Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự năm 2002
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Pháp lệnh 05/2002/PL-UBTVQH11
Cơ quan ban hành: | Ủy ban Thường vụ Quốc hội | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 05/2002/PL-UBTVQH11 | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Pháp lệnh | Người ký: | Nguyễn Văn An |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 04/11/2002 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày hết hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Cơ cấu tổ chức |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Pháp lệnh 05/2002/PL-UBTVQH11
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
PHÁP LỆNH
CỦA UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI SỐ 05/2002/PL-UBTVQH11
NGÀY 04 THÁNG 11 NĂM 2002 VỀ TỔ CHỨC VIỆN KIỂM SÁT QUÂN SỰ
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Căn cứ vào Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân;
Pháp lệnh này quy định về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát quân sự.
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Các Viện kiểm sát quân sự thuộc hệ thống Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức trong Quân đội nhân dân Việt Nam để thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong Quân đội.
Trong phạm vi chức năng của mình, Viện kiểm sát quân sự có nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ an ninh quốc phòng, kỷ luật và sức mạnh chiến đấu của Quân đội; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của quân nhân, công chức, công nhân quốc phòng và của các công dân khác; bảo đảm để mọi hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của quân nhân, công chức, công nhân quốc phòng và của công dân khác đều phải được xử lý theo pháp luật.
Viện kiểm sát quân sự thực hiện chức năng, nhiệm vụ bằng những công tác sau đây:
Viện kiểm sát quân sự có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về các hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp trong Quân đội theo quy định của pháp luật.
Khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát quân sự có quyền ra quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu và chịu trách nhiệm trước pháp luật về các văn bản đó.
Trong trường hợp các văn bản nói trên trái pháp luật thì tùy theo tính chất và mức độ sai phạm mà người ra văn bản bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Các quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu của Viện kiểm sát quân sự phải được các đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan thực hiện nghiêm chỉnh theo quy định của pháp luật.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát quân sự có trách nhiệm phối hợp với Toà án quân sự, Cơ quan điều tra, Thanh tra quốc phòng, các đơn vị vũ trang nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước, các tổ chức để phòng ngừa và chống tội phạm có hiệu quả, xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự và vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp; tuyên truyền, giáo dục pháp luật; tham gia xây dựng pháp luật; bồi dưỡng cán bộ; nghiên cứu tội phạm và vi phạm pháp luật.
Viện kiểm sát quân sự có trách nhiệm tiếp nhận các tin báo, tố giác về tội phạm do các cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân chuyển đến.
Người chỉ huy các cấp phải kịp thời thông báo các hành vi phạm tội xảy ra ở cơ quan, đơn vị mình cho Viện kiểm sát quân sự nơi gần nhất.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các Viện kiểm sát quân sự chịu trách nhiệm thực hiện việc thống kê tội phạm; các cơ quan tiến hành tố tụng khác của Quân đội có trách nhiệm phối hợp với Viện kiểm sát quân sự trong việc thực hiện nhiệm vụ này.
Viện kiểm sát quân sự do Viện trưởng lãnh đạo. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp trên; Viện kiểm sát quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện kiểm sát quân sự cấp trên có trách nhiệm kiểm tra, phát hiện và khắc phục kịp thời vi phạm pháp luật của Viện kiểm sát quân sự cấp dưới. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp trên có quyền rút, đình chỉ hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Viện kiểm sát quân sự cấp dưới.
Tại Viện kiểm sát quân sự trung ương, Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương thành lập Uỷ ban kiểm sát để thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng theo quy định của pháp luật.
Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương là Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Các Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự trung ương là Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự khu vực do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương.
Điều tra viên Viện kiểm sát quân sự trung ương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương.
Phó Viện trưởng giúp Viện trưởng làm nhiệm vụ theo sự phân công của Viện trưởng. Khi Viện trưởng vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng uỷ nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác của Viện kiểm sát quân sự. Phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về nhiệm vụ được giao.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự làm nhiệm vụ do Viện trưởng cấp mình phân công theo Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân.
Cơ quan chính trị quân khu và tương đương mỗi năm một lần tổ chức Hội nghị đại biểu quân nhân trong đơn vị mình và các đơn vị đóng quân trên địa bàn để Viện kiểm sát quân sự cùng cấp báo cáo tình hình tội phạm trong Quân đội, hoạt động của Viện kiểm sát quân sự và trả lời những câu hỏi của các đại biểu.
Viện kiểm sát quân sự có trách nhiệm trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân về hoạt động của Viện kiểm sát quân sự liên quan đến địa phương.
Khi phát hiện quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu và hành vi khác của Kiểm sát viên, Điều tra viên Viện kiểm sát quân sự không có căn cứ hoặc trái pháp luật, cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân có quyền yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại; cá nhân có quyền kiến nghị, khiếu nại, tố cáo với Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cùng cấp, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp trên hoặc với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Cơ quan, người nhận được yêu cầu, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo có trách nhiệm giải quyết và trả lời theo quy định của pháp luật.
Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống Kiểm sát viên, Điều tra viên Viện kiểm sát quân sự.
Kiểm sát viên, Điều tra viên Viện kiểm sát quân sự phải tôn trọng nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân.
Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Kiểm sát viên, Điều tra viên Viện kiểm sát quân sự liên hệ và phối hợp với các cơ quan nhà nước, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình các cơ quan, tổ chức, đơn vị và cá nhân có trách nhiệm tạo điều kiện để Kiểm sát viên, Điều tra viên Viện kiểm sát quân sự thực hiện nhiệm vụ.
Nghiêm cấm mọi hành vi gây cản trở Kiểm sát viên, Điều tra viên Viện kiểm sát quân sự thực hiện nhiệm vụ.
CÁC CÔNG TÁC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG CỦA
VIỆN KIỂM SÁT QUÂN SỰ
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trong Quân đội nhằm bảo đảm:
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát quân sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát quân sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT XÉT XỬ
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
Trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát quân sự có trách nhiệm thực hành quyền công tố, bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự của Toà án quân sự, nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát quân sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Khi thực hiện công tác kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát quân sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát quân sự có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án quân sự theo quy định của pháp luật; kiến nghị với Toà án quân sự cùng cấp và cấp dưới khắc phục vi phạm pháp luật trong việc xét xử; kiến nghị với cơ quan, đơn vị, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật; nếu có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự.
KIỂM SÁT VIỆC THI HÀNH ÁN
Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Toà án quân sự, Cơ quan thi hành án , Chấp hành viên, cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân có liên quan trong việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và những bản án, quyết định được thi hành ngay theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm các bản án, quyết định đó được thi hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời.
Khi thực hiện công tác kiểm sát thi hành án, Viện kiểm sát quân sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Toà án quân sự, Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân có liên quan đến việc thi hành án có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu quy định tại khoản 1 Điều 21 của Pháp lệnh này trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Đối với kháng nghị quy định tại khoản 5 Điều 21 của Pháp lệnh này, Toà án quân sự, Cơ quan thi hành án, Chấp hành viên, cơ quan, đơn vị, tổ chức và cá nhân có liên quan có trách nhiệm trả lời trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị.
KIỂM SÁT VIỆC TẠM GIỮ, TẠM GIAM, QUẢN LÝ VÀ GIÁO DỤC
NGƯỜI CHẤP HÀNH ÁN PHẠT TÙ
Viện kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù do các cơ quan tư pháp trong Quân đội đảm nhiệm nhằm bảo đảm:
Khi thực hiện công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù do các cơ quan tư pháp trong Quân đội đảm nhiệm, Viện kiểm sát quân sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Trong quá trình kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù do các cơ quan tư pháp trong Quân đội đảm nhiệm, Viện kiểm sát quân sự có trách nhiệm:
Cơ quan, đơn vị và người có trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù phải chuyển cho Viện kiểm sát quân sự khiếu nại, tố cáo của người bị tạm giữ, tạm giam, người chấp hành án phạt tù trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được khiếu nại, tố cáo.
Đối với các yêu cầu quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 24 của Pháp lệnh này, cơ quan, đơn vị và người có trách nhiệm phải trả lời trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Đối với quyết định quy định tại khoản 1 Điều 25 của Pháp lệnh này, cơ quan, đơn vị hoặc người có trách nhiệm phải chấp hành ngay; nếu không nhất trí với quyết định đó thì vẫn phải chấp hành, nhưng có quyền khiếu nại lên Viện kiểm sát quân sự cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp trên trực tiếp phải giải quyết.
Đối với kháng nghị quy định tại khoản 6 Điều 24 của Pháp lệnh này, cơ quan, đơn vị hữu quan có trách nhiệm trả lời trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị; nếu không nhất trí với kháng nghị đó thì cơ quan, đơn vị hữu quan có quyền khiếu nại lên Viện kiểm sát quân sự cấp trên trực tiếp; Viện kiểm sát quân sự cấp trên trực tiếp phải giải quyết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định của Viện kiểm sát quân sự cấp trên trực tiếp phải được chấp hành.
TỔ CHỨC CỦA VIỆN KIỂM SÁT QUÂN SỰ
Các Viện kiểm sát quân sự gồm có Viện kiểm sát quân sự trung ương, các Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, các Viện kiểm sát quân sự khu vực.
Căn cứ vào nhiệm vụ và tổ chức của Quân đội trong từng thời kỳ, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định việc thành lập và giải thể Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, Viện kiểm sát quân sự khu vực.
Nghị quyết của Uỷ ban kiểm sát phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Nếu Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên Uỷ ban kiểm sát thì thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Căn cứ vào pháp luật, quyết định và chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác kiểm sát và mệnh lệnh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ của Quân đội, Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Nghị quyết của Uỷ ban kiểm sát phải được quá nửa tổng số thành viên Uỷ ban kiểm sát biểu quyết tán thành; trong trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Nếu Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên Uỷ ban kiểm sát thì thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương.
Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương quyết định những vấn đề không thuộc thẩm quyền của Uỷ ban kiểm sát.
Bộ máy làm việc của Viện kiểm sát quân sự trung ương do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
Bộ máy làm việc của Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương, bộ máy làm việc của Viện kiểm sát quân sự khu vực do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quy định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
KIỂM SÁT VIÊN, ĐIỀU TRA VIÊN
Sĩ quan Quân đội tại ngũ có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thì có thể được bổ nhiệm làm Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự; có đủ tiêu chuẩn theo quy định của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự thì có thể được bổ nhiệm làm Điều tra viên Viện kiểm sát quân sự trung ương.
Tiêu chuẩn cụ thể, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự theo quy định của Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân.
Tiêu chuẩn cụ thể, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Điều tra viên Viện kiểm sát quân sự trung ương theo quy định của Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự.
Nhiệm kỳ của Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự, Điều tra viên Viện kiểm sát quân sự trung ương là năm năm.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự do pháp luật quy định.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Điều tra viên Viện kiểm sát quân sự trung ương do pháp luật quy định.
BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT QUÂN SỰ
Biên chế, số lượng Kiểm sát viên, Điều tra viên của Viện kiểm sát quân sự do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao sau khi thống nhất với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Quân nhân, công chức, công nhân quốc phòng làm việc ở Viện kiểm sát quân sự có các quyền, nghĩa vụ theo chế độ của Quân đội; được hưởng chế độ phụ cấp đối với ngành kiểm sát.
Giấy chứng minh và chế độ ưu tiên đối với Kiểm sát viên Viện kiểm sát quân sự, Điều tra viên Viện kiểm sát quân sự trung ương khi thực hiện nhiệm vụ do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 15 tháng 11 năm 2002.
Pháp lệnh này thay thế Pháp lệnh tổ chức Viện kiểm sát quân sự ngày 26 tháng 4 năm 1993.
Những quy định trước đây trái với Pháp lệnh này đều bãi bỏ.
Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình có trách nhiệm hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này.