Nghị quyết 01/2005/NQ-CP của Chính phủ về một số giải pháp chủ yếu chỉ đạo thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2005
- Tóm tắt
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Nghị quyết 01/2005/NQ-CP
Cơ quan ban hành: | Chính phủ | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 01/2005/NQ-CP | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 14/01/2005 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Chính sách |
TÓM TẮT VĂN BẢN
* Ngân sách nhà nước năm 2005 - Ngày 14/01/2005, Chính phủ đã ra Nghị quyết số 01/2005/NQ-CP về một số giải pháp chủ yếu chỉ đạo thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2005. Chính phủ chỉ đạo: tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thúc đẩy các đơn vị kinh tế nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh... UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, trọng tâm là đất ở tại đô thị và đất rừng sản xuất, phấn đấu đến cuối năm 2005 hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất... Các Tổng công ty nhà nước phải chủ động bảo đảm dự trữ sản xuất, dự trữ lưu thông để tăng khả năng tham gia điều tiết cung - cầu, góp phần ứng phó kịp thời khi có biến động đột xuất về giá... Đẩy mạnh phát triển đồng bộ các loại thị trường, chuyển mạnh hoạt động sản xuất, kinh doanh sang cơ chế thị trường, Đẩy mạnh huy động vốn đầu tư của tất cả các thành phần kinh tế cho tăng trưởng...
Xem chi tiết Nghị quyết 01/2005/NQ-CP tại đây
tải Nghị quyết 01/2005/NQ-CP
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
NGHỊ QUYẾT
CỦA CHÍNH
PHỦ SỐ 01/2005/NQ-CP NGÀY 14 THÁNG 01 NĂM 2005
VỀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN KẾ HOẠCH KINH TẾ - Xà HỘI VÀ NGÂN
SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2005
Năm 2005 là năm cuối cùng
và là năm có vai trò quyết định trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ IX và Nghị quyết số 55/2001/QH10 của Quốc hội về kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005. Để triển khai thực hiện
các Nghị quyết của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 6 về nhiệm vụ phát triển kinh
tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2005, Chính phủ đề ra một số giải
pháp chủ yếu cần tập trung chỉ đạo, điều hành trong năm 2005 như sau:
I. TIẾP TỤC CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG
KINH DOANH VÀ
ĐẨY MẠNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CẢ VỀ TỐC ĐỘ
VÀ CHẤT LƯỢNG
A. Tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thúc đẩy các đơn vị kinh tế nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh
1. Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính hoàn thành các văn bản hướng dẫn thi hành
các Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai trong quý I
năm 2005.
2. Uỷ ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh) đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
trọng tâm là đất ở tại đô thị và đất rừng sản xuất; phấn đấu đến cuối năm 2005
hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
3. Bộ Tài
nguyên và Môi trường chỉ đạo và phối hợp với các địa phương hoàn thành công tác
kiểm kê đất trong cả nước, hoàn thành quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm
2010; đẩy mạnh công tác giải phóng mặt bằng, kiên quyết thu hồi diện tích đất
không sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả theo đúng quy định của pháp luật để
bảo đảm nhu cầu mặt bằng của các dự án đầu tư. Định kỳ 6 tháng, Bộ Tài nguyên
và Môi trường tổng hợp báo cáo Chính phủ kết quả thực hiện chủ trương này.
4. Bộ Kế hoạch và
Đầu tư trình Chính phủ trong quý III năm 2005 các dự thảo: Luật Doanh nghiệp và
Luật Đầu tư để áp dụng chung cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
5. Bộ Kế hoạch và
Đầu tư trình Chính phủ Đề án tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài
trong quý I năm 2005 theo hướng quy định đăng ký cấp phép đầu tư phù hợp với lộ
trình thực hiện các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, mở rộng phân
cấp và ủy quyền việc cấp giấy phép và quản lý đầu tư cho Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh.
6. Bộ Tài chính
chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại, Tổng cục Thống kê
đẩy mạnh công tác phân tích, dự báo diễn biến giá cả thị trường; chủ động xử lý
theo thẩm quyền hoặc trình Thủ tướng Chính phủ những giải pháp cụ thể điều
hành, quản lý, bình ổn giá; xử lý nghiêm những hành vi vi phạm pháp luật về
giá.
7. Các Tổng công
ty nhà nước phải chủ động bảo đảm dự trữ sản xuất, dự trữ lưu thông để tăng khả
năng tham gia điều tiết cung - cầu, góp phần ứng phó kịp thời khi có biến động
đột xuất về giá.
8. Các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi tắt là các Bộ) trong quý I
năm 2005 rà soát, bổ sung, sửa đổi, ban hành các quy định về phát triển và mở
cửa các dịch vụ cho các thành phần kinh tế trong nước và doanh nghiệp nước
ngoài, trong đó cần bảo đảm thực hiện đúng các cam kết quốc tế đã ký kết với
ASEAN, Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản,... Trường hợp vượt thẩm quyền, chậm nhất là trong quý
II năm 2005 trình Chính phủ quyết định.
9. Bộ Tài chính
phối hợp với các Bộ liên quan trình Chính phủ trong quý I năm 2005 Đề án về
chuyển mạnh hoạt động của các lĩnh vực: giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể
thao sang cơ chế hoạt động dịch vụ phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
10. Các Bộ, Uỷ ban nhân dân các cấp tạo điều kiện về đất đai cho sản xuất, thông tin tiếp cận thị trường, xúc tiến thương mại,... để phát triển mạnh doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp dân doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm theo mục tiêu Quốc hội đề ra.
11. Bộ Tài chính
cùng các Bộ: Thương mại, Giao thông vận tải, Công nghiệp, Bưu chính, Viễn
thông, Khoa học và Công nghệ, Ngoại giao khẩn trương rà soát lại từng loại phí
và lệ phí để hủy bỏ các loại phí, lệ phí do các cơ quan, doanh nghiệp tự đặt ra
trái quy định của pháp luật; có biện pháp cắt giảm ngay những chi phí dịch vụ
đầu vào đang ở mức cao; giảm các loại chi phí, lệ phí vận tải, kho bãi tại các
cảng biển, cảng hàng không và các chi phí trong các hoạt động liên quan đến
việc thực hiện Chương trình hành động của APEC đến năm 2006.
12. Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, Bộ Công an và Bộ Tài chính thực hiện việc rà soát, sửa đổi các quy
định về đăng ký kinh doanh, khắc dấu, cấp mã số thuế và bán hóa đơn; hợp lý hoá
các khâu tổ chức thực hiện để đến cuối
năm 2005 thời gian tối đa dành cho các công việc này không quá 15
ngày.
B. Đẩy mạnh phát triển đồng bộ các loại thị trường, chuyển mạnh hoạt động
sản xuất, kinh doanh sang cơ chế thị trường
1. Bộ Xây dựng,
Bộ Tài nguyên và Môi trường khẩn trương xây dựng dự án Luật Kinh doanh bất động
sản, báo cáo Chính phủ để trình Quốc hội trong quý II năm 2005.
2. Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội trình Chính phủ trong
quý I năm 2005 sửa đổi, bổ sung quy định về
sử dụng lao động theo hướng mở rộng quyền cho các doanh nghiệp trong việc tuyển
dụng lao động, đặc biệt là lao động nước ngoài.
3. Bộ Bưu chính, Viễn thông nghiên cứu trình Chính phủ hoặc ban hành theo
thẩm quyền trong quý II năm 2005 quy định về kinh doanh mạng lưới viễn thông
đường trục theo hướng phải hạch toán riêng về giá cước và quản lý kết nối để
tránh sự phân biệt đối xử với các doanh nghiệp ngoài Tổng công ty Bưu chính
Viễn thông Việt Nam khi sử dụng các dịch vụ trên mạng thông tin đường trục quốc
gia.
4. Bộ Khoa học và Công nghệ hoàn thiện Đề án
phát triển thị trường khoa học và công nghệ, trình Chính phủ trong quý I năm
2005.
5. Bộ Tài chính
trong quý III năm 2005 tổng kết, đánh giá 5 năm hoạt động thị trường chứng
khoán tập trung, trình Chính phủ Đề án phát triển thị trường chứng khoán giai
đoạn 2006 - 2010 phù hợp với Đề án tổng thể hoàn thiện và phát triển thị trường
vốn, thị trường tiền tệ ở Việt Nam.
6. Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn trong quý II năm 2005 trình Thủ tướng Chính phủ các
biện pháp thúc đẩy các hình thức liên kết "bốn Nhà"(Nhà nông - Nhà
doanh nghiệp - Nhà khoa học - Nhà nước) thông qua ký kết hợp đồng sản xuất,
tiêu thụ nông sản theo Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24 tháng 6 năm 2002
của Thủ tướng Chính phủ; đồng thời, đề xuất các điều khoản ràng buộc và các chế
tài nhằm xử lý có hiệu quả các tranh chấp về hợp đồng liên kết.
C. Đẩy mạnh huy động vốn đầu tư của tất cả các thành phần kinh tế cho tăng
trưởng
1. Bộ Kế hoạch và
Đầu tư trình Chính phủ trong quý II năm 2005 Nghị định sửa đổi Nghị định số
77/CP ngày 18 tháng 6 năm 1997 về Quy chế đầu tư theo hình thức BOT trong nước.
2. Bộ Giao thông
vận tải trong quý II năm 2005 công bố Danh mục dự án BOT trong lĩnh vực giao
thông vận tải để thu hút các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước.
3. Bộ Xây dựng
trong quý II năm 2005 công bố Danh mục dự án đầu tư về kết cấu hạ tầng kinh tế,
xã hội cần gọi vốn đầu tư từ các thành phần kinh tế trong nước, từ nước ngoài,
nhất là các dự án thuộc lĩnh vực cấp, thoát nước, xử lý rác thải, vệ sinh môi
trường, xây dựng khu đô thị mới, giao thông đô thị, công trình công cộng.
4. Bộ Kế hoạch và
Đầu tư trong quý II năm 2005 công bố Danh mục các dự án quốc gia kêu gọi đầu tư
nước ngoài; trình Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát triển
ngành và lĩnh vực theo hướng mở rộng sự tham gia đầu tư của các thành phần kinh
tế, kể cả đầu tư nước ngoài.
5. Bộ Kế hoạch và
Đầu tư trong quý I năm 2005 công bố Danh mục ngành nghề, lĩnh vực cụ thể mà các
nhà đầu tư nước ngoài chỉ được tham gia tối đa 30% vốn đầu tư theo quy định của
Luật Khuyến khích đầu tư trong nước. Đối với các ngành và lĩnh vực khác ngoài
danh mục này không hạn chế tỷ lệ vốn góp của các nhà đầu tư nước ngoài.
6. Các Bộ, Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh tiếp tục cải tiến và công khai hoá các quy trình, thủ tục
hành chính về đầu tư theo hướng đơn giản, thuận tiện và rút ngắn thời gian thẩm
định, cấp phép đầu tư.
7. Bộ Kế hoạch và
Đầu tư trình Chính phủ trong quý I năm 2005 Nghị định bổ sung, sửa đổi Nghị
định số 22/1999/NĐ-CP ngày 14 tháng 4 năm 1999 quy định về đầu tư ra nước ngoài
của doanh nghiệp Việt Nam nhằm thống nhất quản lý và tạo điều kiện thuận lợi
cho các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam ra nước ngoài.
8. Bộ Tài chính, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đẩy nhanh lộ trình loại bỏ việc
quy định giá khác nhau giữa các nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài.
9. Các địa phương
chủ động rà soát lại việc quản lý và sử dụng đất để có biện pháp khai thác quỹ
đất và nguồn thu từ đất đai phục vụ trực tiếp cho đầu tư phát triển của địa
phương.
D. Đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hoá và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp nhà nước
1. Bộ Tài
chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trong quý I năm 2005 ban hành
đầy đủ các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16
tháng 11 năm 2004 của Chính phủ về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty
cổ phần. Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm chỉ đạo,
tổ chức thực hiện sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước theo Quyết định số
155/2004/QĐ-TTg ngày 24 tháng 8 năm
2004 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành tiêu chí, danh mục phân loại công ty
nhà nước và công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty nhà nước và
phương án, kế hoạch đã được duyệt.
2. Các
doanh nghiệp nhà nước lớn khi cổ phần hoá phải thực hiện việc niêm yết trên thị
trường chứng khoán. Bộ Tài chính có trách nhiệm hướng dẫn, theo dõi, giám sát
việc thực hiện quy định này.
3. Bộ Tài
chính hướng dẫn các tổng công ty, doanh nghiệp lớn (Tổng công ty Điện lực Việt
Nam, Tổng công ty Xi măng Việt Nam, Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt
Nam,...) phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động vốn, mở rộng đầu tư sản
xuất, kinh doanh.
4. Các Bộ,
địa phương theo chức năng và trách nhiệm được giao đẩy mạnh việc xử lý nợ tồn
đọng của doanh nghiệp nhà nước, lành mạnh hóa tình hình tài chính doanh nghiệp
nhà nước nhằm hỗ trợ cho quá trình cổ phần hóa, sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
5. Tiếp tục
đẩy mạnh và mở rộng diện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước bao gồm cả một số
tổng công ty và doanh nghiệp lớn trong các ngành: điện lực, luyện kim, cơ khí,
hoá chất, phân bón, xi măng, xây dựng, vận tải đường bộ, đường sông, hàng
không, hàng hải, viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm và các tổng công ty nhà nước
hoạt động trong các ngành mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn. Trong khi chưa cổ
phần hoá được toàn tổng công ty thì cổ phần hoá các doanh nghiệp thành viên.
Thực hiện việc bán cổ phần của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, trước hết là
đối với các tổng công ty, công ty có quy mô lớn trên thị trường chứng khoán.
6. Các Bộ,
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nâng cao trách nhiệm quản lý nhà nước đối với các hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước theo Luật Doanh nghiệp nhà nước. Những doanh
nghiệp thuộc diện cổ phần hoá mà không chịu cổ phần hoá hoặc trì hoãn thực hiện
thì kiên quyết thay đổi nhân sự chủ chốt.
II. NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ, CHỐNG THẤT THOÁT
VÀ LàNG PHÍ TRONG ĐẦU TƯ
A. Tiếp tục rà soát, cập nhật và nâng cao chất lượng quy
hoạch
1. Chính
phủ ban hành Nghị định về quy hoạch và quản lý quy hoạch trong quý I năm 2005.
Các Bộ có liên quan ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chậm nhất trong
quý II năm 2005.
2. Các Bộ,
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm quản lý nhà nước đối với quy hoạch đã
được phê duyệt, có biện pháp ngăn ngừa, kịp thời xử lý hoặc kiến nghị cấp có
thẩm quyền xử lý những đơn vị, cá nhân quyết định đầu tư không đúng quy hoạch; đồng
thời, tiếp tục triển khai thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chương
trình hành động của Chính phủ thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát
triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng của các vùng Tây Nguyên,
đồng bằng sông Cửu Long, Trung du miền núi Bắc bộ, Bắc Trung bộ và Duyên hải
miền Trung đến năm 2010.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan quản lý ngành rà soát, điều chỉnh,
bổ sung quy hoạch ngành, quy hoạch các Vùng kinh tế trọng điểm, quy hoạch các
sản phẩm chủ yếu trong quý II năm 2005 theo hướng: quy hoạch là định
hướng để các địa phương xây dựng quy hoạch chi tiết, để các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế (bao gồm cả đầu tư nước ngoài) xây dựng kế hoạch, phương
án sản xuất, kinh doanh. Công khai các quy hoạch và tăng cường công tác kiểm
tra, giám sát của cộng đồng đối với công tác quy hoạch.
4. Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương phù hợp với các
quy hoạch tổng thể ngành, vùng, sản phẩm của Trung ương. Đổi mới phương pháp
xây dựng quy hoạch, làm cho sản phẩm của quy hoạch phát huy được lợi thế của
địa phương, là định hướng huy động mọi nguồn lực của xã hội cho phát triển,
phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, khai thác mọi tiềm năng đẩy nhanh tốc độ
phát triển của khu vực công nghiệp và dịch vụ.
B. Nâng cao hiệu quả đầu tư, chống lãng phí, thất thoát vốn đầu tư của Nhà
nước
1. Bộ Kế hoạch và
Đầu tư trình Chính phủ trong quý I năm 2005 Quy chế quản lý đầu tư bằng vốn nhà
nước (gồm vốn ngân sách, vốn tín dụng nhà nước, vốn đầu tư của các doanh nghiệp
nhà nước) theo hướng: loại bỏ dần tình trạng khép kín trong đầu tư xây dựng,
tách chức năng quản lý nhà nước về đầu tư và xây dựng với quản lý kinh doanh
trong tất cả các khâu.
Phải thực hiện cơ
chế đấu thầu đối với những dự án đầu tư bằng vốn nhà nước; người ra quyết định
đầu tư không được kiêm nhiệm làm chủ đầu tư dự án; tổ chức tư vấn thiết kế, nhà
thầu xây dựng, tư vấn giám sát của một dự án, công trình nhất thiết không được
cùng một cơ quan chủ quản (Bộ, tỉnh, thành phố); quy định rõ điều kiện, tiêu
chuẩn làm chủ đầu tư, ban quản lý dự án; nâng cao năng lực và tính chuyên
nghiệp của các ban quản lý dự án.
Cùng với việc
phân cấp trong quản lý đầu tư và xây dựng, tiếp tục bổ sung các chế tài về
trách nhiệm toàn diện của chủ đầu tư đối với hiệu quả, chất lượng, tiến độ xây
dựng dự án; trách nhiệm của người ra quyết định đầu tư; của ban quản lý dự án;
của tổ chức, cá nhân tư vấn thiết kế kỹ thật, tư vấn giám sát thi công, nhà
thầu khi tham gia xây dựng.
Các dự án đầu tư
đã hoàn thành phải tổ chức kiểm toán trước khi quyết toán công trình.
2. Bộ Xây dựng
trong quý II năm 2005 ban hành tiêu chí về năng lực và điều kiện hoạt động của
tổ chức tư vấn thiết kế kỹ thuật và tổ chức tư vấn giám sát thi công theo hướng
khuyến khích tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước
tham gia các hoạt động này; chuyển các tổ chức này của Nhà nước sang hoạt động
độc lập, không có chủ quản.
3. Các Bộ, Uỷ ban
nhân dân cấp tỉnh rà soát, đánh giá các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư
xây dựng hiện hành, kịp thời kiến nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung, ban hành mới
các quy định cụ thể về các chế tài đối với thanh tra, kiểm tra, giám sát đầu tư
từ nguồn vốn nhà nước; các nguyên tắc, tiêu chí phân bổ vốn đầu tư theo mục
tiêu; thực hiện công khai, minh bạch trong việc phân bổ vốn đầu tư nhà nước;
công khai kết quả thanh tra, kiểm tra; xử lý kịp thời, nghiêm minh những đơn
vị, cá nhân làm sai các quy định của pháp luật.
4. Tiếp tục thực
hiện Chỉ thị số 29/2003/CT-TTg ngày 23 tháng 12 năm 2003 của Thủ tướng Chính
phủ về chấn chỉnh, quản lý đầu tư và xây dựng bằng nguồn vốn nhà nước; rà soát lại chủ trương đầu tư và hiệu quả đầu tư
đối với một số dự án lớn, còn nhiều ý kiến khác nhau để xác định hướng xử lý.
5. Năm 2005, các
cấp có thẩm quyền quyết định đầu tư phải soát xét, chịu trách nhiệm đối với các
công trình đang xây dựng và dự định khởi công để bảo đảm hiệu quả đầu tư, khắc
phục tình trạng đầu tư dàn trải; kiên quyết không quyết định đầu tư đối với các
công trình chưa chắc chắn về nguồn vốn.
Đối với các dự án đang chuẩn bị đầu tư, thẩm định lại các phương án đầu tư,
xem xét lại các yêu cầu về quy hoạch, kỹ thuật, công nghệ, thị trường,...; nếu
việc đầu tư không mang lại hiệu quả thiết thực thì không quyết định đầu tư.
Đối với các dự án
đang đầu tư, cần có sự rà soát, tính toán sửa đổi, bổ sung giải pháp kỹ thuật,
thay đổi quy mô, công nghệ cho phù hợp nhằm bảo đảm tính hiệu quả của dự án,
nếu xét thấy việc tiếp tục đầu tư không hiệu quả thì kiên quyết dừng đầu tư.
Trường hợp các dự án đầu tư xét thấy không hiệu quả nhưng vẫn tiếp tục được
đầu tư dẫn đến không thu hồi được vốn, không trả được nợ vay thì người quyết
định tiếp tục đầu tư phải bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật tuỳ theo mức độ vi
phạm hoặc xử lý hình sự nếu gây hậu quả nghiêm trọng.
Trong quý II năm 2005, các Bộ, địa phương gửi báo cáo kết quả rà soát các
nội dung trên cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp báo cáo Chính phủ.
6. Về thanh tra
đầu tư xây dựng cơ bản:
a) Thanh tra Chính
phủ, thanh tra các Bộ, địa phương tập trung thanh tra đầu tư xây dựng cơ bản,
chống dàn trải, lãng phí, thất thoát, tiêu cực trong đầu tư xây dựng cơ bản,
ngay từ khâu thiết kế.
b) Bộ Kế hoạch và
Đầu tư xây dựng chương trình
và tổ chức thực hiện việc kiểm tra, giám sát, thanh tra kế hoạch và đầu tư một
số dự án lớn thuộc các ngành: giao thông vận tải, thủy lợi, điện lực, xây dựng.
7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư
trình Thủ tướng Chính phủ trong quý II năm 2005 ban hành quy định về trách
nhiệm của người thẩm định, người quyết định dự án đầu tư theo hướng:
a) Người quyết
định đầu tư dự án phải chịu trách nhiệm về hiệu quả và khả năng bảo đảm nguồn
vốn; dự án đầu tư phải theo đúng quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt
và không trái với các quy định hiện hành về quản lý đầu tư và xây dựng.
b) Quy định rõ
trách nhiệm cá nhân của người thẩm định, người quyết định đầu tư, người giám
sát thi công đối với chất lượng công trình.
8. Vốn ngân sách
nhà nước dành cho đầu tư phát triển phải được các cơ quan dân cử bàn, quyết
định. Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Chính phủ trong quý III năm 2005 việc đề nghị
Quốc hội sửa đổi tiêu chí các dự án phải trình Quốc hội và đề xuất tiêu chí các
dự án đầu tư phải trình Hội đồng nhân dân các cấp xét duyệt chủ trương đầu tư theo
một quy trình chặt chẽ.
9. Các Bộ, các địa phương phải dành thỏa đáng vốn đầu tư trong dự toán ngân
sách năm 2005 để thanh toán nợ tồn đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản, không để phát sinh nợ mới trái với
quy định của pháp luật; các địa phương đã khởi công xây dựng công trình khi
chưa được bố trí vốn trong kế hoạch, dựa vào huy động vốn của nhà thầu, vay của
các tổ chức tín dụng,... gây nên nợ đọng và chiếm dụng vốn của doanh nghiệp
phải dành một phần ngân sách hàng năm của địa phương mình để trả nợ và từ nay chấm dứt
việc quyết định đầu tư tuỳ tiện này.
10. Bộ Kế hoạch
và Đầu tư phối hợp với Bộ Tài chính, các Bộ liên quan trong quý I năm 2005 rà
soát lại các công trình đầu tư bằng trái phiếu Chính phủ bảo đảm có hiệu quả;
chỉ phát hành trái phiếu khi các công trình, dự án được phép đầu tư từ nguồn
trái phiếu Chính phủ đã hoàn tất các thủ tục và đủ điều kiện thực hiện ngay.
11. Bộ Kế hoạch
và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, các Bộ và các địa phương liên
quan rà soát Danh mục các dự án đường tuần tra biên giới, thủy lợi miền núi,
các xã biên giới hiện chưa có đường giao thông (ô tô) đến trung tâm xã để thực
hiện từ nguồn trái phiếu Chính phủ theo Nghị quyết của Quốc hội.
12. Bộ Kế hoạch
và Đầu tư chủ trì xây dựng quy hoạch về thu hút và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ
phát triển chính thức (ODA) cho thời kỳ 2006 - 2010; chủ động bổ sung và sửa
đổi theo thẩm quyền hoặc trình Chính phủ sửa đổi các văn bản liên quan đến quản
lý vốn ODA, trước hết là Nghị định số 17/2001/NĐ-CP ngày 04 tháng 5 năm 2001 của
Chính phủ ban hành Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính
thức.
13. Các ngành,
các cấp, các đơn vị phải quán triệt và thực hiện đúng Chỉ thị số 17/2004/CT-TTg
ngày 24 tháng 5 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh giải ngân nguồn
vốn ODA; tạo bước
chuyển biến mạnh mẽ về giải ngân và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA.
14. Bộ Tài
chính trình Chính phủ trong quý I năm 2005 Đề án sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh Đấu
thầu về mua sắm tài sản công; ban hành quy chế kiểm tra, giám sát việc sử dụng
vốn khi thực hiện dự án đầu tư bằng vốn nhà nước.
15. Bộ Kế
hoạch và Đầu tư phối hợp với các cơ quan của Quốc hội xây dựng quy chế bảo đảm
cho các cơ quan dân cử và cộng đồng dân cư giám sát việc triển khai thực hiện
các công trình đầu tư bằng vốn nhà nước.
16. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ trì, phối hợp với Tổng cục Thống kê
và các cơ quan liên quan xây dựng hệ thống cung cấp thông tin về doanh nghiệp,
làm cơ sở để giúp các ngân hàng xem xét, quyết định việc cho vay.
17. Bộ Kế
hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính trình Chính phủ trong quý II
năm 2005 điều kiện thành lập doanh nghiệp độc lập có vốn đầu tư nước ngoài hoạt
động trong lĩnh vực đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp để hỗ trợ các tổ chức tín
dụng khi xem xét, quyết định cho vay vốn và để các doanh nghiệp có thêm cơ sở
xác định sự minh bạch về tài chính khi phát hành trái phiếu doanh nghiệp và
tham gia thị trường vốn.
III. ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TÀI
CHÍNH, TIỀN TỆ
A. Về tài chính và ngân sách nhà nước
1. Các Bộ,
địa phương tăng cường chỉ đạo chống thất thu, phấn đấu vượt dự toán thu ngân
sách ít nhất 5% so với dự toán đã được giao tại Quyết định số 194/2004/QĐ-TTg
ngày 17 tháng 11 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ để bổ sung nguồn thực hiện
nhiệm vụ kinh tế - xã hội và cải cách tiền lương.
2. Các Bộ
và địa phương phải phân bổ, giao dự toán năm 2005 đến đơn vị sử dụng ngân sách
đúng thời gian quy định. Sau ngày 31 tháng 3 năm 2005, cơ quan kế hoạch, tài
chính các cấp tổng hợp, báo cáo cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh giảm chi hoặc
điều chuyển cho đơn vị khác số vốn chưa phân bổ.
3. Đối với
các chương trình mục tiêu quốc gia, ngoài nguồn vốn ngân sách trung ương hỗ
trợ, căn cứ mục tiêu, nhiệm vụ của từng chương trình, các địa phương chủ động
bố trí ngân sách và huy động thêm các nguồn hợp pháp khác để bảo đảm đến hết
năm 2005 hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ giai đoạn 2001 - 2005 của các chương
trình trên địa bàn.
4. Bộ Tài
chính trong quý II năm 2005 trình Chính phủ sửa đổi, bổ sung cơ chế tài chính
đối với các đơn vị sự nghiệp theo hướng tăng quyền tự chủ về tài chính, tổ chức
thực hiện nhiệm vụ, quản lý tổ chức, biên chế,... để áp dụng cho tất cả các đơn
vị sự nghiệp có thu, tạo động lực đẩy mạnh phát triển các hoạt động dịch vụ
công.
5. Bộ Tài chính trình Chính phủ trong quý II
năm 2005 dự thảo Nghị định về sửa
đổi, bổ sung chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở sự nghiệp ngoài công
lập theo chủ trương đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá các hoạt động: y tế, giáo
dục, văn hoá, thể dục thể thao.
6. Bộ Tài
chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoàn thiện cơ chế
giám sát tài chính, tiền tệ, nhất là nợ nước ngoài nhằm bảo đảm an ninh tài
chính quốc gia, kiểm soát các luồng vốn, các khoản vay nợ, trả nợ, mở rộng các
hình thức công khai tài chính.
7. Các Bộ,
các địa phương thực hiện công bố công khai dự toán ngân sách năm 2005 theo quy
định tại Quyết định số 192/2004/QĐ-TTg ngày 16 tháng 11 năm 2004 của Thủ tướng
Chính phủ về ban hành Quy chế công khai tài chính.
B. Về tiền tệ và tín dụng
1. Để góp phần
kiểm soát lạm phát, yêu cầu:
a) Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam có giải pháp nâng cao năng lực phân tích, dự báo để chủ
động điều tiết thị trường tiền tệ nhằm ổn định sức mua đối nội và đối ngoại của
đồng tiền Việt Nam, phấn đấu giữ chỉ số giá tiêu dùng năm 2005 không vượt quá
mức Quốc hội đã quyết định.
b) Hội đồng
tư vấn chính sách tài chính tiền tệ trình Thủ tướng Chính phủ trong quý I năm
2005 đánh giá tình hình và đề xuất các giải pháp kiềm chế tăng giá trong năm
2005, đặc biệt trong những tháng đầu năm.
2. Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của
các tổ chức tín dụng, có biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng và kiểm soát
tăng trưởng tài sản có rủi ro nhằm ngăn chặn xu hướng gia tăng nợ xấu của các
tổ chức tín dụng; phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm trong hoạt động tín
dụng, tiền tệ.
3. Tiếp tục
đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại nhằm
nâng cao năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của các ngân hàng này; tổng kết,
đánh giá việc thực hiện đề án xử lý nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại.
4. Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam khẩn trương thực hiện các ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ tại công văn số 988/VPCP-KTTH ngày 13 tháng 12 năm 2004; trình Thủ
tướng Chính phủ trong quý II năm 2005 phương án xử lý nợ xấu của các tổ chức
tín dụng sau khi áp dụng chuẩn mực và thông lệ quốc tế về kế toán, phân loại
tín dụng và trích lập dự phòng rủi ro.
5. Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam tập trung đẩy nhanh tiến độ phát triển thị trường tiền
tệ trong khuôn khổ Đề án hoàn thiện và phát triển thị trường vốn, thị trường
tiền tệ ở Việt Nam; đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án hiện đại hóa ngân hàng và
hệ thống thanh toán; mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt; chuẩn bị các điều kiện
để triển khai thực hiện Nghị định của Chính phủ về thanh toán bằng tiền mặt.
6. Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam trình Chính phủ trong quý II năm 2005 Đề án về lộ trình
nâng cao tính chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam, khắc phục từng bước hiện tượng
đô la hoá trong nền kinh tế; chuẩn bị dự thảo Pháp lệnh Ngoại hối để trình
Chính phủ vào quý I năm 2006.
7. Bộ Công
an, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chủ động thực hiện các giải pháp ngăn ngừa và
xử lý kịp thời các hành vi sản xuất, lưu thông và tiêu thụ tiền giả và các loại
tội phạm khác trong lĩnh vực ngân hàng.
C. Về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
1. Các Bộ,
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong quý I năm 2005 hoàn thành việc rà soát, xử lý
theo thẩm quyền những sai phạm trong quản lý, sử dụng trụ sở làm việc của các
cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị sự nghiệp thuộc thẩm quyền quản lý; thu hồi
lại các cơ sở sử dụng không đúng mục đích để cấp cho các đơn vị khác có nhu cầu
chính đáng.
2. Các Bộ,
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong quý I năm 2005 phải rà soát lại số xe ô tô hiện
đang sử dụng; kiên quyết xử lý các sai phạm trong việc quản lý, sử dụng xe ô tô
đã phát hiện qua thanh tra, kiểm tra từ năm 2004 về trước (kể cả thực hiện điều
chuyển xe ô tô vượt tiêu chuẩn giữa các cơ quan, đơn vị trực thuộc).
3. Bộ Tài
chính trình Thủ tướng Chính phủ trong quý I năm 2005 việc sửa đổi, bổ sung chế
độ trang cấp xe ô tô con thuộc khu vực công.
4. Các Bộ,
các địa phương và cơ sở phải thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, nhất là trong
việc tổ chức hội nghị, hội thảo, mít tinh, kỷ niệm, đón nhận các danh hiệu thi
đua và đi công tác, khảo sát, học tập ở trong và ngoài nước,... Không tổ chức
chiêu đãi, tặng quà, không kết hợp tổ chức hội nghị, hội thảo với tham quan,
nghỉ mát. Ngân sách nhà nước không bổ sung kinh phí ngoài dự toán cho các hoạt
động này.
5. Bộ Tài
chính trình Thủ tướng Chính phủ trong quý I năm 2005 ban hành Quyết định về
tiêu chuẩn, định mức trang bị phương tiện làm việc trong các cơ quan hành chính
nhà nước và Quy chế về quà biếu, quà tặng.
IV. ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU VÀ THÚC
ĐẨY QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Các Bộ
và địa phương hướng dẫn các doanh nghiệp tiếp tục triển khai các giải pháp mở
rộng thị trường, đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng hàng
công nghiệp, hàng đã qua chế biến để nâng cao giá trị hàng hóa xuất khẩu.
2. Các Bộ và địa phương chủ động thực hiện các biện pháp cắt giảm bảo
hộ, tăng cường hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh; hướng dẫn các hiệp
hội ngành hàng và các doanh nghiệp phân tích khả năng cạnh tranh của các sản
phẩm, dịch vụ và đề xuất các biện pháp cụ thể nhằm giảm chi phí đầu vào của sản
xuất, chi phí trung gian, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng của từng
loại sản phẩm, dịch vụ; có biện pháp cụ thể khuyến khích xuất khẩu các mặt hàng
mới đang có khả năng đạt mức tăng trưởng xuất khẩu cao.
3. Bộ
Thương mại phối hợp với các Bộ liên quan rà soát lại và đề xuất bổ sung, sửa
đổi cơ chế khu kinh tế cửa khẩu, chợ đường biên với các nước láng giềng.
4. Các cơ
quan quản lý nhà nước có trách nhiệm trong quản lý hoạt động xuất nhập khẩu
(phân bổ hạn ngạch, hải quan, thuế, tín dụng, thanh toán...) phải thực hiện các
biện pháp mạnh mẽ để ngăn chặn tệ tham nhũng, sách nhiễu doanh nghiệp, giảm thủ
tục phiền hà, bảo đảm tính công khai, minh bạch, tăng cường đối thoại với doanh
nghiệp.
5. Bộ
Thương mại phối hợp với các Bộ liên quan, các hiệp hội ngành nghề và địa phương
đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại trọng điểm, trong đó chú trọng đến các
thị trường có kim ngạch xuất nhập khẩu lớn như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung
Quốc,...; có biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động xúc tiến
thương mại.
6. Để giúp
doanh nghiệp hội nhập có hiệu quả, hạn chế rủi ro:
a) Bộ
Thương mại, Bộ Ngoại giao và các Bộ quản lý sản xuất chủ động phát hiện, cung
cấp thông tin, đề xuất biện pháp ứng phó kịp thời với các rào cản phi thuế
quan, rào cản kỹ thuật trong thương mại quốc tế; hướng dẫn các doanh nghiệp
thực hiện đúng các quy trình sản xuất, các tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật của
sản phẩm xuất khẩu, nâng cao uy tín của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc
tế.
b) Bộ
Thương mại khẩn trương hoàn thành Đề án chủ động phòng chống các vụ kiện thương
mại nước ngoài theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại công văn số
6071/VPCP-QHQT ngày 09 tháng 11 năm 2004.
c) Bộ
Thương mại và Bộ Tài chính phổ biến thông tin và hướng dẫn các doanh nghiệp vận
dụng Chương trình giảm thuế (CEPT/AFTA); tranh thủ những cam kết mở cửa đối với
thị trường ASEAN để mở rộng thị trường xuất khẩu. Bộ Công nghiệp xây dựng đề án
nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam, tranh thủ đa dạng hóa thị
trường và đẩy mạnh xuất khẩu vào các nước dỡ bỏ hạn ngạch như EU, Canađa.
7. Các Bộ
khẩn trương thực hiện các công việc được phân công nhằm hỗ trợ Đoàn đàm phán
Chính phủ sớm kết thúc đàm phán để đạt mục tiêu gia nhập WTO vào cuối năm 2005;
đồng thời, căn cứ vào các cam kết quốc tế và lộ trình mở cửa các ngành, các
lĩnh vực để hướng dẫn các doanh nghiệp chuẩn bị hội nhập có hiệu quả.
8. Bộ Tư
pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ liên quan khẩn trương ban hành hoặc trình cấp
có thẩm quyền ban hành sửa đổi, bổ sung các văn bản cần thiết đáp ứng yêu cầu
gia nhập WTO. Bộ Tư pháp giám sát, kiểm tra để bảo đảm thực hiện đúng chương
trình xây dựng pháp luật đã đề ra.
V. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TRONG LĨNH VỰC Xà HỘI
1. Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội trình Thủ tướng Chính phủ trong quý I năm 2005 ban
hành chuẩn nghèo cho thời kỳ 2006 - 2010; đồng thời, phối hợp với Tổng cục
Thống kê chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương điều tra, thống kê hộ nghèo cho từng
xã, huyện, tỉnh (việc này phải kết thúc trong quý III năm 2005) làm cơ sở xây
dựng và thực hiện các chính sách xoá đói, giảm nghèo.
ưCác địa
phương khẩn trương xây dựng chương trình toàn diện về xoá đói giảm nghèo cho
thời kỳ 2006 - 2010. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội tổng hợp, trình Chính
phủ chương trình này trong quý III năm 2005.
2. Các
Bộ, địa phương tiếp tục giải quyết có hiệu quả và vững chắc công tác xóa đói,
giảm nghèo ở nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số. Đẩy mạnh phong trào toàn dân hỗ trợ xây dựng nhà ở cho các hộ nghèo, đặc
biệt là hộ gia đình nghèo thuộc diện người có công.
3. Uỷ ban
nhân dân các cấp thực hiện tốt Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg ngày 20 tháng 7
năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất
ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, bảo đảm dân
chủ, công khai, minh bạch.
4. Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, các địa phương có cơ chế và giải pháp cụ thể để
khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào việc đầu tư xây dựng và mở
rộng mạng lưới, nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho người lao động, đặc biệt
là thanh niên nông thôn, đáp ứng nhu cầu lao động cho các khu công nghiệp, cho
xuất khẩu lao động,... Chấn chỉnh việc tổ chức đưa lao động đi làm việc ở nước
ngoài, mở thêm thị trường xuất khẩu lao động.
5. Bộ Giáo
dục và Đào tạo có nhiệm vụ:
a) Trình
Chính phủ trong quý I năm 2005 Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện
Nghị quyết số 37/2004/QH11 của Quốc hội về giáo dục.
b) Trình
Thủ tướng Chính phủ trong quý II năm 2005 Đề án đổi mới giáo dục đại học và Đề
án điều chỉnh phương án phân ban trung học phổ thông góp phần hướng nghiệp cho
học sinh và phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam.
c) Trình
Chính phủ trong quý II năm 2005 Đề án đổi mới toàn diện công tác quản lý nhà
nước về giáo dục theo hướng phân công, phân cấp rõ trách nhiệm, quyền hạn của
Bộ Giáo dục và Đào tạo, của các Bộ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
d) Trình
Chính phủ trong quý II năm 2005 Đề án đổi mới chế độ học phí.
đ) Thực
hiện đồng bộ các biện pháp ngăn chặn sự gian dối trong việc thi cử, trong việc
làm luận văn, luận án, cấp phát văn bằng, chứng chỉ; khắc phục bệnh chạy theo
thành tích; quy định ngay việc cấm giáo viên dạy thêm có thu tiền đối với học
sinh của chính lớp mình, trường mình.
e) Rà
soát điều chỉnh, bổ sung quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp, tiêu chí về điều kiện thành lập các trường đại học,
cao đẳng trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
g) Hoàn
thiện cơ sở pháp lý đối với các loại hình giáo dục đào tạo ngoài công lập, ban
hành cơ chế chính sách chuyển đổi loại hình giáo dục đào tạo công lập sang
ngoài công lập.
6. Bộ
Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Uỷ ban nhân dân các
cấp đẩy nhanh tiến độ xây dựng và giải ngân Chương trình kiên cố hóa trường
học, phấn đấu hoàn thành mục tiêu của Chương trình trong năm 2005.
7. Bộ Y tế trình Chính phủ Đề án tổng thể về đổi
mới chế độ viện phí trong quý I năm 2005; Đề án sửa đổi, bổ sung Điều lệ bảo
hiểm y tế, Đề án mở rộng phạm vi bảo hiểm y tế bắt buộc, khung pháp lý cho việc
áp dụng nhiều hình thức bảo hiểm y tế tự nguyện, bảo hiểm y tế cộng đồng; xây
dựng, công bố các quy hoạch: mạng lưới bệnh viện, ngành dược, hệ thống y tế dự
phòng trong quý II năm 2005.
8. Bộ Y tế
tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về dược và khám, chữa
bệnh; trình Chính phủ Đề án phát triển sản xuất, dự trữ, lưu thông thuốc chữa
bệnh.
9. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
phối hợp với Bộ Y tế và Uỷ ban nhân dân các cấp có các giải pháp quyết liệt,
huy động mọi lực lượng kiểm tra, khoanh vùng và dập tắt triệt để các ổ dịch cúm
gia cầm và các dịch bệnh gia súc khác, không để lây lan ra diện rộng; chỉ đạo
các địa phương khắc phục hạn hán và phòng, chống thiên tai, cháy rừng, bảo đảm
ổn định đời sống nhân dân.
10. Uỷ
ban Dân số, Gia đình và Trẻ em phối hợp với các cơ quan liên quan tăng cường
kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác dân số kế hoạch hoá gia đình, hạn
chế việc sinh con thứ ba; nghiên cứu trình Chính phủ Đề án sửa đổi Điều 10 Pháp
lệnh Dân số để trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Tổ chức
Đảng và chính quyền các cấp phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể, các tổ chức xã
hội đẩy mạnh tuyên truyền, vận động, giáo dục thực hiện các chủ trương, chính
sách và pháp luật về dân số, kế hoạch hoá gia đình.
11. Bộ
Văn hóa - Thông tin có nhiệm vụ:
a) Thực
hiện các biện pháp cụ thể để khuyến khích đội ngũ văn nghệ sỹ sáng tác được
nhiều công trình, tác phẩm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, đáp ứng ngày
càng tốt hơn yêu cầu văn hóa, tinh thần của nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng
xa; khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia chăm lo xây
dựng đời sống văn hóa, góp phần đấu tranh bài trừ các hiện tượng tiêu cực trong
lĩnh vực văn hóa, thông tin.
b) Trình
Chính phủ trong quý II năm 2005 Đề án quy hoạch phát triển mạng lưới truyền
hình, phát thanh trong cả nước.
c) Xây
dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch triển khai thực hiện kết luận của Bộ Chính
trị về một số biện pháp tăng cường quản lý báo chí.
12. Các
cơ quan thông tin đại chúng tích cực phát hiện và cổ vũ kịp thời các điển hình
tiên tiến, các gương người tốt, việc tốt trong sản xuất và đời sống; bảo đảm
thông tin chính xác, trung thực trong đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí và chống tệ nạn xã hội; không đưa tin sai chủ trương, định hướng làm
ảnh hưởng đến sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
13. Uỷ
ban Thể dục Thể thao có biện pháp cụ thể để chấn chỉnh, hoàn thiện công tác
quản lý nhà nước trong lĩnh vực thể dục thể thao. Chủ trì cùng Bộ Y tế trình
Chính phủ trong quý III năm 2005 Đề án hình thành tổ chức và cơ chế phối hợp
giữa các cơ quan có trách nhiệm trong việc bảo vệ sức khoẻ, nâng cao thể chất
và tầm vóc của người Việt Nam.
14. Bộ
Khoa học và Công nghệ ban hành theo thẩm quyền hoặc trình Chính phủ ban hành
các văn bản về sở hữu trí tuệ; đề xuất cơ chế chuyển các cơ quan nghiên cứu ứng
dụng và chuyển giao công nghệ sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp.
15. Bộ
Khoa học và Công nghệ có nhiệm vụ:
a) Trình
Chính phủ trong quý II năm 2005 Đề án về cơ chế, chính sách và các giải pháp
đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ cao.
b) Trình
Thủ tướng Chính phủ việc đổi mới căn bản cơ chế xây dựng, quản lý nhiệm vụ khoa
học và công nghệ của các cấp, các ngành.
16. Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng, công bố tiêu chuẩn môi trường
Việt Nam. Tăng cường quản lý, giám sát các hoạt động khai thác, sử dụng tài
nguyên thiên nhiên. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về bảo vệ môi
trường.
17. Bộ
Xây dựng chủ trì cùng Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất cơ chế,
chính sách để khuyến khích các doanh nghiệp, địa phương xây dựng nhà ở cho công
nhân ở các khu công nghiệp tập trung.
18. Các
Bộ: Giáo dục và Đào tạo, y tế, Khoa học và Công nghệ, Văn hóa - Thông tin, Lao động - Thương binh và Xã
hội, Uỷ ban Thể dục Thể thao chỉ đạo đẩy mạnh xã hội hoá trong các lĩnh vực
thuộc phạm vi quản lý; phân loại, xác định rõ cơ chế cụ thể áp dụng với từng
loại đơn vị dịch vụ công lập: loại tiếp tục được Nhà nước đáp ứng toàn bộ kinh
phí, loại được Nhà nước trợ giúp một phần, loại phải tự bù đắp chi phí, trước
hết là chi phí thường xuyên; từng bước mở rộng loại cơ sở tự bù đắp đầy đủ chi
phí.
19. Các
Bộ nghiên cứu để bổ sung chính sách, mở rộng phạm vi và tạo điều kiện thuận lợi
thu hút đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức để phát triển mạnh các cơ sở
dịch vụ ngoài công lập; quy định chính sách hỗ trợ đối với các cơ sở ngoài công
lập tự nguyện hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận. Một số cơ sở dịch vụ công
lập cũng có thể chuyển thành công ty cổ phần hoặc liên doanh với nước ngoài.
20. Các
Bộ: Công an, Quốc phòng và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng các phương án cụ
thể để thực hiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, gắn nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội với nhiệm vụ củng cố, tăng cường tiềm lực an ninh,
quốc phòng và bảo đảm trật tự an toàn xã hội.
VI. ĐẨY MẠNH CẢI CÁCH HÀNH
CHÍNH, TĂNG CƯỜNG
CÔNG TÁC PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
1. Năm 2005, Thủ trưởng các cơ quan của Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân các cấp phải rà soát lại toàn bộ tổ chức bộ máy, quy trình công tác của cơ
quan; trực tiếp chỉ đạo công tác cải cách hành chính, sắp xếp thu gọn bộ máy,
tinh giảm biên chế; loại bỏ ngay những nội dung, quy trình chồng chéo, phức
tạp, quan liêu, nhũng nhiễu gây khó khăn, mất thời gian của nhân dân.
2. Các Bộ
và Uỷ ban nhân dân các cấp phải hệ thống hoá những quy định về các thủ tục và
giấy tờ cần thiết đối với từng loại công việc, công bố công khai, minh bạch
trên các phương tiện thông tin đại chúng và nơi công sở để làm căn cứ cho nhân
dân thực hiện và giám sát việc thực hiện. Văn phòng Chính phủ trình Thủ tướng
Chính phủ việc lấy ý kiến của dân và doanh nghiệp về quy trình, thủ tục hành
chính. Nghiêm cấm các cơ quan, đơn vị tuỳ tiện đề ra các thủ tục hành chính
ngoài những quy định đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố.
3. Bộ Nội
vụ chỉ đạo các địa phương triển khai thực hiện mô hình "một cửa" ở
tất cả các cấp chính quyền, bảo đảm giải quyết thông suốt các yêu cầu của dân,
mở rộng phân cấp cho cấp huyện, cấp xã giải quyết những thủ tục liên quan trực
tiếp đến công việc hàng ngày của dân.
4. Bộ Nội vụ cùng Bộ Tài chính xây dựng cơ chế kiểm soát thu nhập, thực
hiện việc kê khai tài sản và thu nhập cá nhân đối với cán bộ công chức nhà
nước, đặc biệt là người có chức, có quyền.
5. Các cơ
quan hành chính phải xây dựng văn hoá lãnh đạo và quản lý, văn hoá nơi công sở,
thể hiện trước hết trong trách nhiệm và thái độ ứng xử khi giải quyết công việc
của dân; thực hiện dân chủ trong nội bộ cơ quan và trong quan hệ với dân, gương
mẫu thực hiện nếp sống văn minh trong việc tổ chức đám cưới, đám tang. Đặc biệt chú ý xây dựng và thực hiện tốt quy chế
làm việc của chính quyền cấp cơ sở, trước hết là chế độ giải quyết công việc
của dân. Kết hợp chấn chỉnh hoạt động của bộ máy chính quyền với thực hiện tốt
quy chế dân chủ ở cơ sở.
6. Về giải
quyết khiếu nại tố cáo:
a) Các Bộ,
Uỷ ban nhân dân các cấp phải quán triệt và thực hiện đầy đủ nội dung Nghị quyết
của Quốc hội và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, bảo đảm đến hết năm
2005 giải quyết về cơ bản các vụ khiếu kiện còn tồn đọng, không để phát sinh
các "điểm nóng" về khiếu kiện. Nắm sát tình hình và kịp thời giải
quyết ngay từ cơ sở những vụ việc khiếu tố đông người, làm rõ nguyên nhân, đặc
biệt là những sai sót trong công tác quản lý nhà nước để chấn chỉnh và xử lý
những cán bộ, công chức có quyết định hoặc hành vi trái pháp luật khiến dân
phải khiếu kiện. Tăng cường việc trực tiếp đối thoại để xử lý kịp thời các đề
nghị của dân.
b) Thanh
tra Chính phủ tham khảo ý kiến của các cơ quan liên quan và của các địa phương,
trình Thủ tướng Chính phủ trong quý I năm 2005 các biện pháp xử lý một cách cơ
bản tình trạng khiếu kiện vượt cấp, đặc biệt là các vụ khiếu kiện sau khi đã có
quyết định của cấp cuối cùng (cấp Bộ, tỉnh).
7. Giao Thanh tra Chính phủ:
a) Tổng kết Pháp lệnh Chống tham nhũng, trình Chính phủ trong quý I năm 2005 dự án Luật Chống tham nhũng. Trong quý II năm 2005, báo cáo Thủ tướng Chính phủ để trình Chủ tịch nước phê chuẩn Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng.
b) Trình Chính phủ trong quý II năm 2005 Đề án thành lập Ban Chỉ đạo quốc gia (có đại diện của các Bộ liên quan) hội tụ được sức mạnh của hệ thống chính trị trong phòng ngừa, đấu tranh chống tham nhũng.
8. Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Thanh tra Chính phủ trình Chính phủ trong quý III năm 2005 Quy chế thanh tra (kiểm tra) công vụ để làm cơ sở cho việc triển khai công tác thanh tra (kiểm tra) trong một số lĩnh vực quản lý: nhà, đất, thuế, hải quan, đầu tư xây dựng và một số vụ việc cụ thể đã được cử tri, công luận phản ánh.
9. Các Bộ,
địa phương tổ chức thực hiện nghiêm túc các kết luận của cơ quan thanh tra,
kiểm toán; công khai kết luận của cơ quan thanh tra, kiểm toán và kết quả xử
lý; thủ trưởng cơ quan cấp trên có trách nhiệm xử lý theo quy định của pháp
luật đối với thủ trưởng các cơ quan, đơn vị sai phạm.
10. Lãnh
đạo các Bộ, địa phương phải chỉ đạo việc thực hiện cải cách hành chính ngay từ
cấp cơ sở theo kế hoạch cụ thể, quy định rõ tiến độ, trách nhiệm của người chủ
trì thực hiện, định kỳ báo cáo kết quả thực hiện với cơ quan cấp trên. Bộ Nội
vụ chịu trách nhiệm tổng hợp, báo cáo Chính phủ 6 tháng và hàng năm.
VII. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Căn cứ
vào Chương trình công tác năm 2005 và Nghị quyết này của Chính phủ, các Bộ và
Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng kế hoạch hành động cụ thể của cơ quan, cấp
mình, quy định rõ từng mục tiêu, nhiệm vụ, thời gian và phân công người chịu
trách nhiệm từng phần việc; hàng tháng, hàng quý có kiểm điểm, đánh giá tình hình
thực hiện.
2. Các Bộ,
Uỷ ban nhân dân các cấp cần phát động phong trào thi đua sôi nổi, tổ chức hội
nghị tuyên dương các điển hình tiên tiến để lập thành tích chào mừng các ngày
lễ lớn trong năm 2005, chào mừng Đại hội Thi đua toàn quốc lần thứ VII và Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ X, góp phần thúc đẩy việc hoàn thành kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 - 2005).
3. Chính
phủ tổ chức các hội nghị chuyên đề với địa phương để bàn các công tác cơ bản
lâu dài cũng như để xử lý các vấn đề bức xúc phát sinh trong diện rộng; đồng
thời, duy trì các cuộc giao ban hàng quý kiểm điểm tình hình và đề ra các biện
pháp đẩy mạnh thực hiện kế hoạch và ngân sách nhà nước.
4. Cuối
tháng 11 năm 2005, các Bộ, Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh
lập báo cáo kiểm điểm tình hình thực hiện Nghị quyết này trình Thủ tướng Chính
phủ và gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp kết quả thực
hiện Nghị quyết, đánh giá mức độ hoàn thành của từng Bộ, từng địa phương trình
Chính phủ và báo cáo tại hội nghị cuối năm của Chính phủ với các địa phương.