Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 156-HĐBT ngày 30/11/1984 của Hội đồng Bộ trưởng về một số vấn đề cải tiến quản lý công nghiệp quốc doanh và Quyết định số 162-HĐBT ngày 14/12/1984 của HĐBT về tổ chức hoạt động liên kết trong kinh tế
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Thông tư 4-PC/TT
Cơ quan ban hành: | Trọng tài kinh tế Nhà nước | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 4-PC/TT | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Thông tư | Người ký: | Tô Duy |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 16/02/1985 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Lĩnh vực: |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Thông tư 4-PC/TT
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành trung ương Đảng (khoá V) đã có những quyết định quan trọng về cải tiến cơ chế quản lý kinh tế. Trên cơ sở lấy kế hoạch làm công cụ trung tâm, gắn kế hoạch với hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý kinh tế mới mở rộng quyền chủ động sáng tạo của các cơ sở, mở rộng hoạt liên kết trong kinh tế, nhằm phát huy mọi khả năng để phát triển sản xuất ở cơ sở đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao.
Nhằm thể chế hoá Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương, Hội đồng Bộ trưởng đã ra Nghị quyết số 156-HĐBT ngày 30-11-1984 về một số vấn đề cải tiến quản lý công nghiệp quốc doanh và Quyết định số 162-HĐBT ngày 14-12-1984 về tổ chức hoạt động liên kết trong kinh tế.
Trong lĩnh vực hợp đồng kinh tế và trọng tài kinh tế, Trọng tài kinh tế Nhà nước ra thông tư hướng dẫn thi hành các nghị quyết và quyết định nói trên của Hội đồng Bộ trưởng như sau:
Hợp đồng kinh tế là công cụ để hình thành, cụ thể hoá và thực hiện kế hoạch. Cơ chế quản lý mới phát huy tính năng động, sáng tạo của cơ sở trong việc khai thác mọi nguồn khả năng để bảo đảm thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh, đồng thời khuyến khích cơ sở sản xuất sản phẩm ngoài chỉ tiêu pháp lệnh nhằm làm ra nhiều của cải cho xã hội. Do vậy, có hợp đồng ký kết để thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh (gọi tắt là hợp đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh ) và hợp đồng ký kết để sản xuất và trao đổi sản phẩm ngoài chỉ tiêu pháp lệnh (gọi tắt là hợp đồng ngoài chỉ tiêu pháp lệnh).
Hợp đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh là hợp đồng ký kết giữa các đơn vị cơ sở, nhằm bảo đảm thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước do các Bộ, Tổng cục, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương cụ thể hoá và phân bổ cho các liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty, công ty, xí nghiệp liên hợp, xí nghiệp trực thuộc (nếu là cơ sở thuộc Bộ, Tổng cục quản lý), các Sở quản lý ngành, Uỷ ban Nhân dân huyện, quận (nếu là cơ sở thuộc tỉnh, thành phố hoặc huyện, quận quản lý).
Hợp đồng ngoài chỉ tiêu pháp lệnh là hợp đồng ký kết giữa các đơn vị cơ sở thông qua hoạt động liên kết kinh tế nhằm sản xuất và trao đổi sản phẩm ngoài chỉ tiêu pháp lệnh.
Việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế theo chỉ tiêu pháp lệnh phải gắn liền với trình tự xây dựng và thực hiện kế hoạch, cụ thể là:
Trường hợp vì lý do khách quan, sau khi tìm mọi biện pháp khắc phục vẫn không có khả năng thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh, thì xí nghiệp báo cáo lên cơ quan quản lý cấp trên xin điều chỉnh vào đầu quý III của năm kế hoạch. Sau khi có quyết định của cơ quan quản lý cấp trên có thẩm quyền về việc điều chỉnh chỉ tiêu pháp lệnh, xí nghiệp phải kịp thời bàn bạc với các đơn vị liên quan điều chỉnh lại các hợp đồng đã ký.
Việc thanh lý và quyết toán thực hiện hợp đồng phải được ghi vào biên bản do đại diện có thẩm quyền của các bên ký. Trên cơ sở thanh lý và quyết toán thực hiện hợp đồng, cơ quan quản lý cấp trên xét duyệt hoàn thành kế hoạch của xí nghiệp. Kết quả thực hiện hợp đồng là một căn cứ quan trọng để xác nhận việc hoàn thành các chỉ tiêu pháp lệnh.
Việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế ngoài chỉ tiêu pháp lệnh không nhất thiết theo trình tự các bước của kế hoạch hoá như đã quy định ở phần I trên đây mà nó được xây dựng và ký kết thông qua hoạt động liên kết kinh tế trong quá trình xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch trong cả năm.
Mọi hoạt động liên kết kinh tế phải thể hiện trong kế hoạch của cơ sở và phải thông qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế.
Các Bộ, Tổng cục, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn kiểm tra việc thực hiện kế hoạch liên kết kinh tế của các đơn vị kinh doanh trực thuộc; đồng thời phải phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời những việc làm trái với quy chế liên kết kinh tế làm ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch nhà nước và gây khó khăn cho việc quản lý kinh tế, tài chính, thị trường, giá cả.
Hợp đồng ngoài chỉ tiêu pháp lệnh được ký kết trên cơ sở tự nguyện, thoả thuận giữ đôi bên và cùng có lợi. Nội dung hợp đồng ngoài chỉ tiêu pháp lệnh cũng phải bao gồm những điều khoản chủ yếu như số lượng sản phẩm hoặc công việc giao dịch; chất lượng sản phẩm hoặc công việc; thời gian địa điểm giao nhận; giá cả; thể thức thanh toán; thưởng phạt vật chất; thời gian, có hiệu lực của hợp đồng. Các bên cần dựa vào chính sách và pháp luật về quản lý kinh tế của Nhà nước mà vận dụng vào việc ký kết hợp đồng này trên nguyên tắc đảm bảo chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước về quản lý thị trường, tài chính, tiền tệ, giá cả.
Riêng điều khoản về thưởng, phạt vật chất, các bên có thể thoả thuận quy định như sau: về thưởng vật chất, các bên có thể thoả thuận ghi trong hợp đồng một số tiền nhất định để thưởng cho bên nào hoàn thành tốt hợp đồng. Về phạt vật chất, các bên có thể thoả thuận áp dụng thi hành chế tài vật chất theo các quy định của Nhà nước về chế độ hợp đồng kinh tế, hoặc là thoả thuận ghi trong hợp đồng một số tiền phạt, tiền bồi thường phải trả khi xảy ra vi phạm.
Nếu các bên đương sự không chịu khiếu nại mà qua thanh tra, kiểm tra hoặc các nguồn thông tin khác, cơ quan trọng tài kinh tế phát hiện và chủ động đưa ra xét xử, thì bên bị vi phạm có thể không được hưởng tiền bồi thường như đã thoả thuận ghi trong hợp đồng, toàn bộ hoặc một phần tiền bồi thường phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, các cơ sở sử dụng nhiều loại hợp đồng kinh tế như hợp đồng cung ứng vật tư, hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, hợp đồng nghiên cứu khoa học và triển khai kỹ thuật, hợp đồng giao nhận thầu thiết kế, hợp đồng giao nhận thầu xây lắp, hợp đồng vận tải, hợp đồng gia công đặt hàng... Mỗi loại hợp đồng kinh tế có tính chất quan trọng của nó. Thông tư này đi sâu hướng dẫn nội dung hai loại hợp đồng sau đây là những loại hợp đồng có liên quan mật thiết nhất đến việc thực hiện Nghị quyết số 156-HĐBT và Quyết định số 162-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng.
Các tổ chức cung ứng vật tư (kể cả tổ chức nhập khẩu vật tư) phải bảo đảm cung ứng vật tư chủ yếu, những vật tư phụ trợ quan trọng cho xí nghiệp theo đúng chỉ tiêu pháp lệnh và theo đúng các điều khoản về số lượng, chủng loại, quy cách và phẩm chất, giá cả, thời gian, địa điểm quy định trong hợp đồng. Xí nghiệp và các tổ chức cung ứng vật tư cùng nhau cam kết ghi trong các bản hợp đồng việc trích thưởng hoặc phạt vật chất theo kết quả thực hiện kế hoạch và hợp đồng.
Các tổ chức cung ứng giao vật tư tại những địa điểm thuận tiện cho sản xuất trong phạm vi lãnh thổ của tỉnh, thành phố. Nếu gặp trường hợp khó khăn về phương tiện vận chuyển từ nguồn vật tư đến địa điểm thuận tiện trong tỉnh, thành phố, trong khi xí nghiệp có khả năng phương tiện, thì tổ chức cung ứng có thể thoả thuận ký hợp đồng với xí nghiệp theo nội dung là xí nghiệp tự vận tải và bên cung ứng phải trả lại chi phí vận tải cho xí nghiệp.
Đối với một số loại vật tư mà xí nghiệp có nhu cầu nhiều và ổn định, có đủ kho, bãi tiếp nhận hàng, có đường giao thông thuận tiện, thi các bên có thể thoả thuận giao nhận vật tư tại địa điểm của xí nghiệp.
Đối với vật tư được Nhà nước cung ứng thì khi ký kết và thực hiện hợp đồng, các bên phải theo đúng giá chỉ đạo của Nhà nước. Đối với vật tư do xí nghiệp tự kiếm từ 3 nguồn nguyên liệu nông sản, lâm sản, hải sản dư thừa sau khi hoàn thành kế hoạch bán sản phẩm cho Nhà nước; nguồn vay ngoại tệ của Ngân hàng hoặc do xuất khẩu (sau khi hoàn thành kế hoạch giao nộp sản phẩm trong đó có phần xuất khẩu Nhà nước giao) để nhập vật tư nguyên liệu cho sản xuất; nguồn phế liệu, phế phẩm của xí nghiệp thì giá cả ghi trong hợp đồng theo giá thực mua trong khung giá do cơ quan có thẩm quyền quy định.
Trong trường hợp không cung ứng được vật tư theo kế hoạch và hợp đồng do những nguyên nhân khách quan không thể khắc phục nổi thì tổ chức cung ứng phải thông báo trước 1 tháng cho xí nghiệp, đồng thời báo cáo với cơ quan quản lý cấp trên xem xét để có sự điều chỉnh cần thiết. Nếu kế hoạch cung ứng vật tư được cơ quan quản lý cấp trên có thẩm quyền cho phép điều chỉnh thì tổ chức cung ứng phải bàn bạc với xí nghiệp để điều chỉnh lại hợp đồng đã ký.
Hợp đồng tiêu thụ sản phẩm được ký cả năm và phân ra từng quý theo tiến độ của kế hoạch sản xuất, có tính đến khả năng tiêu thụ của thị trường và do hai bên bàn bạc thoả thuận. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên có thể thoả thuận điều chỉnh giữa các quý trong năm.
- Đối với sản phẩm của xí nghiệp.
Phần sản phẩm chủ yếu của xí nghiệp làm bằng vật tư tự kiếm dành để đối lưu lấy vật tư cho sản xuất phải có kế hoạch được cơ quan quản lý cấp trên duỵệt và phải thông qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng ngoài chỉ tiêu pháp lệnh như đã quy định ở phần II của thông tư này. Hợp đồng đối lưu nay có thể ký thành hai bản hợp đồng là hợp đồng mua và hợp đồng bán, hoặc là ký chung vào một bản hợp đồng trong đó có điều khoản mua và điều khoản bán tính giá trị bằng tiền và đều phải thanh toán qua ngân hàng. Không được sử dụng hợp đồng để trao đổi hiện vật, hàng đổi hàng với nhau.
Đối với sản phẩm của sản xuất phụ, xí nghiệp cũng phải ký hợp đồng tiêu thụ với các tổ chức tiêu thụ của Nhà nước hoặc với hợp tác xã mua bán theo giá thoả thuận. Trong trường hợp các tổ chức tiêu thụ và hợp tác này từ chối ký hợp đồng do không có điều kiện tiêu thụ sản phẩm ngoài chỉ tiêu pháp lệnh được, thì xí nghiệp được quyền bán thẳng cho các hộ tiêu thụ khác.
- Đối với sản phẩm của hợp tác xã, tập đoàn sản xuất.
Theo sự chỉ đạo của cấp huyện, các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất ký kết hợp đồng với các tổ chức thu mua của Nhà nước, trong đó ngoài phần bán sản phẩm cho Nhà nước theo chỉ tiêu pháp lệnh và theo giá chỉ đạo còn có phần bán sản phẩm ngoài chỉ tiêu pháp lệnh theo giá thoả thuận trong khung giá được cơ quan có thẩm quyền quy định. Ngoài ra, nếu còn số sản phẩm dư thừa thì hợp tác xã, tập đoàn sản xuất có thể tiến hành liên kết kinh tế với các đơn vị kinh doanh của Nhà nước có liên quan. Hoạt động liên kết kinh tế trên đây được thực hiện thông qua ký kết và thực hiện hợp đồng ngoài chỉ tiêu pháp lệnh như đã quy định ở phần II của Thông tư này.
Sau khi có ý kiến của cơ quan quản lý cấp trên về bản hợp đồng, xí nghiệp là bên cung ứng vật tư hoặc bán sản phẩm phải gửi ngay bản hợp đồng đó đến có quan trọng tài kinh tế có thẩm quyền quy định ở điểm 1, phần V của Thông tư này để đăng ký và theo dõi.
Đối với hợp đồng gia công đặt hàng hoặc bán nguyên liệu, thu mua thành phẩm thuộc tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp và hợp đồng kinh tế hai chiều về sản xuất, thu mua nông, lâm, hải sản ký theo chỉ tiêu pháp lệnh hay ngoài chỉ tiêu pháp lệnh nhưng thuộc danh mục mặt hàng Nhà nước thống nhất quản lý, giữa một bên là quốc doanh (bao gồm quốc doanh của Trung ương, của tỉnh, thành phố hoặc của huyện, quận) và một bên là hợp tác xã tập đoàn sản xuất nông nghiệp, tổ hợp tác sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp hoặc hộ kinh doanh tư nhân, thì ngay sau khi hợp đồng được ký kết, xí nghiệp hoặc công ty kinh doanh của Nhà nước phải gửi các bản hợp đồng đó đến trọng tài kinh tế huyện, quận nơi quản lý các tổ chức kinh tế tập thể và hộ kinh doanh tư nhân nói trên, để đăng ký và theo dõi... Trường hợp huyện, quận chưa có trọng tài kinh tế, thì xí nghiệp hoặc công ty phải gửi các bản hợp đồng đó đến Uỷ ban Nhân dân huyện, quận để đăng ký theo dõi.
Thể thức đăng ký các bản hợp đồng này do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương mà quy định cho thích hợp, bảo đảm việc đăng ký được kịp thời, nghiêm túc vừa phục vụ và thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển đúng hướng, đúng chính sách, vừa không gây phiền hà cho cơ sở.
Khi nhận được bản hợp đồng, Uỷ ban nhân dân hoặc trọng tài kinh tế huyện, quận cần xem xét về hai mặt, một mặt xem xét các bên ký kết hợp đồng có tư cách pháp nhân không. Nếu một bên ký kết hợp đồng là tổ hợp tác sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp hoặc hộ kinh doanh tư nhân, thì phải xem xét tổ hợp tác và hộ tư nhân này có được phép kinh doanh và có tài khoản ở ngân hàng không, mặt khác xem xét nội dung hợp đồng đã ký có phù hợp với chính sách, luật pháp của Nhà nước không. Đặc biệt đối với hợp đồng gia công, cần chú ý các điều khoản về số lượng, chất lượng đối chiếu với tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật làm ra sản phẩm đó, và điều khoản về giá cả.
Đối với hợp đồng ký kết giữa các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, tổ hợp tác tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp trong cùng một huyện, quận, thì ngay sau khi hợp đồng được ký kết, các bên liên quan phải gửi bản hợp đồng đó đến trọng tài kinh tế huyện, quận hoặc Uỷ ban Nhân dân huyện, quận (nơi chưa có trọng tài kinh tế) để đăng ký và theo dõi. Nếu là hai hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp, tổ hợp tác sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp thuộc hai huyện, quận khác nhau thì hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, tổ hợp tác sản xuất là bên cung ứng vật tư, nguyên liệu hoặc bán sản phẩm phải gửi bản hợp đồng đó đến trọng tài kinh tế hoặc Uỷ ban nhân dân huyện, quận nơi mình thuộc quyền quản lý, để đăng ký và theo dõi.
Khi tiến hành đăng ký hợp đồng phải xem xét, ghi sổ theo dõi, ghi ngày, số đăng ký, và ký tên, đóng dấu trên bản hợp đồng..., nếu phát hiện những sai sót, lệch lạc về ký kết và thực hiện hợp đồng thì trọng tài kinh tế hoặc Uỷ ban nhân dân huyện, quận có liên quan phải thông báo kịp thời và yêu cầu các bên sửa chữa, nếu không thấy có vấn đề gì thì sau khi tiến hành đăng ký, cơ quan trọng tài kinh tế có thẩm quyền hoặc Uỷ ban nhân dân huyện, quận phải gửi trả lại ngay bản hợp đồng đó cho các bên liên quan, chậm nhất là sau 7 ngày kể từ ngày nhận được bản hợp đồng.
Sau này, trong quá trình theo dõi việc thực hiện hợp đồng, nếu phát hiện có những sai sót mới của các bên liên quan trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng, thì cơ quan trọng tài kinh tế có thẩm quyền thông báo và yêu cầu các bên sửa chữa. Nếu không chịu sửa chữa hoặc đã mắc những sai sót làm thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa thì cơ quan trọng tài kinh tế sẽ tiến hành xét xử các vi phạm theo đúng pháp luật Nhà nước.
Ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế là nhiệm vụ và trách nhiệm thường xuyên của các đơn vị cơ sở. Để giúp đỡ đơn vị cơ sở tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong sản xuất cũng như trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng, góp phần bảo đảm hoàn thành kế hoạch Nhà nước, thì cần tăng cường quan hệ phối hợp giữa cơ quan trọng tài kinh tế với cơ quan quản lý ngành và cơ quan quản lý tổng hợp trên các mặt sau đây:
Trong quá trình thanh tra, kiểm tra, nếu phát hiện những vướng mắc, khó khăn, cơ sở không tự giải quyết được mà cần có sự chỉ đạo của cơ quan cấp trên, thì trọng tài kinh tế kiến nghị với cơ quan đó để có biện pháp giải quyết kịp thời. Mặt khác cơ quan quản lý cấp trên thông báo cho cơ quan trọng tài kinh tế biết những chủ trương và biện pháp quản lý của ngành liên quan đến việc thực hiện kế hoạch và hợp đồng ở cơ sở để có sự phối hợp chặt chẽ.
Khi xảy ra tranh chấp và vi phạm hợp đồng, theo yêu cầu của trọng tài kinh tế, cơ quan quản lý cấp trên có liên quan cần cung cấp những tài liệu, chứng cứ cần thiết phục vụ cho công tác xét xử.
Nếu vụ tranh chấp và vi phạm hợp đồng liên quan đến công tác nghiệp vụ của cơ quan quản lý tổng hợp nào, thì cơ quan quản lý tổng hợp đó phải đề xuất biện pháp giải quyết theo chức năng nhiệm vụ của mình, còn trọng tài kinh tế đứng về mặt bảo đảm tính pháp lý và kỷ luật của hợp đồng kinh tế sẽ xét xử vụ tranh chấp và vi phạm hợp đồng theo các quy định của Nhà nước về chế độ hợp đồng kinh tế.
Trên đây là những điều hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 156-HĐBT ngày 30-11-1984 và Quyết định số 162-HĐBT ngày 14-12-1984 của Hội đồng Bộ trưởng.
Các đồng chí Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước, Thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân các tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương khi phổ biến thi hành các nghị quyết, quyết định của Hội đồng Bộ trưởng cần chỉ đạo làm quán triệt và thực hiện Thông tư này của Trọng tài kinh tế Nhà nước đến các xí nghiệp, cơ quan, đơn vị trực thuộc.
Yêu cầu các đồng chí Chủ tịch Trọng tài kinh tế các Bộ, tổng cục, tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương có kế hoạch tổ chức nghiên cứu, quán triệt nghị quyết, quyết định của Hội đồng Bộ trưởng và Thông tư hướng dẫn này, và đề ra biện pháp cụ thể để thi hành trong ngành hoặc địa phương.