Quyết định 1972/1999/QĐ-BKHCNMT của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường về việc ban hành Quy trình công nghệ tiêu huỷ thuốc bảo vệ thực vật Clo hưu cơ tồn đọng cấm sử dụng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Quyết định 1972/1999/QĐ-BKHCNMT
Cơ quan ban hành: | Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 1972/1999/QĐ-BKHCNMT | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Quyết định | Người ký: | Chu Tuấn Nhạ |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 10/11/1999 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Tài nguyên-Môi trường |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Quyết định 1972/1999/QĐ-BKHCNMT
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
QUYẾT ĐỊNH
CỦA BỘ
TRƯỞNG BỘ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG
SỐ 1972/1999/QĐ-BKHCNMT NGÀY 10 THÁNG 11 NĂM 1999
VỀ VIỆC BAN HÀNH QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ TIÊU HUỶ THUỐC
BẢO VỆ THỰC VẬT CLO HỮU CƠ TỒN ĐỌNG CẤM SỬ DỤNG
BỘ TRƯỞNG
BỘ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ MÔI TRƯỜNG
Căn cứ Luật bảo vệ môi trường ngày 27 tháng 12 năm
1993;
Căn cứ Nghị định số 22/CP ngày 20 tháng 5 năm 1993
của Chính phủ về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ khoa học, Công
nghệ và Môi trường;
Căn cứ Chỉ thị số 29/1998/CT-TTg ngày 25 tháng 8
năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác quản lý việc sử dụng
thuốc bảo vệ thực vật và các chất hữu cơ gây ô nhiễm khó phân huỷ;
Theo kết luận tại biên bản ngày 17 tháng 12 năm
1998 của Hội đồng khoa học (thành lập theo Quyết định số 2312/QĐ-BKHCNMT của Bộ
trưởng Bộ khoa học, Công nghệ và Môi trường ngày 1 tháng 12 năm 1998) nghiệm
thu đề tài "Nghiên cứu xây dựng quy trình công nghệ xử lý một số chất độc
tồn đọng gây ô nhiễm môi trường";
Để thực hiện việc thu gom, tiêu huỷ các loại hoá
chất độc còn tồn đọng nhằm đảm bảo vệ sinh môi trường;
Xét đề nghị của ông Cục trưởng Cục Môi trường,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này Quy trình công
nghệ tiêu huỷ thuốc bảo vệ thực vật Clo hữu cơ tồn đọng cấm sử dụng;
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày ký.
Điều 3. Cục Trưởng Cục Môi trường có trách nhiệm theo dõi,
kiểm tra việc thực hiện quy trình ban hành kèm theo Quyết định này.
Điều 4. Cục
trưởng Cục Môi trường, Giám đốc các Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường và các
tổ chức, cá nhân thực hiện việc thu gom, tiêu huỷ thuốc bảo vệ thực vật Clo hữu
cơ tồn đọng cấm sử dụng chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Trong quá trình thực
hiện quy trình công nghệ này, nếu phát sinh những khó khăn, vướng mắc, các tổ
chức, cá nhân kịp thời phản ánh về Bộ khoa học, Công nghệ và Môi trường để
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho thích hợp.
QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ TIÊU HUỶ THUỐC BẢO VỆ
THỰC VẬT CLO HỮU CƠ TỒN ĐỌNG CẤM SỬ DỤNG
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1972/1999/QĐ-BKHCNMT
ngày 10 tháng 11 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ khoa học, Công nghệ và Môi trường)
MỞ ĐẦU:
Các thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) Clo hữu cơ đóng một vài trò quan trọng
trong bảo vệ cây trồng. Hầu hết các hợp chất Clo hữu cơ có độc tính cao đối với
thực vật, động vật và con người, đặc biệt là các Clo hữu cơ có khả năng tích
luỹ trong cơ thể sinh vật gây độc cho các sinh vật tiêu thụ các sản phẩm đã
nhiễm các hợp chất Clo hữu cơ.
Thông thường tốc độ loại bỏ các chất độc Clo hữu cơ khỏi cơ thể sinh vật
phụ thuộc vào tốc độ chuyển hoá và bài tiết chúng khỏi cơ thể sinh vật bị nhiễm
Clo hữu cơ. Trong cơ thể sinh vật, chất độc bị chuyển hoá thành các chất ít độc
hơn thông qua việc tạo nên các chất có tính hấp thụ nước hơn và chúng bị đào
thải qua thận. Các chất BVTV Clo hữu cơ
là các chất hấp thụ mỡ, khó tan trong nước nên khi bị hấp thụ vào trong cơ thể
sinh vật thì chúng bị giữ lại khó đào thải ra ngoài. Như vậy chính những sinh
vật này cũng là nguồn gây độc hại cho các sinh vật khác sử dụng nó làm thức ăn.
Trong các thuốc BVTV Clo hữu cơ thì DDT là phổ biến nhất, chính vì vậy mà DDT
bị cấm sử dụng ở trên nhiều nước trên thế giới trong đó có nước ta.
I. QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ THU GOM VÀ
TIÊU HUỶ DDT VÀ G-C6H6CL6
1. Tính chất lý hoá, độc tính của DDT và g-C6H6Cl6
1.1. Tính chất lý hoá của DDT và g-C6H6Cl6
DDT là một thuốc BVTV rất bền vững do nó có khả năng trơ với các phản ứng
quang phân, với oxy trong không khí. Trong môi trường kiềm nó dễ bị
đehydroclorua hoá:
-
HCl
DDT CL - - C - - Cl
CCl2
Nếu điều kiện phản
ứng mạnh như nồng độ kiềm lớn và được đốt nóng sẽ tạo thành anion của axit bis
(Cl-4-Phenyl)-2,2 etanoic:
H
Cl -
- C - - Cl
COO-
hoặc bị polime hoá
thành sản phẩm dạng nhựa có màu:
C6H4Cl Cl
C C
C6H4Cl
Cl n
Đồng phân g-C6H6Cl6 là
một chất rắn, nhiệt độ nóng chảy là 1120C. Hoà tan rất ít trong nước (7,90
mg/lít nước ở 250C), tan tốt trong CHCl3 (24g/100 ml ở 200C). g-C6H6Cl6 có
hai đồng phân cấu dạng có tỷ lệ ngang nhau và vì thế hỗn hợp của chúng không
hoạt động quang học và không thể tách rời ra khỏi nhau. g-C6H6Cl6 có thể bị Clo hoá sâu hơn hay có thể bị
đehydroclorua hoá thành các dẫn xuất của benzen.
Thí dụ: Trong dung
dịch KOH/C2ưH5OH hay NaOH/C2H5OH xảy ra phản ứng đehydroclorua hoá:
Cl Cl Cl
KOH/C2H5OH Cl Cl
g - C6H6Cl6 + +
- 3HCL Cl Cl Cl
Cl
60-80% 4-10% 4-10%
g-C6H6Cl6
dễ bay hơi hơn DDT do đó g-C6H6Cl6 có
độ hoạt động mạnh lúc ban đầu khi mới phun thuốc sau đó tác dụng của nó giảm
đi.
1.2. Độc tính của DDT
và g-C6H6Cl6
DDT và g-C6H6Cl6 là hai loại thuốc trừ sâu có độ bền vững
và độc tính cao.
DDT và g-C6H6Cl6 có
tác dụng lên hệ thần kinh của động vật .
LD50 của g-C6H6Cl6 là
76-200 mg/kg đối với chuột cống trong khi đó LD50 của DDT là 250 - 500 mg/kg.
DDT có tác động rõ
rệt lên hệ thống thần kinh ngoại biên, gây nên sự rối loạn hệ thống thần kinh,
ức chế các enzim chức năng đòi hỏi sự dịch chuyển các ion dẫn đến tê liệt. g-C6H6Cl6 có
khả năng tác dụng lên hệ thần kinh trung ương do làm tê liệt hệ thống enzim cho
nhu cầu chuyển dịch ion trong hệ thống thần kinh.
1.3. Các triệu trứng
ngộ độc cấp tính
Khi bị nhiễm độc cấp
DDT, nạn nhân thường có triệu trứng mất phương hướng, loạng choạng, buồn nôn,
rối loạn hoạt động, đau đầu, nôn mửa, mỏi mệt dần rồi dẫn đến hôn mê, co giật và có thể tử vong. Còn đối với g-C6H6Cl6 nạn
nhân thường buồn nôn, đau đầu, kích động, sốc tim và có cảm giác khó chịu toàn
thân dẫn tới co giật và tử vong.
Khi bị nhiễm độc lâu
dài do thường xuyên tiếp xúc với các loại thuốc này hoặc do xơ xuất bị nhiễm
độc sau một thời gian dài, nạn nhân thường có biểu hiện lâm sàng như sau:
- Với DDT: Sút cân,
biếng ăn, thiếu máu thể nhẹ, run chân tay, yếu cơ bắp, luôn luôn trong tình
trạng lo âu, thần kinh căng thẳng.
- Với g-C6H6Cl6: đau đầu, hoa mắt, chóng mặt, có những cơn
co giật cơ bắp và những cú sốc tim mạch, rối loạn thần kinh: mất ngủ, lo âu, dễ
bị kích động, cáu kỉnh. Mất ý thức, động kinh, rối loạn thần kinh.
1.4. Cách phòng
chống, cấp cứu, điều trị
- Những người tiếp
xúc với thuốc BVTV Clo hữu cơ (thu gom, tiêu huỷ) phải được trang bị phòng hộ
lao động đầy đủ: ủng cao su, găng tay cao su, quần áo bảo hộ lao động, khẩu
trang phòng độc, mặt nạ phòng độc.
- Những người yếu, dễ
mẫn cảm thuốc BVTV Clo hữu cơ, phụ nữ có thai không được tham gia thu gom và
tiêu huỷ thuốc BVTV Clo hữu cơ.
- Những người tham
gia tiêu huỷ thuốc BVTV Clo hữu cơ phải được hưởng mức ăn bồi dưỡng độc hại cao
và được uống sữa thường xuyên trong thời gian tiêu huỷ sau đó một tháng.
- Những người tham
gia tiêu huỷ thuốc BVTV chỉ được làm việc không quá 4 giờ/ngày. Sau khi làm
việc phải tắm rửa bằng nước xà phòng và nước sạch, quần áo phải giặt sạch bằng
xà phòng và phơi khô ngoài nắng gió.
- Cấp cứu, điều trị:
+ Ngăn chặn đường hấp
thụ chất độc vào cơ thể, lột bỏ quần áo, tắm rửa sạch bằng xà phòng, cho uống
sữa, lòng trắng trứng, đưa nạn nhân ra nơi thoáng mát, nhanh chóng đưa nạn nhân
đến bệnh viện hoặc cơ sở y tế gần nhất.
+ Điều trị: Truyền
dịch, trợ tim, nâng thể trạng nạn nhân, rửa dạ dày bằng nước muối hoặc dung
dịch 70% Socbitol, cho thở oxy, uống thuốc giải độc.
2. Các phương pháp
phát hiện và xác định
Thông thường hai hợp
chất Clo hữu cơ DDT và g-C6H6Cl6 đều có mùi rất đặc trưng. Khi nhận thấy
mùi này trong không khí có thể phát hiện ra nơi có chứa các hợp chất này.
Để phân tích xác định
các hợp chất Clo hữu cơ này trước tiên người ta phải dùng phương pháp tách
chiết làm giầu mẫu bằng các dung môi hữu cơ. Sau đó dùng các phương pháp sắc ký
đặc biệt là sắc ký khí, sắc ký lỏng hiệu năng cao HPLC hay sắc ký khí có trang
bị máy khối phổ.
3. Thu gom và tiêu
huỷ
3.1. Thu gom
+ Các chất Clo hữu cơ
như DDT và g-C6H6Cl6
tồn tại ở dạng chất rắn thuận lợi cho việc thu gom. Hiện nay loại này thường
tồn đọng ở các kho, cửa hàng thuốc tại các địa phương, hoặc các kho của các cơ
sở thuộc ngành y tế, nông, lâm nghiệp. Hoặc có thể từ các nguồn hàng nhập lậu
từ nước ngoài vào.
+ Những người tham
gia thu gom phải mang khẩu trang, găng tay cao su, ủng cao su, kính bảo hộ lao
động.
+ Dồn các thuốc DDT
và g-C6H6Cl6
vào các bao nilon bền chắc để đem đến
nơi xử lý. Khi dồn thuốc vào bao lớn nên chọn nơi thoáng, người thu gom phải
đứng phía đầu nguồn gió để tránh hít phải thuốc bay lên. Nếu thuốc rơi vãi ra
ngoài phải dùng xẻng hót lấy cả đất bám để đem tiêu huỷ. Những bao bì sau khi
dồn thuốc cũng phải đưa đến nơi xử lý.
3.2. Tiêu huỷ
3.2.1. Nguyên tắc
tiêu huỷ
Vô cơ hoá hoàn toàn
hợp chất Clo hữu cơ thành các hợp chất vô cơ vô hại như: CO2, H2O và Cl - hoặc dùng vi sinh vật đồng hoá chúng hoặc chuyển
hoá chúng thành các dẫn xuất khác không độc hại sau đó chôn vùi các sản phẩm đó
dưới đất để các vi sinh vật trong tự nhiên đồng hoá chúng.
3.2.2. Các phương
pháp tiêu huỷ
a. Phương pháp phân
huỷ bằng vi sinh vật:
Dùng các loại vi
khuẩn đặc biệt đồng hoá các hợp chất Clo hữu cơ. Phương pháp này có thể đạt
hiệu quả khi hàm lượng DDT thấp hơn 1%. Phương pháp này có nhược điểm là:
- Thời gian cần thiết
cho sự phân huỷ dài.
- Hàm lượng phân huỷ
nhỏ nên rất khó áp dụng đại trà.
- Việc khống chế quá
trình lên men phức tạp.
b. Phương pháp phân
huỷ bằng kiềm đặc nóng:
Phương pháp này bao
gồm việc chuyển hoá các Clo hữu cơ thành các sản phẩm khác, sau đó chôn các sản
phẩm thu được. Khi xử lý DDT với dung dịch NaOH 20% nóng, xảy ra phản ứng
đehydroclorua hoá tạo nên một olefin. Olefin được sinh ra bị polime hoá cho sản
phẩm rắn. Sản phẩm rắn này được tách ra dễ dàng và cho vào bao nilon rồi chôn
vùi dưới đất.
H
C6H4Cl Cl
NaOH 20%
Cl
- C - Cl C C
100oC / ³ 4 giờ
CCl3
C6H4Cl Cl n
(xem phần thực hiện
quy trình)
c. Phương pháp đốt
xúc tác
Đây là phương pháp
vô cơ hoá chuyển Clo hữu cơ thành CO2, H2O và Cl -.
Cu
DDT
CO2 + H2O
+ CuCl2
O2 (không khí)
600-7000C
(Xem phần thực
nghiệm)
3.2.3. Kỹ thuật tiêu
huỷ
v Công tác chuẩn bị
- Chuẩn bị thiết bị
tiêu huỷ theo phương pháp 1 (phân huỷ bằng kiềm nóng) hoặc phương pháp 2 (đốt
có xúc tác). Các thiết bị này được chế tạo theo đơn đặt hàng của các cơ quan
với khoảng 10.000.000đ cho một hệ thống thiết bị 1 và 15.000.000đ cho hệ thống thiết
bị 2. Các chuyên gia kỹ thuật của trường Đại học Tổng hợp hoặc Đại học Bách
khoa có thể đảm nhiệm chế tạo các thiết bị này.
- Chuẩn bị hoá chất:
Xút (NaOH), phoi đồng (Cu).
- Chuẩn bị nguồn nước
cấp liên tục cho quá trình xử lý.
- Chuẩn bị phương án
phòng hộ lao động, sơ cứu người bị nhiễm độc.
- Chuẩn bị hố chôn
lấp sản phẩm sau tiêu huỷ. Hố sâu 4 - 5m, chiều rộng, chiều dài tuỳ thuộc lượng
sản phẩm cần chôn lấp. Hố được xây thành bằng gạch và vữa có xi măng tốt, dày
20 cm, đáy hố được đổ bê tông, nắp hố bằng bê tông.
v Cách tiêu huỷ:
- Thực hiện theo
phương pháp 1 hoặc 2 và phải có sự hướng dẫn vận hành ban đầu của chuyên gia,
sau đó cơ sở tự vận hành thiết bị tiêu huỷ. Địa điểm tiêu huỷ phải xa khu dân
cư, thoáng gió.
- Khi lượng DDT tồn
đọng ít (chừng vài ba chục kg) ở những nơi xa, hẻo lánh, khó vận chuyển thu gom
về một mối thì có thể vận dụng cách tiêu huỷ đơn giản: Trộn đều DDT với xút hạt
(NaOH) theo tỷ lệ khối lượng xút: DDT = 1:5 rồi cho vào nilon dày buộc chặt,
chôn sâu cách mặt đất 2-3 mét ở nơi xa dân cư, xa nguồn nước sinh hoạt. Dưới
tác dụng nóng ẩm của môi trường lâu dài DDT chuyển hoá thành sản phẩm khác ít
độc theo cơ chế của phương pháp1.
3.3. Xử lý bao bì DDT
Tất cả các bao bì
chứa DDT sau khi đã thu hết DDT để tiêu huỷ phải được xử lý bằng chôn lấp sâu
trong lòng đất xa khu dân cư và nguồn nước sinh hoạt. Tuyệt đối không sử dụng
lại bao bì loại này.
4. Đánh giá ô nhiễm
môi trường khu vực sau khi tiêu huỷ
Cần phải thu thập một
số mẫu tại khu vực sau tiêu huỷ bao gồm:
- Mẫu đất quanh khu
vực xử lý: 5 mẫu.
- Mẫu lá cây quanh
khu vực xử lý: 5 mẫu.
Các mẫu được đóng
gói, ghi nhãn đầy đủ và được đưa về phòng thí nghiệm kiểm tra.
v Phương pháp phân tích:
Chiết tách DDT trong
mẫu vật bằng chiết sốc lếch với dung môi là benzen. Sau đó chuyển dịch chiết
cho phân tích sắc khí lớp mỏng và sắc ký khí để đánh giá kết quả ô nhiễm DDT
tại khu vực tiêu huỷ.
II. THỰC NGHIỆM QUY TRÌNH
1. Phương pháp phân huỷ bằng kiềm nóng có xúc tác
Phương pháp phân huỷ này có sử dụng dung dịch kiềm nồng
độ 20% trong nước và tiến hành trên thiết bị như hình vẽ.
Sau khi cho DDT vào
bình phân huỷ với tỷ lệ DDT: kiềm là 1:2 theo trọng lượng DDT và dung dịch xút
20%. Lắp sinh hàn ngược và bắt đầu đun nhẹ, thả vài viên xúc tác kim loại vào
bình phản ứng và đun tiếp trong vòng từ 2 - 4 giờ.
Để nguội và lấy mẫu
phân huỷ ra phân tích.
Kết quả cho thấy thuỷ
phân sau 2 giờ, lượng DDT vẫn còn nhưng đã bị phân huỷ khá nhiều.
Thuỷ phân sau 4 giờ,
kết quả phân huỷ khá tốt, sản phẩm chỉ còn vết DDT và một chất polime nhẹ,
không tan trong benzen, nước hoặc dung dịch kiềm. Đặc biệt rất xốp khi rửa bằng
axit.
Phương pháp phân huỷ
bằng kiềm này có xúc tác kết hợp với chôn lấp sản phẩm trong lòng đất là biện
pháp khá phù hợp để tiêu huỷ DDT tồn đọng. Thiết bị tiêu huỷ có thể làm bằng
tôn đen (sắt) và nhiên liệu đốt bằng than.
2. Phương pháp đốt
xúc tác
Lý thuyết đã chứng
minh một cách chắc chắn rằng các Clo hữu cơ nếu tiếp xúc với kim loại đồng nung
đỏ đều bị đồng lấy mất clo (tạo thành CuCl2) và chúng bị phân huỷ tiếp theo
thành CO2 và nước cùng với các dẫn xuất khác không độc, ít độc. Thí nghiệm phân
huỷ DDT được thực hiện theo sơ đồ sau:
Sản phẩm thu được ở
bình hứng qua phân tích quang phổ hồng ngoại thấy chỉ còn nhóm - CH2 và - CH3;
Phân tích các chất bám vào phoi đồng xúc tác thấy chỉ có CuCl2 và CuO. Chứng tỏ
DDT đã bị phân huỷ hết. Phương pháp tiêu huỷ này khá triệt để, song thiết bị
đòi hỏi phức tạp hơn phương pháp thuỷ phân bằng kiềm nóng.