâng
cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới
1. Trường
hợp nhà ở đang được sử dụng
để ở thì việc giải quyết
được thực hiện theo quy định tại
Điều 24 và Điều 25 của Nghị quyết này.
2. Trường
hợp nhà ở được sử dụng làm trụ
sở làm việc, cơ sở sản xuất, kinh doanh,
công trình công cộng thì việc giải quyết do các bên
thoả thuận, nếu không thoả thuận
được thì giải quyết theo quy định
tại Điều 24 của Nghị quyết này; diện
tích làm thêm, nhà ở mới được công nhận
quyền sở hữu cho bên cho thuê, bên cho mượn
nhưng họ phải thanh toán cho bên thuê, bên mượn giá
trị đầu tư xây dựng còn lại của
phần diện tích làm thêm, nhà ở mới đó theo giá thị
trường tại thời điểm thanh toán.
Điều 30. Phương thức trả lại
nhà ở
1. Trường
hợp cơ quan, tổ chức phải trả lại nhà
ở cho bên cho thuê, bên cho mượn thì tuỳ từng
trường hợp, các bên có thể thoả thuận
việc trả lại nhà ở theo các phương thức
sau đây:
a) Trả nhà ở
mà cơ quan, tổ chức đang quản lý, sử
dụng;
b) Trả bằng
nhà ở khác;
c) Trả bằng
tiền;
d) Nhà nước
giao đất ở cho bên cho thuê, bên cho mượn nhà
ở mà họ không phải trả tiền sử dụng
đất.
2. Trường
hợp nhà ở thuê, mượn đang được
sử dụng cho cá nhân ở hoặc tuy đang
được sử dụng làm trụ sở làm việc,
cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình công cộng
nhưng không thuộc trường hợp quy định
tại khoản 3 Điều này thì cơ quan, tổ
chức phải trả lại nhà ở đó cho bên cho thuê,
bên cho mượn theo quy định của Nghị
quyết này.
3. Trường
hợp nhà ở thuê, mượn đang được
sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh,
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng hoặc nhà
ở thuê, mượn toạ lạc tại khu vực không
được quy hoạch làm nhà ở thì việc trả
lại nhà ở thực hiện theo các phương
thức quy định tại các điểm b, c và d
khoản 1 Điều này.
Tuỳ từng
trường hợp và điều kiện cụ thể
của địa phương, việc trả lại nhà
ở có thể thực hiện bằng một trong ba
phương thức quy định tại các điểm
b, c và d khoản 1 Điều này hoặc kết hợp các
phương thức nhưng tổng giá trị nhà ở,
đất ở tính bằng tiền phải trả cho bên
cho thuê, bên cho mượn không được lớn hơn
giá trị nhà ở, đất ở tính bằng tiền
cho thuê, cho mượn. Trường hợp có sự chênh
lệch giá trị giữa nhà ở, đất ở cho
thuê, cho mượn với nhà ở, đất ở
trả lại thì các bên phải thanh toán cho nhau phần chênh
lệch đó bằng tiền.
Điều 31. Trả nhà ở đang thuê,
mượn cho bên cho thuê, bên cho mượn nhà ở
Trường
hợp cơ quan, tổ chức trả nhà ở đang
thuê, mượn cho bên cho thuê, bên cho mượn mà nhà ở
cho thuê, cho mượn đã được sửa
chữa, cải tạo, nâng cấp, làm thêm diện tích, xây
dựng nhà ở mới thì giải quyết như sau:
1. Khi nhận
lại nhà ở, nếu bên cho thuê, bên cho mượn
phải thanh toán kinh phí sửa chữa, cải tạo, nâng
cấp, làm thêm diện tích, xây dựng nhà ở mới thì:
a) Nếu nguồn
kinh phí của cá nhân thì bên cho thuê, bên cho mượn nhà
ở phải thanh toán cho cá nhân đó;
b) Nếu nguồn
kinh phí của cơ quan, tổ chức thì bên cho thuê, bên cho
mượn nhà ở phải thanh toán cho cơ quan, tổ
chức đó;
2. Khi trả
lại nhà ở, nếu nhà ở thuê, mượn đang
được sử dụng cho cá nhân ở và cá nhân đó
được xác lập quyền sở hữu
đối với phần diện tích làm thêm, nhà ở xây
dựng mới thì họ phải thanh toán cho bên cho thuê, bên
cho mượn giá trị quyền sử dụng
đất ở tương ứng với diện tích
đất ở mà họ có quyền sử dụng theo quy
định tại điểm b khoản 2 Điều 33
của Nghị quyết này.
Điều 32. Cơ
quan, tổ chức trả bằng nhà ở khác cho bên cho
thuê, bên cho mượn nhà
ở
Trường
hợp cơ quan, tổ chức trả bằng nhà ở
khác cho bên cho thuê, bên cho mượn thì giá trị nhà ở,
đất ở trả lại không được vượt
quá giá trị nhà ở, đất ở đang thuê, đang
mượn.
Trong trường
hợp có chênh lệch giá trị giữa nhà ở,
đất ở cho thuê, cho mượn với nhà ở,
đất ở trả lại thì các bên phải thanh toán
cho nhau phần chênh lệch bằng tiền theo quy
định tại Điều 33 của Nghị quyết
này.
Điều 33. Cơ quan, tổ chức
trả bằng tiền cho bên cho thuê, bên cho mượn nhà
ở
1. Trong trường
hợp cơ quan, tổ chức trả bằng tiền cho
bên cho thuê, bên cho mượn nhà ở thì số tiền mà
cơ quan, tổ chức phải trả không
được vượt quá giá trị nhà ở,
đất ở đang thuê, đang mượn.
2. Việc xác
định giá trị nhà ở, quyền sử dụng
đất ở do các bên thoả thuận, nếu không
thoả thuận được thì được thực
hiện như sau:
a) Giá trị nhà
ở do tổ chức thẩm định giá có thẩm
quyền xác định căn cứ vào giá trị còn
lại của nhà ở;
b) Giá trị
quyền sử dụng đất ở được xác
định trên cơ sở bảng giá các loại
đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương ban hành theo khung giá của Chính
phủ.
Điều 34. Nhà nước giao đất ở cho
bên cho thuê, bên cho mượn nhà ở mà họ không phải
trả tiền sử dụng đất
1. Trường
hợp Nhà nước giao đất ở cho bên cho thuê, bên
cho mượn nhà ở để tạo lập nhà ở
mới thì các khoản tiền phải nộp để
nhận đất ở do cơ quan, tổ chức thuê,
mượn nhà ở chi trả trực tiếp cho cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật về đất đai.
2. Trường
hợp Nhà nước giao đất ở mà có chênh
lệch giá trị giữa nhà ở, đất ở cho
thuê, cho mượn với đất ở trả lại
thì các bên phải thanh toán cho nhau phần chênh lệch đó
bằng tiền theo quy định tại điểm b
khoản 2 Điều 33 của Nghị quyết này.
Điều 35. Nguồn kinh phí để thực
hiện việc trả lại nhà ở
1. Ngân sách trung
ương thanh toán đối với trường hợp
trả lại nhà ở do cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội
của trung ương quản lý, sử dụng hoặc
nhà ở đang được sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng do cơ quan, tổ chức của trung
ương quản lý, sử dụng.
Ngân sách trung
ương hỗ trợ thanh toán đối với
trường hợp trả lại nhà ở do tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của trung ương quản lý, sử dụng
theo quy định của Luật ngân sách nhà nước.
2. Ngân sách
địa phương thanh toán đối với
trường hợp trả lại nhà ở do cơ quan nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị - xã hội của địa phương quản
lý, sử dụng hoặc nhà ở đang được
sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh,
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng do cơ quan,
tổ chức của địa phương quản lý,
sử dụng.
Ngân sách địa
phương hỗ trợ thanh toán đối với
trường hợp trả lại nhà ở do tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của địa phương quản lý, sử
dụng theo quy định của Luật ngân sách nhà
nước.
3. Nguồn tài chính
để thanh toán đối với trường hợp
trả lại nhà ở của tổ chức không thuộc
diện quy định tại khoản 1 và khoản 2
Điều này do tổ chức đó tự trả.
Chương X
THỦ TỤC XÁC LẬP QUYỀN
SỞ HỮU NHÀ Ở
Điều 36. Hồ sơ xác lập
quyền sở hữu nhà ở đối với
người Việt Nam định cư ở nước
ngoài
Người
Việt Nam định cư ở nước ngoài
được xác lập quyền sở hữu nhà ở
khi có các giấy tờ sau đây:
1. Đơn
đề nghị cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở;
2. Bản sao
một trong các giấy tờ hợp lệ về quyền
sử dụng đất ở được quy
định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50
của Luật đất đai năm 2003;
3. Sơ đồ
nhà ở, đất ở;
4. Trích lục
hoặc bản sao bản án, quyết định của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật về việc
giải quyết tranh chấp về nhà ở, nếu có;
5. Bản sao
giấy tờ chứng minh là người Việt Nam
định cư ở nước ngoài;
6. Hộ chiếu
hợp lệ của Việt Nam hoặc hộ chiếu
hợp lệ của nước ngoài hoặc giấy
tờ thay thế hộ chiếu nước ngoài hợp lệ.
Trong trường hợp sử dụng hộ chiếu
nước ngoài thì phải kèm theo giấy chứng nhận
có quốc tịch Việt Nam hoặc giấy xác nhận
mất quốc tịch Việt Nam hoặc giấy xác
nhận đăng ký công dân;
7. Có một trong
các giấy tờ sau đây:
a) Hợp
đồng cho thuê nhà ở đối với trường
hợp cho thuê nhà ở;
b) Hợp
đồng cho mượn, cho ở nhờ nhà ở
đối với trường hợp cho mượn, cho
ở nhờ nhà ở;
c) Hợp
đồng mua bán nhà ở đối với trường
hợp mua bán nhà ở;
d) Hợp
đồng tặng cho nhà ở đối với
trường hợp tặng cho nhà ở;
đ) Văn
bản thoả thuận phân chia di sản thừa kế nhà
ở hoặc di chúc theo quy định của pháp luật;
e) Hợp
đồng uỷ quyền quản lý nhà ở đối
với trường hợp uỷ quyền quản lý nhà
ở giữa cá nhân với cá nhân;
g) Văn bản
trả lại nhà ở đối với trường
hợp cơ quan, tổ chức trả lại nhà ở.
Trong trường
hợp không có hợp đồng bằng văn bản thì
bên được lấy lại nhà ở phải chứng
minh được giữa hai bên đã thực hiện giao
dịch dân sự về nhà ở quy định tại
khoản này.
Điều 37. Hồ
sơ xác lập quyền sở hữu nhà ở đối
với cá nhân, cơ quan, tổ chức trong nước
Cá nhân, cơ quan,
tổ chức trong nước được xác lập quyền
sở hữu nhà ở khi có các giấy tờ sau đây:
1. Đơn
đề nghị cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở;
2. Bản sao
một trong các giấy tờ hợp lệ về quyền
sử dụng đất ở được quy
định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50
của Luật đất đai năm 2003;
3. Sơ đồ
nhà ở, đất ở;
4. Trích lục
hoặc bản sao bản án, quyết định của
Toà án đã có hiệu lực pháp luật về việc
giải quyết tranh chấp về nhà ở, nếu có;
5. Bản sao
một trong các giấy tờ quy định tại
khoản 7 Điều 36 của Nghị quyết này;
6. Văn bản
uỷ quyền cho người đại diện của
cơ quan, tổ chức đối với trường
hợp xác lập quyền sở hữu nhà ở cho cơ
quan, tổ chức trong nước.
Điều 38. Thủ tục xác lập quyền
sở hữu nhà ở
Thủ tục xác
lập quyền sở hữu nhà ở đối với
trường hợp được lấy lại nhà
ở cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ, mua bán,
đổi, thừa kế, đối với uỷ
quyền quản lý nhà ở giữa cá nhân với cá nhân
được thực hiện theo quy định của
pháp luật về nhà ở.
Chương XI
ĐIỀU
KHOẢN THI HÀNH
Điều 39. Áp
dụng các quy định của Nghị quyết này
để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ
giao dịch dân sự về nhà ở được xác
lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 có người
Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia
1. Việc áp dụng các quy
định của Nghị quyết này trong quá trình giải
quyết các tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân
sự về nhà ở được xác lập trước
ngày 01 tháng 7 năm 1991 có người Việt Nam
định cư ở nước ngoài tham gia
được thực hiện như sau:
a) Đối với
những vụ án đã được Toà án thụ lý
nhưng chưa được xét xử sơ thẩm
hoặc đã tạm đình chỉ việc giải quyết
trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực;
những vụ án mà bản án, quyết định của
Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật bị kháng cáo, kháng nghị hợp lệ nhưng
chưa được xét xử phúc thẩm trước
ngày Nghị quyết này có hiệu lực; những vụ
án mà bản án, quyết định của Toà án đã có
hiệu lực bị kháng nghị nhưng chưa
được xét xử giám đốc thẩm, tái
thẩm trước ngày Nghị quyết này có hiệu
lực thì áp dụng những quy định của
Nghị quyết này để giải quyết theo quy
định của pháp luật tố tụng dân sự;
b) Đối với những
vụ án đã được Toà án giải quyết theo
đúng các văn bản pháp luật trước đây và
bản án, quyết định của Toà án đã có
hiệu lực pháp luật thì không căn cứ vào các quy
định của Nghị quyết này để kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm;
c) Đối với những
vụ án về đòi nhà cho thuê, cho mượn, cho ở
nhờ, về ủy quyền quản lý nhà ở giữa
cá nhân với cá nhân mà Toà án đã bác yêu cầu đòi
lại nhà do chưa đủ điều kiện lấy
lại nhà ở, nay đương sự lại có
đơn khởi kiện thì Toà án thụ lý giải
quyết như một vụ án dân sự mới.
2. Thời gian từ ngày 01 tháng 7
năm 1996 đến ngày Nghị quyết này có hiệu
lực không tính vào thời hiệu trong thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự đối với
giao dịch dân sự về nhà ở được xác
lập trước ngày 01 tháng 7 năm 1991 có người
Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia.
Điều 40. Giải
quyết trường hợp đã bán nhà ở có
đồng thừa kế là người Việt Nam
định cư ở nước ngoài
Đối với
những trường hợp đến ngày Nghị
quyết này có hiệu lực, nhà ở đã
được bán và có đồng thừa kế là
người Việt Nam định cư ở nước
ngoài được hưởng phần giá trị nhà
ở này mà số tiền đang được gửi
tại Kho bạc Nhà nước hoặc ngân hàng của
Việt Nam thì quyền của người thừa kế
ở nước ngoài được giải quyết
như sau:
1. Làm thủ
tục nhận tiền tại kho bạc, ngân hàng theo quy
định của pháp luật. Trong trường hợp
này, người thừa kế xuất trình giấy tờ
sau đây chứng minh được hưởng thừa
kế:
a) Văn bản
thoả thuận chia thừa kế hoặc trích lục
bản án hoặc quyết định của Toà án đã có
hiệu lực pháp luật;
b) Hộ chiếu
hợp lệ của Việt Nam hoặc hộ chiếu
hợp lệ của nước ngoài hoặc giấy
tờ thay thế hộ chiếu nước ngoài hợp
lệ. Trong trường hợp sử dụng hộ
chiếu nước ngoài thì phải kèm theo giấy
chứng nhận có quốc tịch Việt Nam hoặc
giấy xác nhận mất quốc tịch Việt Nam
hoặc giấy xác nhận đăng ký công dân.
2. Uỷ quyền
cho người khác nhận thay mình. Trong trường
hợp này, người uỷ quyền phải có văn
bản uỷ quyền có xác nhận của cơ quan đại
diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt
Nam tại nước người uỷ quyền
định cư.
3. Tặng cho cá
nhân, tổ chức. Trong trường hợp này,
người tặng cho phải có hợp đồng
tặng cho có xác nhận của cơ quan đại
diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt
Nam tại nước người đó cư trú.
Điều 41. Điều
khoản thi hành
Nghị quyết
này có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 9 năm 2006.
Chính phủ, Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm hướng dẫn thi hành Nghị quyết
này.
Hà Nội, ngày 27 tháng 7 năm
2006
T/M. UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
CHỦ TỊCH QUỐC HỘI
Nguyễn
Phú Trọng