Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Công văn 93/HS của Tòa án nhân dân tối cao về thủ tục cho những người tham gia tố tụng xem biên bản phiên tòa
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
- Báo lỗi
- Gửi liên kết tới Email
- In tài liệu
- Chia sẻ:
- Chế độ xem: Sáng | Tối
- Thay đổi cỡ chữ:17
- Chú thích màu chỉ dẫn
thuộc tính Công văn 93/HS
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân tối cao | Số công báo: | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 93/HS | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Công văn | Người ký: | Đang cập nhật |
Ngày ban hành: | 22/02/1989 | Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Hình sự |
tải Công văn 93/HS
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 93/HS | Hà Nội, ngày 22 tháng 02 năm 1989 |
CÔNG VĂN
VỀ THỦ TỤC CHO NHỮNG NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG XEM BIÊN BẢN PHIÊN TÒA
Một số Tòa án hỏi Tòa án nhân dân tối cao về thủ tục cho những người tham gia tố tụng xem biên bản phiên tòa, Tòa án nhân dân tối cao trả lời vấn đề này như sau:
Điều 174 Bộ luật tố tụng hình sự về biên bản phiên tòa có quy định rằng “Bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án hoặc đại diện hợp pháp của những người đó, được xem biên bản phiên tòa, có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận”.
Cần hiểu rằng đây là quyền của những người tham gia tố tụng nói trên được xem biên bản phiên tòa sau khi đã kết thúc phiên tòa, chứ không phải là trong quá trình tiến hành phiên tòa; cho nên, nếu tại phiên tòa mà họ xin được xem biên bản phiên tòa, thì Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu đó của họ. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử có thể chỉ chấp nhận yêu cầu của người tham gia tố tụng được nghe lại một lời khai nào đó, một tài liệu nào đó đã được ghi vào biên bản phiên tòa.
Sau khi kết thúc phiên tòa, chủ tọa phiên tòa cần tranh thủ kiểm tra ngay biên bản phiên tòa và cùng với thư ký phiên tòa ký tên vào biên bản đó.
Sau khi chủ tọa phiên tòa và thư ký phiên tòa đã ký tên để xác nhận biên bản phiên tòa, nếu có yêu cầu được xem biên bản phiên tòa, thì Tòa án tạo điều kiện cho người có yêu cầu sớm được xem biên bản đó, chậm nhất là trong thời gian 15 ngày sau khi tuyên án.
Người tham gia tố tụng có thể tự đến trụ sở của Tòa án thì được xem biên bản phiên tòa tại trụ sở của Tòa án dưới sự giám sát của cán bộ Tòa án, tốt nhất là của thư ký đã ghi biên bản phiên tòa.
Đối với bị cáo đang bị giam giữ, Tòa án có thể cho họ xem biên bản phiên tòa tại trại giam hoặc đề nghị trại giam dẫn giải họ đến trụ sở của Tòa án để Tòa án cho họ xem biên bản phiên tòa.
Sau khi người được xem biên bản phiên tòa đã xem xong biên bản đó, cần lập biên bản với nội dung là họ đã yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung gì vào biên bản phiên tòa, nếu họ không có yêu cầu gì thì cũng phản ánh vào biên bản.
Trong phần thứ tư của Bộ luật tố tụng hình sự về xét xử phúc thẩm không có điều khoản nào quy định về việc cho xem biên bản phiên tòa như quy định về việc cho xem biên bản phiên tòa sơ thẩm, nhưng Tòa án có thể giải quyết cho xem biên bản phiên tòa phúc thẩm như cho xem biên bản phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, đối với bị cáo bị giam giữ ở trại giam xa trụ sở của Tòa án, thì không nhất thiết phải tổ chức cho họ xem biên bản phiên tòa phúc thẩm.