Nghị quyết về một số vấn đề cải tiến quản lý công nghiệp quốc doanh
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Nghị quyết 156-HĐBT
Cơ quan ban hành: | Hội đồng Bộ trưởng | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 156-HĐBT | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Tố Hữu |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 30/11/1984 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Nghị quyết 156-HĐBT
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 156-HĐBT NGÀY 30-11-1984
VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẢI TIẾN QUẢN LÝ CÔNG NGHIỆP QUỐC DOANH
Để thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá V), Hội Đồng Bộ trưởng quyết định về một số vấn đề cải tiến quản lý công nghiệp quốc doanh như sau:
Việc sắp xếp lại công nghiệp phải bảo đảm sự phát triển theo quy hoạch và kế hoạch Nhà nước và nhằm xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý; phát huy thế mạnh của các ngành, các vùng, các địa phương, nhất là các khu công nghiệp tập trung; kết hợp chặt chẽ giữa các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo; tập trung được mọi khả năng vào việc thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch Nhà nước, tạo nên thế cân đối tích cực và chủ động; lập lại trật tự xã hội chủ nghĩa trong sản xuất - kinh doanh; tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận dụng cơ chế quản lý mới để đạt được hiệu quả kinh tế cao.
Phải xuất phát từ tình hình kinh tế chung và tình hình công nghiệp, từ đường lối kinh tế của Đảng và Nhà nước mà sắp xếp lại theo từng ngành kinh tế - kỹ thuật xuyên suốt trong cả nước, bao gồm các xí nghiệp trung ương và địa phương, các cơ sở thuộc các thành phần kinh tế; kết hợp chặt chẽ ngành với vùng lãnh thổ và địa phương. Sự sắp xếp lại bao gồm các mặt sắp xếp lại sản phẩm, điều chỉnh mặt hàng để đáp ứng nhu cầu kinh tế - xã hội, sắp xếp lại cơ sở sản xuất, sắp xếp lại công nghệ và thiết bị, chú ý đồng bộ hoá dây chuyền sản xuất, sắp xếp lại lực lượng lao động, sắp xếp lại các thành phần kinh tế trong công nghiệp kết hợp với cải tạo xã hội chủ nghĩa trong sản xuất và lưu thông để bảo đảm vai trò lãnh đạo của kinh tế quốc doanh.
Trên cơ sở sắp xếp lại sản xuất, để tận dụng năng lực hiện có và những năng lực mới bổ sung một cách có hiệu quả, thực hành tiết kiệm triệt để (trước hết là tiết kiệm điện, xăng dầu, than, nguyên liệu...), ngay từ đầu năm 1985, kế hoạch Nhà nước phải tập trung các điều kiện sản xuất chủ yếu cho các sản phẩm trọng yếu phục vụ sản xuất, xuất khẩu, đời sống, quốc phòng, các sản phẩm tạo ra nguồn thu quan trọng cho ngân sách; phải dành ưu tiên cho các xí nghiệp quốc doanh sản xuất các sản phẩm đó, trước hết là các xí nghiệp có sản lượng lớn và có hiệu quả kinh tế cao. Hội đồng Bộ trưởng quyết định danh mục sản phẩm trọng yếu và các xí nghiệp được ưu tiên trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân; các Bộ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố xác định các sản phẩm trọng yếu và các xí nghiệp được ưu tiên trong phạm vi ngành, địa phương theo khả năng cân đối của mình.
Đối với các xí nghiệp không thuộc diện ưu tiên, Bộ chủ quản, Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ phát huy tinh thần chủ động sáng tạo, tăng cường quan hệ hợp tác, mở rộng liên kết liên doanh để tìm thêm nguồn nguyên liệu, vật liệu, phụ tùng và thị trường tiêu thụ sản phẩm nhằm tận dụng có hiệu quả năng lực sản xuất hiện có và tiến lên phát triển sản xuất khi có điều kiện. Tận dụng năng lực thiết bị hiện có để sản xuất những mặt hàng mới mà xã hội có nhu cầu bằng những nguồn nguyên liệu, vật liệu mới.
Những cơ sở mà trước mắt cũng như lâu dài chưa có điều kiện sản xuất, những cơ sở lỗ kéo dài mà không thuộc diện chính sách phải duy trì sản xuất thì tích cực chuyển sang những ngành sản xuất có điều kiện và có hiệu quả, kiên quyết giải thể những cơ sở vừa qua phát triển tự phát, không có hiệu quả kinh tế và gây tác hại về kinh tế.
Tập trung chỉ đạo để sắp xếp xong trong năm 1985 các ngành chủ yếu, các địa bàn trọng điểm (Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phú, Bắc Thái, Quảng Nam - Đà Nẵng, Đồng Nai).
Muốn vậy, trên cơ sở xác định đúng đắn phương hướng sản xuất, cơ cấu mặt hàng, phương án sản phẩm, các cơ sở sản xuất phải chủ động tổ chức lại sản xuất một cách thích ứng để bảo đảm hoạt động có hiệu quả.
Tuỳ theo yêu cầu của việc kết hợp các khâu sản xuất và chế biến nguyên liệu, kết hợp các quá trình công nghệ để tạo ra thành phẩm, sử dụng tổng hợp nguyên liệu, có thể tổ chức các xí nghiệp độc lập hoặc các xí nghiệp liên hợp. Trong điều kiện nước ta hiện nay, cùng với việc củng cố các xí nghiệp độc lập đang là hình thức chủ yếu, cần chú ý mở rộng việc tổ chức các xí nghiệp liên hợp nếu có đủ các căn cứ kinh tế - kỹ thuật và nếu xét có hiệu quả kinh tế rõ rệt, nhất là các xí nghiệp liên hợp công - nông nghiệp, công - lâm nghiệp, công - ngư nghiệp...
Tổ chức thí điểm những liên hiệp khoa học - sản xuất ở những nơi có điều kiện.
Thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của Bộ chủ quản được quy định trong Nghị định số 35-CP ngày 9 tháng 2 năm 1981 và chức năng của liên hiệp các xí nghiệp, của xí nghiệp như quy định trong điều lệ liên hiệp các xí nghiệp, điều lệ xí nghiệp; tôn trọng và phát huy đầy đủ quyền tự chủ tài chính và tính chủ động sáng tạo của xí nghiệp và xí nghiệp liên hợp. Các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước (Bộ, Uỷ ban Nhân dân tỉnh) làm đúng chức năng quản lý Nhà nước của mình, không can thiệp vào công việc điều hành sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp.
Các Bộ quản lý căn cứ vào tinh thần nói trên để củng cố các liên hiệp xí nghiệp hiện có, lập các liên hiệp xí nghiệp mới xét thấy cần thiết, kiên quyết xoá bỏ những liên hiệp các xí nghiệp không đúng yêu cầu và chỉ hoạt động một cách hình thức, không có hiệu quả thiết thực.
Về quy mô của liên hiệp các xí nghiệp, trong điều kiện hiện nay, chủ yếu là tổ chức liên hiệp các xí nghiệp khu vực. Chỉ xây dựng các liên hiệp các xí nghiệp quy mô cả nước nếu có yêu cầu thiết thực và có đủ điều kiện. ở những tỉnh, thành phố tập trung công nghiệp có nhiều cơ sở sản xuất cùng ngành, có thể thành lập những liên hiệp các xí nghiệp quy mô tỉnh, thành phố của địa phương.
Các hoạt động liên kết, liên doanh đều phải được ghi trong kế hoạch của các bên tham gia, và phải đưa vào hợp đồng kinh tế. Hợp đồng đó phải được gửi đến trọng tài kinh tế theo sự phân công, phân cấp trong lĩnh vực này.
Kế hoạch của xí nghiệp phải được cân đối cả về hiện vật và giá trị, hai mặt kết hợp và thống nhất với nhau. Cùng với việc thông qua kế hoạch chính thức hàng năm cần có dự kiến kế hoạch của năm sau để bảo đảm sản xuất liên tục. Nhà nước tập trung cân đối những điều kiện vật chất chủ yếu (năng lượng, nguyên liệu, vật liệu, phụ tùng, vận tải, dịch vụ...) cho các sản phẩm trọng yếu và những xí nghiệp được ưu tiên. Nhà nước giao các chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh cho xí nghiệp trên cơ sở cân đối các điều kiện vật chất chủ yếu cụ thể đối với từng ngành sản xuất, bao gồm cả những điều kiện vật chất do trung ương hoặc địa phương cung ứng, hoặc do các xí nghiệp tự tạo một cách ổn định để đưa vào cân đối kế hoạch.
Bằng các chính sách và đòn bẩy kinh tế như giá cả, lợi nhuận, tín dụng, tiêu thụ sản phẩm, xuất nhập khẩu (quy định cụ thể ở phần chính sách kinh tế - tài chính). Nhà nước khuyến khích xí nghiệp khai thác các nguồn khả năng khác (của bản thân, tự liên kết, liên doanh với các tổ chức kinh tế khác, làm hàng xuất khẩu để nhập khẩu, vay vốn của ngân hàng, kể cả vay vốn ngoại tệ...) nhằm bổ sung cho nguồn vật tư của Nhà nước chưa cân đối đủ, đăng ký kế hoạch cao hơn con số hướng dẫn Nhà nước đưa xuống và thành chỉ tiêu kế hoạch pháp lệnh. Ngoài ra, xí nghiệp có thể tìm kiếm và khai thác những nguồn khả năng mới để sản xuất thêm sản phẩm ngoài chỉ tiêu pháp lệnh (kể cả sản phẩm chủ yếu và sản phẩm của sản xuất phụ).
b. Trình tự xây dựng kế hoạch.
- Phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu kế hoạch của xí nghiệp năm tới (về hiện vật và về tài chính).
- Những số hướng dẫn về khả năng cung ứng vật tư, năng lượng dịch vụ và về tiêu thụ sản phẩm; các thông tin về tiêu chuẩn và định mức kinh tế - kỹ thuật.
- Các thông tin về thị trường trong nước và ngoài nước, về giá cả.
- Những tổ chức kinh tế có trách nhiệm cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm.
Xí nghiệp căn cứ vào các yêu cầu và con số hướng dẫn của cấp trên, vào nhu cầu thị trường, khả năng tiêu thụ và các nguồn vật tư mà chủ động liên hệ với các đơn vị kinh tế khác bàn bạc và ký các hợp đồng kinh tế làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch.
Trường hợp vì lý do khách quan, sau khi đã tìm mọi biện pháp khắc phục mà vẫn không có khả năng thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh, thì xí nghiệp báo cáo lên cơ quan quản lý cấp trên để xin điều chỉnh vào đầu quý III của năm kế hoạch.
Sau khi đã giao kế hoạch, nếu cơ quan giao kế hoạch muốn thay đổi kế hoạch thì phải bàn với xí nghiệp và phải bảo đảm điều kiện vật chất cần thiết cho việc thực hiện.
c. Hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh gồm có:


Các chỉ tiêu pháp lệnh trên áp dụng cho các loại sản phẩm chủ yếu sản xuất bằng vật tư do Nhà nước cung ứng và do xí nghiệp tự kiếm được đăng ký trong kế hoạch. Đối với các sản phẩm khác các chỉ tiêu kể trên là những chỉ tiêu hướng dẫn; các xí nghiệp phải thực hiện những quy chế của Nhà nước về tiêu thụ sản phẩm và làm nghĩa vụ đóng góp với Nhà nước.
Ngoài ra, cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp giao thêm cho xí nghiệp những chỉ tiêu hướng dẫn như ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, mức giảm tiêu hao vật tư của các sản phẩm chủ yếu, mức tăng năng suất lao động, v.v... nhằm nâng cao hiêu quả sản xuất - kinh doanh của xí nghiệp.
d. Bảo vệ và nhận kế hoạch
Khi bảo vệ kế hoạch, xí nghiệp phải trình bày rõ các căn cứ kinh tế - kỹ thuật, các nguồn vốn, các hợp đồng kinh tế về cung ứng vật tư, dịch vụ và tiêu thụ sản phẩm.
e. Xét duyệt hoàn thành và quyết toán kế hoạch.
Việc xét duyệt phải có nội dung thiết thực, tránh hình thức, phiền hà và lãng phí cho xí nghiệp.
Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương nghiên cứu trình Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng quy định chế độ trách nhiệm của các cơ quan chức năng như kế hoạch, tài chính, giá cả.... đối với kết quả thực hiện kế hoạch của xí nghiệp.
Hạch toán kinh tế đang là một khâu rất yếu, mang tính chất hình thức, không phản ảnh đúng hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Để kết hợp kế hoạch với hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, yêu cầu cấp bách là phải củng cố và tăng cường hạch toán kinh tế ở xí nghiệp theo các nguyên tắc:
- Bảo đảm quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của xí nghiệp dưới sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Nhà nước. - Lấy thu nhập của xí nghiệp để bù đắp chi phí sản xuất và bảo đảm có lãi.
- Xí nghiệp được khuyến khích bằng lợi ích vật chất và phải chịu trách nhiệm vật chất về kết quả hoạt động của mình.
- Thực hiện việc giám đốc bằng đồng tiền đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh xí nghiệp.
Trước mắt, phải từng bước hạch toán đủ các chi phí sản xuất cần thiết vào giá thành, thúc đẩy việc phấn đấu tăng năng suất, nâng cao chất lượng và hiệu quả, đồng thời đấu tranh khắc phục những hiện tượng tiêu cực, buông lỏng quản lý, vô trách nhiệm, bảo đảm xí nghiệp kinh doanh có lãi.
1. Bộ Tài chính có trách nhiệm thể chế hoá quyền tự chủ tài chính của xí nghiệp, xác định quyền hạn và trách nhiệm vật chất của xí nghiệp. Trên cơ sở đó, xí nghiệp xác định quyền hạn và trách nhiệm vật chất của phân xưởng, tổ, đội sản xuất, các đơn vị tổ chức và mỗi người lao động trong xí nghiệp.
Trong năm 1984 - 1985, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước, Bộ Lao động, các Bộ quản lý ngành, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố, các đơn vị cơ sở soát lại các định mức hiện hành, tiến hành những bổ sung, sửa đổi cần thiết, xác định những định mức trung bình - tiên tiến cho từng ngành hoặc nhóm xí nghiệp dùng làm căn cứ để xây dựng kế hoạch, cung ứng vật tư, hạch toán và đánh giá hiệu quả sản xuất - kinh doanh của cơ sở.
Uỷ ban kế hoạch Nhà nước chủ trì cùng Bộ Tài chính và Uỷ ban Vật giá Nhà nước trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành chế độ giá thành trong tháng 12 năm 1984.
Năm 1985, tất cả các xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh đều phải tính giá thành kế hoạch theo các định mức kinh tế - kỹ thuật đã ban hành, theo các chế độ tài chính, giá cả của Nhà nước và phải hạch toán nghiêm túc giá thành thực tế. Khi xét duyệt hoàn thành kế hoạch, phải phân tích, xem xét và xử lý thoả đáng những khoản chênh lệch phát sinh giữa giá thành kế hoạch và giá thành thực tế, loại trừ các chi phí không hợp lý, không hợp lệ như chi phí tăng do vượt định mức kinh tế - kỹ thuật vì nguyên nhân chủ quan, do tự tiện nâng giá sai giá chỉ đạo của Nhà nước, các khoản tiền phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế, các khoản chi không đúng chế độ...
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước phối hợp với Uỷ ban Vật giá Nhà nước và Bộ Tài chính có trách nhiệm hướng dẫn các xí nghiệp từng bước tính đủ vào giá thành các chi phí tiền lương, khấu hao cơ bản và giá trị vật tư nhập khẩu, đồng thời nghiên cứu các biện pháp xử lý những nhân tố làm tăng giá thành. Trong khi chờ đợi các chính sách, chế độ mới, Hội đồng Bộ trưởng quy định tạm thời như sau:
- Vật tư do xí nghiệp tự kiếm (kể cả vật tư nhập khẩu) được hạch toán vào giá thành sản phẩm theo giá thực mua trong khung giá do cơ quan có thẩm quyền theo Điều lệ quản lý giá quy định.
Trước mắt, thực hiện ngay các việc sau đây:
- Tăng tỷ lệ khấu hao sửa chữa lớn cho phù hợp với giá vật tư, phụ tùng và chi phí sửa chữa tài sản cố định.
- Đối với những cơ sở sản xuất và đối với những sản phẩm có thể điều chỉnh giá bán buôn xí nghiệp cho phù hợp với mức tăng giá thành mà không ảnh hưởng nhiều đến giá bán buôn công nghiệp hay giá bán buôn vật tư thì tính đủ khấu hao cơ bản cần thiết theo đúng giá trị của tài sản cố định và thời gian khấu hao hợp lý hơn.
- Tài sản cố định đã khấu hao hết nhưng vẫn còn tham gia sản xuất thì vẫn tính khấu hao cơ bản vào giá thành sản phẩm; xí nghiệp được đưa tiền khấu hao này vào quỹ khuyến khích phát triển sản xuất của xí nghiệp, không phải nộp vào ngân sách.
- Tài sản cố định chưa khấu hao hết mà đã bị hư hỏng không tham gia sản xuất thì xí nghiệp vẫn phải trích khấu hao nhưng không được tính vào giá thành mà lấy từ lợi nhuận của xí nghiệp.
- ở phân xưởng, bao gồm hạch toán sản xuất, vật tư, thiết bị máy móc, lao động, tiền lương và kết quả thực hành tiết kiệm.
- ở tổ, đội sản xuất, bao gồm hạch toán sản xuất, vật tư, lao động, tiền lương.
- Đối với nhóm và từng người lao động, bao gồm hạch toán theo kết quả thực hiện các định mức, khoán sản phẩm hay khoán việc.
Tổng cục Thống kê và Bộ Tài chính trình Hội đồng Bộ trưởng thông qua vào cuối năm 1984 những sửa đổi về chế độ kế toán và thống kê công nghiệp phù hợp với cơ chế quản lý mới; sửa lại các mẫu biểu sao cho đầy đủ nhưng phải thiết thực và đơn giản
6. Thực hiện thường xuyên việc phân tích hoạt động kinh tế ở xí nghiệp, phân xưởng, tổ đội sản xuất, đối chiếu với các chỉ tiêu kế hoạch, các định mức kinh tế - kỹ thuật, các chế độ thể lệ quản lý kinh tế - tài chính; chú ý cả ba mặt năng suất, chất lượng, hiệu quả.
Bộ Tài chính sửa đổi một số chế độ để tạo điều kiện cho xí nghiệp thực hiện được đầy đủ quyền tự chủ tài chính, cụ thể là:
- Vốn do ngân sách cấp theo chế độ hiện hành, gồm vốn cố định và vốn lưu động.
- Quỹ khuyến khích phát triển sản xuất.
- Nguồn vốn ngoại tệ được quyền sử dụng.
- Các nguồn thu khác do chế độ Nhà nước quy định.
Vốn tự có năm trước được chuyển sang năm sau, không phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản các công trình lớn, các công trình đặc biệt thì do ngân sách Nhà nước cấp phát. Các công trình xây dựng nhỏ, đầu tư chiều sâu thì xí nghiệp đầu tư bằng nguồn vốn tự có của mình, nếu thiếu thì vay ngân hàng.
- Chế độ thu lợi nhuận và trích lập quỹ xí nghiệp.
2. Tín dụng
Ngân hàng phải định lại mức tiền mặt tồn quỹ hợp lý, quy định lại chế độ cho vay và rút tiền mặt, đáp ứng kịp thời yêu cầu của xí nghiệp để mở rộng sản xuất kinh doanh theo cơ chế quản lý mới. Giữa xí nghiệp và ngân hàng phải có kế hoạch và hợp đồng về nộp và rút tiền mặt để bảo đảm sản xuất, kinh doanh, nhất là để thu mua các loại nguyên liệu có tính chất thời vụ. Xí nghiệp phải thực hiện đúng chế độ nộp tiền mặt, không được vi phạm chế độ quản lý tiền mặt của Nhà nước; Ngân hàng phải đáp ứng kịp thời những nhu cầu chính đáng về tiền mặt của xí nghiệp, không được cửa quyền, gây phiền hà cho xí nghiệp.
Cải tiến nghiệp vụ tín dụng, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho xí nghiệp khi vay vốn, vừa bảo đảm quản lý việc sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả.
Ngân hàng Nhà nước cho vay ngoại tệ đối với các xí nghiệp có điều kiện trả được nợ để nhập vật tư, nguyên liệu, nhiên liệu, phụ tùng, máy móc, thiết bị cho việc mở rộng sản xuất và cải tiến kỹ thuật, sản xuất sản phẩm xuất khẩu, sản xuất các mặt hàng thay thế hàng nhập khẩu; xí nghiệp phải trả nợ cả vốn lẫn lãi bằng ngoại tệ cho ngân hàng.
Các xí nghiệp được Hội đồng Bộ trưởng cho phép, bảo đảm trả nợ đúng hạn và có lãi bằng ngoại tệ, được trực tiếp vay vốn của nước ngoài với sự bảo lĩnh của Ngân hàng Nhà nước để nhập vật tư, thiết bị cho phát triển sản xuất, được lập quỹ ngoại tệ tại Ngân hàng Nhà nước, được sử dụng quỹ này theo đúng thể lệ Nhà nước về quản lý ngoại hối.
Ngân hàng Nhà nước phát huy vai trò trung tâm thanh toán để thúc đẩy tăng nhanh luân chuyển vốn trong nền kinh tế quốc dân, góp phần giải quyết tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, công nợ dây dưa giữa các đơn vị kinh tế. Trường hợp để quá thời hạn, ngân hàng sẽ thông báo cho xí nghiệp chiếm dụng vốn biết và được quyền khấu trừ vào nguồn vốn tự có của xí nghiệp đó để chuyển trả cho xí nghiệp bị chiếm dụng vốn.
3. Giá cả
Giá bán buôn xí nghiệp được quy định trên cơ sở giá thành hợp lý cộng với lãi định mức được quy định tại điểm 4.
Giá thành làm căn cứ xác định giá bán buôn xí nghiệp được tính toán theo định mức trung bình - tiên tiến về tiêu hao vật chất và hao phí lao động do cấp có thẩm quyền xét duyệt được quy định phân biệt theo:
- Điều kiện sản xuất của từng xí nghiệp hoặc nhóm xí nghiệp có trình độ sản xuất tương tự nhau.
- Vật tư dùng vào sản xuất được Nhà nước cung ứng hay xí nghiệp tự kiếm bổ sung.
- Những sản phẩm khác thì theo giá linh hoạt trong khung giá hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền và được quy định theo sự phân công, phân cấp quản lý giá của Nhà nước.
Các xí nghiệp sản xuất giao sản phẩm cho liên hiệp các xí nghiệp cung ứng, tổng công ty và công ty thương nghiệp quốc doanh... được thanh toán theo giá bán buôn xí nghiệp. Chênh lệch giữa giá bán buôn xí nghiệp và giá bán buôn công nghiệp là khoản thu quốc doanh được nộp ngay và đủ vào ngân sách Nhà nước khi sản phẩm được chuyển từ khâu sản xuất sang khâu lưu thông. Xí nghiệp có nhiệm vụ thu và nộp thay cho tổ chức tiêu thụ khoản chênh lệch giá này vào Ngân sách Nhà nước khi giao sản phẩm cho các tổ chức tiêu thụ. Nếu giá tiêu thụ sản phẩm do Nhà nước quy định thấp hơn giá bán buôn Xí nghiệp đã được duyệt thì Ngân sách Nhà nước bù lỗ cho khâu lưu thông. Trường hợp xí nghiệp bán trực tiếp cho hộ tiêu dùng phải thực hiện theo giá và chế độ thu quốc doanh do Nhà nước quy định, Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể về tài khoản và thủ tục kế toán.
Đối với các khoản thu chênh lệch giá khác (nếu có), Bộ Tài chính và Uỷ ban Vật giá Nhà nước sẽ quy định cụ thể phần nộp vào Ngân sách Nhà nước và phần dành cho xí nghiệp.
Các xí nghiệp phải lập phương án giá và làm đúng những thủ tục trình xin duyệt theo Điều lệ quản lý giá. Các cơ quan vật giá phải duyệt giá kịp thời cho các xí nghiệp chậm nhất là 30 ngày, nếu là sản phẩm và nguyên liệu thời vụ thì 15 ngày, kể từ khi nhận được phương án giá đúng thể thức và nội dung quy định. Quá hạn đó, xí nghiệp được quyền mua bán theo giá đã đề nghị trong phương án.
Các xí nghiệp phải chấp hành đúng Điều lệ quản lý giá của Nhà nước.
- Từ 13 đến 18% cho các ngành khai thác lâm sản, hải sản; khai thác đá, cát, sỏi; luyện kim; cơ khí chế tạo.
- Từ 10 đến 15% cho các ngành hoá chất cơ bản, phân bón hoá học; thuốc trừ sâu; vật liệu xây dựng loại nung; sành sứ, thuỷ tinh; hoá dược.
- Từ 7 đến 12% cho các ngành điện lực; giấy; da; may; in sách báo.
- Từ 5 đến 10% cho các ngành hoá chất tiêu dùng; dệt, nhuộm; công nghiệp thực phẩm; văn hoá phẩm; các ngành công nghiệp khác.
Bộ Tài chính chủ trì cùng với Uỷ ban Vật giá Nhà nước và các ngành có liên quan quy định tỉ lệ cụ thể cho từng ngành và cho từng sản phẩm trong mỗi ngành, hướng dẫn các Bộ và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định tỷ lệ lợi nhuận định mức cho các sản phẩm khác theo sự phân cấp quản lý giá của Nhà nước.
Lợi nhuận định mức của sản phẩm sản xuất bằng vật tư do xí nghiệp tự kiếm có đăng ký trong kế hoạch được xác định bằng lợi nhuận định mức theo số tiền tuyệt đối của sản phẩm cùng loại do Nhà nước cung ứng vật tư.
- Đối với những sản phẩm trong chỉ tiêu pháp lệnh:
Nếu là sản phẩm do Nhà nước cung ứng vật tư thì để lại xí nghiệp 50% và nộp ngân sách (bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương) 50%.
Nếu do xí nghiệp tự kiếm vật tư thì để lại xí nghiệp từ 60% đến 80% và nộp ngân sách (bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương) từ 20% đến 40%. Bộ Tài chính cùng với Bộ chủ quản quy định mức cụ thể cho từng ngành công nghiệp và tuỳ theo đăng ký từ đầu năm hay bổ sung trong quá trình thực hiện kế hoạch...
- Đối với những sản phẩm ngoài chỉ tiêu pháp lệnh thì sau khi nộp thuế và thu quốc doanh, lợi nhuận thu được dùng để lập ba quỹ của xí nghiệp.
Lợi nhuận để lại xí nghiệp sau khi thanh toán các khoản nộp bắt buộc như phạt vi phạm hợp đồng kinh tế, phạt nợ ngân hàng quá hạn, chi trả các khoản bất hợp lý, bất hợp lệ không được hạch toán vào giá thành..., số còn lại (coi như 100%) được phân phối cho các quỹ theo tỷ lệ sau đây:
Trích cho quỹ khuyến khích phát triển sản xuất và bổ sung vốn lưu động định mức tối thiểu từ 35% đến 40% tuỳ theo ngành sản xuất và không hạn chế mức tối đa; trong đó dành từ 1 đến 3% để lập quỹ dự trữ tập trung ở Liên hiệp các xí nghiệp hoặc Bộ, Sở.
Số còn lại, sau khi đã dành 1% để lập quỹ Bộ trưởng (và Tổng giám đốc liên hiệp các xí nghiệp, Tổng công ty nếu có) là để lập quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng. Giám đốc xí nghiệp cùng với công đoàn quyết định tỷ lệ trích cho mỗi quỹ theo hướng khoảng 1/3 cho quỹ phúc lợi và khoảng 2/3 cho quỹ khen thưởng.
Nếu quỹ khen thưởng vượt quá 30% của quỹ lương cơ bản thì xí nghiệp phải nộp một tỷ lệ phần trăm theo luỹ tiến từng phần vào Ngân sách Nhà nước, theo quy định cụ thể của Bộ Tài chính.
Toàn bộ quỹ phúc lợi để lại cho xí nghiệp do công đoàn cơ sở cùng với giám đốc lập phương án sử dụng, đưa ra Hội nghị công nhân viên chức thảo luận và quyết định, Tổng công đoàn và Bộ Tài chính hướng dẫn việc sử dụng quỹ phúc lợi của xí nghiệp.
Chế độ phân phối lợi nhuận trên đây áp dụng cho các xí nghiệp đã thực hiện chế độ giá bán buôn xí nghiệp. Đối với những xí nghiệp chưa thực hiện giá bán buôn xí nghiệp như đã quy định ở trên (điểm 3 - giá cả) thì xí nghiệp chỉ được trích quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi tối đa từ 10 đến 15% quỹ lương cơ bản, quỹ khuyến khích phát triển sản xuất theo sự quy định của Bộ Tài chính; phần lợi nhuận còn lại, sau khi đã trừ các khoản nộp bắt buộc không được hạch toán vào giá thành, phải nộp cả vào ngân sách.
Mở rộng chế độ khoán sản phẩm trong công nghiệp. Trên cơ sở kế hoạch của xí nghiệp được cơ quan quản lý cấp trên duyệt, xí nghiệp khoán cho phân xưởng (phòng, ban), phân xưởng khoán cho tổ, đội sản xuất. Hình thức khoán cho tập thể tổ, đội là hình thức cơ bản, tuỳ tình hình cụ thể, tổ, đội khoán cho từng cá nhân.
Về định mức lao động. Soát lại các định mức hiện có và xây dựng các định mức còn thiếu, trước hết là đối với các sản phẩm trọng yếu; căn cứ vào định mức trung bình - tiên tiến, cần điều chỉnh, bổ sung và xây dựng lại cho phù hợp với điều kiện sản xuất thực tế hiện nay, bảo đảm mọi sản phẩm đều có định mức lao động được cấp có thẩm quyền duyệt.
Đơn giá tiền lương cho một đơn vị sản phẩm hoặc mức chi phí tiền lương cho 1000 đồng giá trị sản lượng hàng hoá được xây dựng trên cơ sở định mức lao động và tiêu chuẩn chất lượng được quản lý chặt chẽ, và theo chính sách tiền lương bảo đảm tái sản xuất sức lao động.
Bộ Lao động cùng với Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước xét duyệt định mức lao động và đơn giá tiền lương cho một đơn vị sản phẩm trong danh mục sản phẩm trọng yếu.
Quỹ lương kế hoạch của xí nghiệp được xây dựng trên cơ sở đơn giá tiền lương cho một đơn vị sản phẩm (hoặc mức chi phí tiền lương cho 1000 đồng giá trị sản lượng hàng hoá) và chỉ tiêu kế hoạch giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện và sản phẩm giao nộp.
Hàng tháng xí nghiệp được ứng lương theo quỹ lương kế hoạch; hàng quý thanh toán quỹ lương; cuối năm xí nghiệp quyết toán quỹ lương theo giá trị sản lượng hàng hoá thực hiện và sản phẩm giao nộp (có tính đến chênh lệch cuối kỳ và đầu kỳ của sản phẩm tồn kho và bán thành phẩm đối với sản phẩm có chu kỳ sản xuất dài) để tăng, giảm quỹ lương. Trường hợp hoàn thành vượt mức kế hoạch thì xí nghiệp được nhận thêm tiền lương tương ứng; nếu không hoàn thành kế hoạch thì bị giảm quỹ lương tương ứng; khi xét giảm quỹ lương phải xem xét kỹ các nguyên nhân để xử lý thoả đáng. Nếu vì lý do chủ quan thì xí nghiệp phải trích từ quỹ khen thưởng của mình hoặc phải vay của ngân hàng để trả ngân hàng số tiền lương đã được ứng trước vượt mức (Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn cụ thể).
Trong phạm vi quỹ lương và thưởng nhận được, giám đốc xí nghiệp được quyền áp dụng các hình thức trả lương và thưởng thích hợp để gắn tiền lương, tiền thưởng với kết quả sản xuất và lợi nhuận.
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương cùng với Bộ Tài chính và Bộ Lao động tổng kết kinh nghiệm thí điểm về việc giao cho xí nghiệp quản lý cấp phát tem phiếu một số mặt hàng thiết yếu cung cấp cho công nhân viên theo số lượng, chất lượng lao động và theo năng suất lao động.
Giám đốc được quyền tuyển chọn lao động vào làm việc tại xí nghiệp và cho thôi việc theo chế độ quy định của Nhà nước để đáp ứng yêu cầu của sản xuất. Công nhân, viên chức có quyền xin thôi việc nếu có lý do chính đáng và đúng chế độ Nhà nước quy định. Mở rộng hình thức làm việc theo hợp đồng. Bộ Lao động nghiên cứu và làm thí điểm chế độ hợp đồng lao động tại xí nghiệp để trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định.
Các xí nghiệp có sản xuất sản phẩm xuất khẩu được hưởng quyền sử dụng ngoại tệ theo quy định hiện hành và có quỹ ngoại tệ phục vụ cho phát triển sản xuất.
Bộ Ngoại thương và Bộ Tài chính nghiên cứu quy định việc phân phối lại quyền sử dụng ngoại tệ và lợi nhuận này cho các đơn vị tham gia quá trình sản xuất những mặt hàng đã xuất khẩu được.
Sản phẩm sản xuất ra để thay thế các mặt hàng lâu nay phải nhập khẩu, nếu đạt tiêu chuẩn chất lượng cũng được lãi suất khuyến khích như đối với các mặt hàng xuất khẩu trong thời gian từ 1 đến 2 năm, tuỳ theo mặt hàng và do Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước quyết định, Bộ, Tổng cục hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố căn cứ vào yêu cầu của xí nghiệp đề nghị lên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng dành cho xí nghiệp một phần ngoại tệ để đổi mới trang thiết bị và nhập vật tư cần thiết cho sản xuất.
Các xí nghiệp sản xuất mặt hàng xuất khẩu với số lượng lớn, có kế hoạch ổn định và được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cho phép, được giao dịch trực tiếp với thị trường ngoài nước và được thành lập tổ chức chuyên lo công tác xuất nhập khẩu hoặc được phép liên doanh với các công ty nước ngoài dưới sự quản lý thống nhất về mặt quản lý Nhà nước của Bộ Ngoại thương.
Những xí nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm so với tiêu chuẩn quy định của Nhà nước thì được phụ giá tương ứng; nếu không đạt tiêu chuẩn chất lượng thì bị hạ giá tương ứng, và tuỳ theo từng loại sản phẩm có thể không được phép tiêu thụ và tiếp tục sản xuất. Uỷ ban Vật giá Nhà nước, Bộ Tài chính, Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước hướng dẫn cụ thể.
Bộ Tài chính dựa vào nguyên tắc nói trên hướng dẫn cụ thể chế độ thưởng.
- Đề án chuyển từ phương thức cung ứng vật tư theo kiểu bao cấp hiện nay sang phương thức kinh doanh vật tư theo hạch toán kinh tế, mở rộng kinh doanh ngoài diện vật tư Nhà nước thống nhất quản lý và phân phối, đáp ứng yêu cầu mở rộng quyền chủ động trong sản xuất - kinh doanh của cơ sở.
- Những bổ sung cần thiết về chế độ quản lý các loại phế liệu, phế phẩm để tận dụng có hiệu quả những vật tư này.
Thực hiện chế độ thưởng, phạt đối với các tổ chức cung ứng, và vận tải theo kết quả thực hiện hợp đồng.
9. Tiêu thụ sản phẩm
Xí nghiệp được sử dụng một phần sản phẩm làm bằng vật tư tự kiếm và sản phẩm của sản xuất phụ để đối lưu lấy vật tư cho sản xuất, nhưng phải có kế hoạch được cơ quan quản lý cấp trên duyệt; được mua lại theo giá bán buôn công nghiệp một tỷ lệ sản phẩm của sản xuất phụ để bán cho công nhân, viên chức sử dụng nếu có nhu cầu cần thiết; mức độ cụ thể do Bộ trưởng hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định và phải đưa vào kế hoạch của xí nghiệp, hết sức tránh để sản phẩm qua con đường này lọt ra thị trường gây khó khăn cho việc quản lý thị trường.
Các tổ chức tiêu thụ sản phẩm của xí nghiệp có trách nhiệm nhận hàng đúng thời hạn đã quy định trong hợp đồng. Nếu để quá hạn thì xử lý theo hợp đồng đã ký, Xí nghiệp được tiêu thụ cho các cơ quan, xí nghiệp khác (nhất là đối với các sản phẩm tươi sống, khó bảo quản); bên tiêu thụ phải bồi thường cho bên cung ứng những thiệt hại do việc nhận chậm gây ra (trừ sản phẩm xuất khẩu sẽ có quy định riêng).
Cho phép các xí nghiệp có đủ điều kiện mở cửa hàng giới thiệu sản phẩm mới, bán một số sản phẩm của sản xuất phụ có sự thoả thuận của ngành nội thương; mở các cơ sở dịch vụ để sửa chữa những sản phẩm do xí nghiệp sản xuất ra, nhưng phải chấp hành đúng các quy định của Nhà nước về tổ chức lưu thông hàng hoá và dịch vụ.
CÔNG NHÂN KỸ THUẬT
Đảng uỷ cơ sở phải lãnh đạo các tổ chức Đảng, các đoàn thể quần chúng, các tập thể lao động, giáo dục đảng viên, quần chúng làm tròn trách nhiệm của mình và kiểm tra hoạt động của cơ quan quản lý và của thủ trưởng theo đúng quy định của Điều lệ Đảng.
Thực hiện đầy đủ quy định của Hội đồng chính phủ về quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của công nhân, viên chức tại các đơn vị cơ sở sản xuất - kinh doanh của Nhà nước đã ban hành theo Nghị định số 182-CP ngày 26-4-1979. Giám đốc xí nghiệp cùng với công đoàn triệu tập Hội nghị đại biểu công nhân, viên chức (hoặc Hội nghị toàn thể) để tham gia và giám sát công tác quản lý theo đúng Luật Công đoàn và quyết định của Hội đồng Bộ trưởng.
Giám đốc xí nghiệp là người được Nhà nước bổ nhiệm, có tham khảo ý kiến của công nhân viên chức xí nghiệp. Giám đốc thay mặt Nhà nước quản lý xí nghiệp, là người chỉ huy cao nhất và chịu trách nhiệm trước Nhà nước và trước cấp trên trực tiếp về mọi hoạt động, về kết quả sản xuất - kinh doanh, về việc bảo vệ xí nghiệp và về đời sống của công nhân, viên chức. Các mệnh lệnh chỉ huy của giám đốc phải được mọi cán bộ, công nhân viên chức trong xí nghiệp nghiêm chỉnh chấp hành.
Giám đốc thực hiện các mối quan hệ với Công đoàn và Đoàn thanh niên theo đúng Luật và quy định của Nhà nước; tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của cán bộ công đoàn và đoàn thanh niên.
Tổ chức hội đồng xí nghiệp ở các xí nghiệp, Hội đồng xí nghiệp là cơ quan tư vấn của giám đốc xí nghiệp, có quyền thảo luận những dự án kế hoạch, những chủ trương, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công nhân...
Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cùng Tổng công đoàn Việt Nam và Ban công nghiệp Trung ương xây dựng quy chế Hội đồng xí nghiệp và trình Hội đồng Bộ trưởng xét, ban hành vào cuối năm 1984.
Từng xí nghiệp tiến hành cụ thể hoá chức danh tiêu chuẩn của cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật trong đơn vị. Làm tốt công tác quy hoạch và chuẩn bị cán bộ dự bị.
Các Bộ, Tổng cục và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố lựa chọn các cán bộ giỏi làm tổng giám đốc liên hiệp các xí nghiệp tổng công ty, giám đốc các xí nghiệp, xí nghiệp liên hợp và công ty quan trọng.
Thực hiện việc lần lượt bồi dưỡng kiến thức về quản lý kinh tế cho tất cả các cán bộ lãnh đạo xí nghiệp đương chức, thông qua các lớp học ngắn hạn và theo định kỳ từ 3 đến 5 năm một lần.
Các Bộ và Tổng cục quản lý công nghiệp thường xuyên bồi dưỡng cán bộ khoa học - kỹ thuật những kiến thức mới về tiến bộ khoa học kỹ thuật trong ngành.
Các Bộ, Tổng cục và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố có kế hoạch kết hợp đào tạo công nhân kỹ thuật tại các trường chính quy với việc đào tạo theo kiểu kèm cặp, bồi dưỡng, nâng cao tay nghề tại cơ sở sản xuất.
Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1985 và thay cho Quyết định số 25-CP ngày 21-1-1981 của Hội đồng Chính phủ và Quyết định số 146-HĐBT ngày 25-8-1982 của Hội đồng Bộ trưởng quy định trước đây về quản lý công nghiệp.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem Văn bản gốc.
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây