Nghị quyết 02/2006/NQ-CP của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 01 năm 2006
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Nghị quyết 02/2006/NQ-CP
Cơ quan ban hành: | Chính phủ | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 02/2006/NQ-CP | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 26/01/2006 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Chính sách |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Nghị quyết 02/2006/NQ-CP
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
NGHỊ QUYẾT
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 02/2006/NQ-CP NGÀY 26 THÁNG
01 NĂM 2006
VỀ PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 01
NĂM 2006
Trong hai ngày 23, 24 tháng 01 năm 2006,
Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 01, bàn và
quyết nghị những vấn đề sau:
1. Chính phủ
nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính trình dự thảo
Nghị định quy định quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy, biên chế và tài chính của đơn
vị sự nghiệp công lập; nghe Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo tổng
hợp ý kiến các thành viên Chính phủ về dự
thảo Nghị định này.
Để nâng
cao chất lượng và hiệu quả hoạt
động của các đơn vị sự nghiệp,
ngày 16 tháng 01 năm 2002, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 10/2002/NĐ-CP về chế độ
tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có
thu. Sau 4 năm thực hiện Nghị định, kết
quả cho thấy đây là một chủ trương
đúng về cải cách cơ chế quản lý tài chính
đối với lĩnh vực sự nghiệp, góp
phần tăng cường huy động và quản lý
thống nhất các nguồn tài chính; khuyến khích và
tạo điều kiện cho các đơn vị sự
nghiệp tăng thu, tiết kiệm chi phí, nâng cao thu
nhập gắn với hiệu quả công tác của
đội ngũ cán bộ viên chức.
Tiếp tục
thực hiện mục tiêu cải cách hành chính, đẩy
mạnh công tác xã hội hoá, phát huy tối đa tiềm
năng, thế mạnh và sức phát triển của các đơn
vị sự nghiệp công lập, mở rộng và nâng cao
chất lượng cung cấp các loại hình dịch
vụ công cho xã hội, Chính phủ nhất trí sửa
đổi Nghị định số 10/2002/NĐ-CP theo
hướng chuyển đổi mạnh hơn cơ
chế hoạt động, quy định rõ quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính
của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Giao Bộ Tài
chính chủ trì, phối hợp với Bộ Nội
vụ, Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan,
tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh
dự thảo Nghị định, trình Thủ
tướng Chính phủ xem xét, ký ban hành.
2. Chính phủ
đã nghe Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo trình Đề án chuyển một số
trường đại học, cao đẳng bán công sang
loại hình tư thục.
Thực
hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục của
Đảng và Nhà nước, từ năm 1993 đến
nay, cả nước đã thành lập 5 trường
đại học, cao đẳng bán công. Trong quá trình
hoạt động, nhìn chung, các trường đại
học và cao đẳng bán công đã phát huy được
tính chủ động, góp phần đáp ứng nhu cầu
học tập ngày càng tăng
của nhân dân. Tuy nhiên, mô hình này chưa huy động
được một cách mạnh mẽ sự đầu
tư của các tổ chức, cá nhân vào việc xây
dựng và phát triển trường; cơ chế quản
lý nhân sự, tài chính, tài sản chưa được phân
định rõ ràng giữa công và tư dẫn đến
tư tưởng còn trông chờ vào sự hỗ trợ,
bao cấp của Nhà nước.
Căn cứ
Luật Giáo dục năm 2005, các trường đại
học, cao đẳng bán công cần được
chuyển đổi sang loại hình tư thục nhằm
hình thành những cơ sở đào tạo đại
học, cao đẳng năng động, tự chủ và
có khả năng huy động mạnh mẽ các nguồn
đầu tư về tài chính và các nguồn lực khác
trong xã hội. Việc nghiên cứu chuyển đổi
cần có tính tổng thể, phù hợp với việc
chuyển đổi các trường phổ thông bán công,
bảo đảm chính sách đồng bộ, thống
nhất.
Giao Bộ Giáo
dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với
Văn phòng Chính phủ và các cơ quan liên quan, tiếp thu ý
kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh Đề án,
trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
3. Chính phủ
nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính trình dự án Luật
Quản lý thuế, Bộ trưởng, Chủ nhiệm
Ủy ban Thể dục thể thao trình dự án Luật Thể
dục thể thao, Bộ trưởng Bộ Khoa học và
Công nghệ trình dự án Luật Chuyển giao công nghệ;
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trình
dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật Lao động và
dự án Luật Dạy nghề; nghe Bộ trưởng,
Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo tổng
hợp ý kiến các thành viên Chính phủ về các dự án
Luật trên.
a) Trong những
năm qua, cùng với các quy định về chính sách
thuế, các quy định về quản lý thuế luôn là
một bộ phận được đề cập
chung trong các luật thuế nên các nội dung cần
phải cụ thể hóa chưa được thể
hiện đầy đủ, rõ ràng, dẫn đến
việc tuân thủ pháp luật về thuế và thực
hiện các biện pháp ngăn chặn hành vi vi phạm pháp
luật về thuế, chống thất thu thuế còn
nhiều hạn chế. Luật Quản lý thuế
được xây dựng là nhằm hình thành hành lang pháp lý
cụ thể, đồng bộ, thống nhất cho công
tác quản lý thuế hiện nay.
Giao Bộ Tài
chính chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính
phủ, Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan, tiếp thu
ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự án
Luật Quản lý thuế; Bộ trưởng Bộ Tài
chính thừa ủy quyền Thủ tướng Chính
phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội
dự án Luật này.
b) Chính phủ
nhất trí việc sửa đổi, bổ sung một
số điều của Bộ luật Lao động
lần này chỉ sửa những nội dung của Chương
XIV Bộ luật Lao động liên quan đến đình
công và giải quyết đình công theo đúng tinh thần
Nghị quyết số 49/2005/QH11 của Quốc hội
khoá XI. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung phải xác
định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp
lý của tập thể lao động, Ban chấp hành Công
đoàn cơ sở, người sử dụng lao
động trước và trong quá trình đình công; trách
nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức
công đoàn, đại diện người sử dụng
lao động đối với đình công.
Giao Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội chủ trì,
phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư
pháp và các cơ quan liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên
Chính phủ, hoàn chỉnh dự án Luật Sửa
đổi, bổ sung một số điều của
Bộ luật Lao động; Bộ trưởng Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội thừa ủy
quyền Thủ tướng Chính phủ trình Ủy ban
Thường vụ Quốc hội dự án Luật này.
c) Dạy
nghề là một hoạt động có vai trò rất quan
trọng đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước, góp phần
giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo,
chuyển dịch cơ cấu lao động, đáp
ứng nhu cầu nhân lực có trình độ, có kỹ thuật
cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Việc xây dựng hệ thống
pháp luật về dạy nghề đồng bộ,
thống nhất là rất cần thiết nhằm phát
triển hoạt động dạy nghề, góp phần
thực hiện những mục tiêu phát triển kinh tế
- xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề
ra.
Giao Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội chủ trì,
phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư
pháp và các cơ quan liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên
Chính phủ, hoàn chỉnh dự án Luật Dạy nghề;
Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh
và Xã hội thừa ủy quyền Thủ tướng
Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc
hội dự án Luật này.
d) Pháp lệnh
Thể dục, thể thao năm 2000 đã tạo
điều kiện phát triển sự nghiệp thể
dục thể thao, tăng cường hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước, đồng
thời tạo chuyển biến căn bản trong
nhận thức của xã hội về giá trị, ý
nghĩa và tầm quan trọng của công tác thể dục
thể thao trong đời sống xã hội. Tuy nhiên,
để đáp ứng những mục tiêu và nhiệm
vụ mới phù hợp với tình hình thực tiễn
trong nước và hội nhập quốc tế, Pháp
lệnh cần được sửa đổi và nâng lên
thành Luật.
Giao Ủy ban
Thể dục thể thao chủ trì, phối hợp
với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và các cơ
quan liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ,
hoàn chỉnh dự án Luật Thể dục thể thao
trình Thủ tướng Chính phủ quyết định
việc trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
đ) Hoạt
động chuyển giao công nghệ thời gian qua đã
góp phần quan trọng để đổi mới và nâng
cao trình độ công nghệ của các doanh nghiệp, phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước. Tuy nhiên, các văn bản quy
phạm pháp luật hiện hành về chuyển giao công
nghệ còn chưa thống nhất và đồng bộ,
ảnh hưởng đến khả năng thu hút và
chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp. Việc
ban hành Luật Chuyển giao công nghệ là nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật về chuyển giao
công nghệ cho phù hợp với điều kiện kinh
tế thị trường và hội nhập kinh tế
quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho
các doanh nghiệp đổi mới công nghệ và thúc
đẩy thương mại hóa kết quả nghiên
cứu khoa học.
Giao Bộ Khoa
học và Công nghệ chủ trì, phối hợp với
Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và các cơ quan liên
quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn
chỉnh dự án Luật Chuyển giao công nghệ trình
Thủ tướng Chính phủ quyết định
việc trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
4. Chính phủ
xem xét Báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội tháng 01
năm 2006 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình;
Báo cáo tình hình thương mại tháng 01 năm 2006 do Bộ
Thương mại trình; Báo cáo kết quả công tác thanh
tra năm 2005 và phương hướng, nhiệm vụ
năm 2006 do Tổng Thanh tra Chính phủ trình.
Tình hình kinh
tế - xã hội tháng 01 năm 2006 tiếp tục duy trì
đà phát triển của những tháng cuối năm 2005.
Sản xuất công nghiệp đạt mức tăng
trưởng cao; sản xuất nông nghiệp ổn
định, bước đầu khống chế
được dịch cúm gia cầm; lĩnh vực
dịch vụ tiếp tục phát triển; hoạt
động xuất khẩu được đẩy
mạnh; vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài tăng khá, đặc biệt là vốn
đăng ký mới; chỉ số giá tiêu dùng tuy tăng cao
so với cùng kỳ năm trước, nhưng không gây
"sốt giá" do lượng hàng cung ứng dồi dào. Công tác
y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và trật tự
an toàn giao thông có những chuyển biến tích cực. Tình
hình khiếu nại, tố cáo trên toàn quốc giảm, song
số vụ khiếu kiện vượt cấp lên Trung
ương có chiều hướng gia tăng, nhiều
vụ khiếu kiện tồn đọng kéo dài chưa
được giải quyết dứt điểm.
Chính phủ
nhận định, năm 2006 sẽ có một số khó
khăn ảnh hưởng không thuận đến sản
xuất và đời sống nhân dân, thời tiết còn diễn
biến phức tạp, hạn hán có khả năng
nặng hơn năm trước; dịch cúm gia cầm
vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ bùng phát; giá cả đứng
ở mức cao; tình trạng lãng phí, tham nhũng và tệ nạn xã hội chưa
được ngăn chặn có hiệu quả.
Để hoàn thành kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội năm 2006, năm mở đầu cho kế
hoạch 5 năm 2006 – 2010, Chính phủ yêu cầu các Bộ,
ngành và địa phương cần sớm hoàn thành
việc giao kế hoạch cho các đơn vị cơ
sở, đồng thời nhanh chóng xây dựng
chương trình hành động và triển khai thực
hiện tốt Nghị quyết số 01/2006/NQ-CP ngày 16
tháng 01 năm 2006 của Chính phủ về những
giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều
hành thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và
ngân sách nhà nước năm 2006. Trước mắt, các
Bộ, ngành và địa phương tập trung chỉ
đạo tốt việc phát triển sản xuất kinh
doanh; giảm chi phí sản xuất, bình ổn giá cả,
thị trường; tổ chức tốt việc
thực hiện Công điện số 28/TTg-KTTH ngày 06 tháng
01 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về
tổ chức đón Tết Nguyên đán vui tươi, an
toàn, tiết kiệm.
TM. CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG
(đã ký)
Phan Văn Khải