Cảm ơn quý khách đã gửi báo lỗi.
Công văn 2415/VKSTC-V11 2019 kiểm sát hồ sơ xét miễn nghĩa vụ thi hành án
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
- Báo lỗi
- Gửi liên kết tới Email
- In tài liệu
- Chia sẻ:
- Chế độ xem: Sáng | Tối
- Thay đổi cỡ chữ:17
- Chú thích màu chỉ dẫn
thuộc tính Công văn 2415/VKSTC-V11
Cơ quan ban hành: | Viện kiểm sát nhân dân tối cao | Số công báo: | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 2415/VKSTC-V11 | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Công văn | Người ký: | Nguyễn Kim Sáu |
Ngày ban hành: | 05/06/2019 | Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Hình sự |
tải Công văn 2415/VKSTC-V11
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
VIỆN KIỂM SOÁT NHÂN DÂN Số: 2415/VKSTC-V11 | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Hà Nội, ngày 05 tháng 6 năm 2019 |
Kính gửi: Viện trưởng VKSND các tỉnh, thành phố trực thuộc TW
Trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về thi hành Bộ Luật hình sự năm 2015, liên quan đến việc kiểm sát hồ sơ xét miễn nghĩa vụ thi hành án dân sự các đối tượng là người bị kết án phạt tiền thuộc diện được miễn chấp hành hình phạt tiền được quy định tại điểm d, đ khoản 2 Điều 12 Nghị quyết nêu trên của Viện kiểm sát nhân dân các cấp còn nhiều lúng túng, vướng mắc, chưa thống nhất.
Sau khi trao đổi, thống nhất với các đơn vị có liên quan thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Vụ 11) hướng dẫn như sau:
- Điểm d và điểm đ khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 quy định: “... trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại; trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn chấp hành hình phạt thì được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt”
- Khoản 1 Điều 62 Luật Thi hành án dân sự năm 2014 quy định về hồ sơ xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước: “Cơ quan Thi hành án dân sự lập hồ sơ đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án. Hồ sơ bao gồm các tài liệu sau: (1) Văn bản đề nghị xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án của Thủ trưởng cơ quan THADS hoặc của Viện trưởng Viện kiểm sát trong trường hợp đề nghị xét miễn, giảm khoản tiền phạt”.
- Điểm e mục 3 Công văn số 256/TANDTC-PC ngày 31/7/2017 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 nêu trên: “Đối với người bị xử phạt bằng các hình thức khác đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt, đang được hoãn chấp hành hình phạt hoặc chưa chấp hành hình phạt, thì Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện, Chánh án Tòa án quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi người đó cư trú hoặc làm việc”.
Căn cứ các quy định nêu trên thì Viện kiểm sát là cơ quan chủ trì thực hiện việc rà soát các trường hợp người bị kết án phạt tiền thuộc diện miễn chấp hành hình phạt tiền, sau đó yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự lập hồ sơ đề nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét việc miễn chấp hành hình phạt đối với các trường hợp đó trên cơ sở yêu cầu của Viện trưởng Viện kiểm sát.
Riêng các vấn đề khác như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, xử lý vật chứng, án phí, lệ phí Tòa án, tịch thu sung quỹ nhà nước ... thì người được miễn chấp hành hình phạt tiền vẫn phải thi hành án.
Điểm d và điểm đ khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 quy định “... trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt hoặc đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt thì được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại...”
Quy định của Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội nêu trên là thể hiện chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước, người phải thi hành án đã chấp hành được một phần hình phạt tiền thi sẽ được miễn phần hình phạt tiền còn lại và sẽ không được hoàn trả lại phần hình phạt tiền đã thi hành.
Nơi nhận: | TL. VIỆN TRƯỞNG |