Quy chế tòa án quốc tế
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Điều ước quốc tế
Cơ quan ban hành: | Đang cập nhật | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đang cập nhật |
Số hiệu: | Không số | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Điều ước quốc tế | Người ký: | Đang cập nhật |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 26/06/1945 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Lĩnh vực: |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Điều ước quốc tế Không số
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
QUY CHẾ TÒA ÁN QUỐC TẾ
STATUTE OF THE INTERNATIONAL COURT OF JUSTICE
Điều 1. Tòa án quốc tế được thành lập theo Hiến chương Liên hợp quốc là cơ quan xét xử chính của Liên hợp quốc, được tổ chức và hoạt động theo đúng các nghị quyết dưới đây của bản quy chế này.
Chương 1.
TỔ CHỨC TÒA ÁN
Điều 2. Tòa án có cơ cấu là một hội đồng các thẩm phán độc lập, được lựa chọn, không căn cứ quốc tịch, trong số những người có phẩm chất đạo đức tốt, đáp ứng các yêu cầu đề ra ở quốc gia họ để chỉ định vụ xét xử cao nhất, hoặc là những luật gia có uy tín lớn trong lĩnh vực luật quốc tế.
Điều 3.
1. Tòa án được cấu tạo gồm 15 người, trong đó không thể có 2 công dân của cùng một quốc gia.
2. Người có thể được xem xét để đưa vào thành phần của Tòa án, như công dân của một quốc gia, được coi là công dân của chính quốc gia đó, mà ở quốc gia ấy công dân này thường xuyên sử dụng các quyền công dân và các quyền chính trị của mình.
Điều 4.
1. Các ủy viên Tòa án được Đại hội đồng và Hội đồng bảo an lựa chọn trong số những người có tên trong danh sách theo đề nghị của các tiểu ban dân tộc của Pháp viện thường trực quốc tế phù hợp với những nguyên tắc dưới đây.
2. Đối với các thành viên Liên hợp quốc không có đại diện trong Pháp viện Quốc tế thì các ứng cử viên do các tiểu ban dân tộc được các chính phủ của họ ủy quyền đưa ra, phải tuân thủ các điều kiện đã được điều 44 Công ước Lahay năm 1907 về việc giải quyết bằng phương pháp hòa bình các cuộc xung đột quốc tế quy định đối với các thành viên của Pháp viện thường trực quốc tế.
3. Những điều kiện mà trong đó các quốc gia thành viên của quy chế này, nhưng lại không phải là thành viên của Liên hiệp quốc, có thể tham gia vào việc lựa chọn thành viên của Tòa án, được Đại hội đồng, nếu không có một điều ước đặc biệt, quy định theo sự giới thiệu của Hội đồng bảo an.
Điều 5.
1. Ít nhất là trong vòng 3 tháng, trước khi bầu cử Tổng thư ký liên hiệp quốc gửi cho các ủy viên Pháp viện thường trực quốc tế của các quốc gia thành viên của quy chế này và cho các ủy viên của các tiểu ban dân tộc được chỉ định theo điểm 2 của điều 1 văn bản đề nghị để mỗi một tiểu ban dân tộc, trong khoảng thời hạn quy định, đưa ra những ứng cử viên có thể nhận nhiệm vụ của ủy viên Tòa án.
2. Không một tiểu ban nào được đưa ra quá 4 ứng cử viên, trong đó không quá 2 ứng viên có cùng quốc tịch của một quốc gia được tiểu ban đại diện. Số lượng ứng cử viên được tiểu ban đưa ra trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được vượt quá 2 lần số ghế bầu.
Điều 6. Điều cần thiết là mỗi tiểu ban trước khi đưa ra các ứng cử viên, phải hỏi ý kiến các cơ quan xét xử cao nhất, các khoa luật, các trường Cao đẳng tư pháp và các viện Hàn lâm của các quốc gia đó cũng như các phân viện của các viện Hàn lâm quốc tế chuyên nghiên cứu về luật.
Điều 7.
1. Tổng thư ký Liên hiệp quốc lập danh sách theo thứ tự ABC tất cả những người được đề cử, trừ những trường hợp đã nói ở điểm 2 của Điều 12, chỉ được bầu những người có tên trong danh sách đó.
2. Tổng thư ký trình bản danh sách lên Đại hội đồng và Hội đồng bảo an.
Điều 8. Đại hội đồng và Hội đồng bảo an khi bầu cử ủy viên Tòa án hoàn toàn độc lập nhau.
Điều 9. Khi bầu cử các cử tri cần phải cân nhắc không những chỉ mỗi ứng cử viên nói riêng phải thỏa mãn tất cả những yêu cầu đã nêu ra mà toàn bộ cơ cấu thành phần các thẩm phán nói chung cần phải đảm bảo đại diện của các hình thái văn hóa chủ yếu nhất và các hệ thống pháp luật cơ bản trên thế giới.
Điều 10.
1. Những người được coi là trúng cử là những ứng cử viên được tuyệt đại đa số phiếu bầu cử ở cả Đại hội đồng cũng như ở cả Hội đồng bảo an.
2. Bất cứ việc biểu quyết nào ở Hội đồng bảo an, cả khi bầu thẩm phán cũng như khi chỉ định ủy viên uỷ ban phối hợp đã được nêu ở điều 12 đều được tiến hành không có sự phân biệt bất kỳ nào giữa các ủy viên thường trực và không thường trực của Hội đồng bảo an.
3. Trong trường hợp nếu như tuyệt đại đa số phiếu cả ở Đại hội đồng cũng như ở Hội đồng bảo an, chọn nhiều công dân của cùng một quốc gia trùng nhau thì người được công nhận trúng cử là người nhiều tuổi hơn
Điều 11. Nếu sau phiên họp thứ nhất triệu tập để bầu cử có một hoặc vài ghế trống thì phải triệu tập phiên thứ hai, trong trường hợp cần thiết phải triệu tập phiên thứ ba.
Điều 12.
1. Nếu sau phiên thứ 3 có một hay vài ghế trống thì trong bất kỳ thời gian nào, theo yêu cầu của Đại hội đồng hay Hội đồng bảo an, ủy ban phối hợp có thể được triệu tập với thành phần gồm 6 ủy viên: 3 ủy viên theo sự chỉ định của Đại hội đồng, 3 ủy viên theo sự chỉ định của Hội đồng bảo an để bầu lấy một người thế vào mỗi ghế trống với số phiếu chiếm tuyệt đại đa số và đệ trình người được đề cử lên Đại hội đồng và Hội đồng bảo an xem xét.
2. Nếu ủy ban phối hợp nhất trí để một người nào đó ứng cử mà thỏa mãn mọi yêu cầu thì tên người đó có thể được ghi vào danh sách ứng cử viên ở điều 7.
3. Khi ủy ban phối hợp thấy rằng việc bầu cử không tổ chức được thì lúc đó các thành viên của Tòa án đã được bầu cử bước vào giai đoạn đã được Hội đồng bảo an quy định, lựa chọn các thành viên của Tòa án trong số các ứng cử viên có số phiếu trùng nhau hoặc ở Đại hội đồng hoặc ở Hội đồng bảo an để thế vào ghế trống.
4. Trong trường hợp phiếu của các thẩm phán bằng nhau thì phiếu của người có số tuổi cao hơn sẽ có ưu thế.
Điều 13.
1. Các thành viên của Tòa án được bầu cử cho thời hạn 9 năm và có thể được bầu lại, tuy nhiên với một điều kiện là thời hạn toàn quyền của 5 thẩm phán khóa đầu tiên sẽ hết sau 3 năm và thời hạn toàn quyền của 5 thẩm phán kia sẽ hết sau 6 năm.
2. Tổng thư ký ngay sau khi kết thúc bầu cử khóa đầu tiên, phải xác định bằng cách rút thăm ai trong số các thẩm phán được trúng cử vào các nhiệm kỳ 3 năm và 6 năm đã nêu trên.
3. Các thành viên của Tòa án tiếp tục thực hiện nhiệm vụ của mình cho đến khi họ được thay, thậm chí sau khi bị thay thế họ phải có nhiệm vụ kết thúc những việc đang làm dở.
4. Trong trường hợp thành viên tòa án đệ đơn về hưu, đơn đó được gửi đến cho Chủ tịch Tòa án để chuyển cho Tổng thư ký. Sau khi Tổng thư ký nhận được đơn thì vị trí đó coi như khuyết.
Điều 14. Những ghế trống được bổ sung theo trình tự đã được quy định đối với lần bầu cử đầu và phải tuân theo các nguyên tắc dưới đây: trong vòng một tháng sau khi có ghế khuyết, Tổng thư ký gửi giấy mời như đã nêu ở điều 5, còn ngày bầu cử do Hội đồng bảo an ấn định.
Điều 15. Thành viên của Tòa án được bầu để thay thế một thành viên khác mà thời hạn toàn quyền của người đó chưa hết vẫn ở trọng trách cho đến khi mãn hạn của người mình thay thế.
Điều 16.
1. Thành viên Tòa án không được thực hiện một nhiệm vụ chính hoặc hành chính nào và không tự cho mình làm một việc nào khác có tính chất nghề nghiệp.
2. Những điều nghi vấn về vấn đề này do Tòa án xác định và giải quyết.
Điều 17.
1. Không một người nào trong số các thành viên của Tòa án được làm nhiệm vụ chánh án, luật sư hay trạng sư trong bất kỳ vụ án nào.
2. Không một người nào trong số các thành viên của Tòa án được tham gia vào việc giải quyết một vụ việc mà trước đó trong vụ việc này người đó từng tham gia với tư cách là chủ tịch, luật sư hay trạng sư cho một trong các bên, hoặc là thành viên của Tòa án quốc gia hay Tòa án quốc tế, là nhân viên của ủy ban điều tra hay các tư cách nào khác.
3. Những nghi ngờ về vấn đề này được Tòa án xác định và giải quyết.
Điều 18.
1. Thành viên của Tòa án không được bỏ nhiệm vụ, trừ khi theo ý kiến nhất trí của các thành viên khác, thành viên đó không còn thỏa mãn các yêu cầu đã nêu ra.
2. Về việc này, Tổng thư ký phải được thư ký của Tòa án thông báo
3. Ngay sau khi nhận được thông báo, ghế đó coi là khuyết.
Điều 19. Các thành viên của Tòa án trong khi thực hiện nhiệm vụ xét xử được sử dụng quyền ưu đãi và quyền bất khả xâm phạm về ngoại giao.
Điều 20. Mỗi thành viên của Tòa án có nghĩa vụ trước khi nhận nhiệm vụ phải trịnh trọng tuyên bố trong phiên họp công khai của Tòa án là sẽ thừa hành nhiệm vụ một cách vô tư và tận tình.
Điều 21.
1. Tòa án bầu chủ tịch và phó chủ tịch, nhiệm kỳ 3 năm, Chủ tịch và phó chủ tịch có thể được bầu lại.
2. Tòa án cử thư ký của mình và có thể áp dụng những biện pháp để cử những người giữ những trách nhiệm khác cần thiết như thế.
Điều 22.
1. Trụ sở của Tòa án là La Hay. Tuy nhiên điều đó không cản trở việc Tòa án có thể họp hay thực hiện chức năng của mình ở các địa điểm khác trong mọi trường hợp mà Tòa án xét thấy chỗ đó là cần thiết.
2. Chủ tịch và thư ký Tòa án phải ở tại trụ sở của Tòa án.
Điều 23.
1. Tòa án họp thường kỳ ngoại trừ trong những kỳ nghỉ mà thời hạn và thời điểm các kỳ nghỉ này do Tòa án xác định.
2. Ủy viên Tòa án có quyền nghỉ phép theo định kỳ, thời hạn và thời điểm do Tòa án quy định trong đó có sự lưu ý về khoảng cách từ La Hay, đến quê quán của mỗi thẩm phán.
3. Các ủy viên của Tòa án có nghĩa vụ chịu sự điều hành của Tòa án trong bất kỳ thời gian nào, trừ thời gian đang nghỉ phép và vắng mặt do ốm đau hoặc do những lý do nghiêm trọng khác cần được giải thích cho chủ tịch Tòa án biết.
Điều 24.
1. Nếu vì một lý do nào đặc biệt đó thành viên của Tòa án thấy rằng họ không cần phải tham gia vào việc giải quyết một vụ việc nhất định thì báo cáo điều đó cho Chủ tịch.
2. Nếu Chủ tịch Tòa án nhận thấy rằng một thành viên nào đó của Tòa án vì một lý do đặc biệt nào đó không cần thiết phải tham gia vào việc họp bàn về một vụ việc nhất định thì Chủ tịch báo trước cho thành viên về điều đó.
3. Nếu trong vấn đề này nảy sinh sự bất đồng giữa Chủ tịch và ủy viên của Tòa án thì sự bất đồng này sẽ được Tòa án xác định và giải quyết.
Điều 25.
1. Ngoài những trường hợp đã nêu trong quy chế này, Tòa án họp phiên toàn thể.
2. Trong điều kiện mà số lượng thẩm phán có mặt để lập Tòa án không dưới 11 người, quy chế này của Tòa án có thể cho phép là một hay vài thẩm phán, do hoàn cảnh riêng có thể tham dự, vào các phiên họp một cách hợp lệ.
3. Số lượng thẩm phán hợp lệ để lập phiên họp xét xử là 9 người.
Điều 26.
1. Mức độ cần thiết Tòa án có thể lập ra một hay nhiều ban gồm 3 thẩm phán hay nhiều hơn nữa theo sự suy xét của Tòa án để phân tích các phạm trù nhất định của vụ việc, chẳng hạn, vụ việc về lao động và các vụ việc liên quan đến quá cảnh và liên lạc.
2. Tòa án, bất kỳ trong thời gian nào, có thể thành lập một ban để phân tích một vụ việc nhất đỉnh. Số lượng thẩm phán để thành lập một ban như vậy do Tòa án quy định với sự nhất trí của các bên.
3. Các vụ việc sẽ được các ban nêu trong điều này, nghe và giải quyết nếu như các bên yêu cầu.
Điều 27. Quyết định, nghị quyết của một số các ban nêu ở điều 26 và 29 được coi là quyết định, nghị quyết của Tòa án.
Điều 28. Các ban đã nêu ở điều 26 và 29, với sự đồng ý của các bên, có thể họp và thực hiện nhiệm vụ của mình ở các địa điểm khác ngoài La Hay.
Điều 29. Nhằm mục đích thúc đẩy việc giải quyết các vụ việc, mỗi năm Tòa án lập ra một ban có thành phần gồm 5 thẩm phán, theo yêu cầu của các bên, ban này có thể xem xét giải quyết vụ việc theo trình tự xét xử sơ bộ. Được chọn thêm 2 thẩm phán để thay những thẩm phán thấy mình không có thể tham gia vào các phiên họp.
Điều 30.
1. Tòa án vạch ra nội quy quy định nguyên tắc thực hiện chức năng của mình, Tòa án còn quy định các nguyên tắc xét xử.
2. Trong nội quy của Tòa án có thể nêu lên việc tham gia của các phụ phẩm vào các phiên họp của Tòa án hay của các ban của Tòa án những không có quyền biểu quyết.
Điều 31.
1. Các Thẩm phán có quốc tịch của một trong các bên được quyền tham gia vào các phiên họp về một vụ việc đang được Toà án tiến hành.
2. Nếu trong thành phần có mặt xét xử của một Thẩm phán có quốc tịch của một bên thì bên kia có thể cử một người theo sự lựa chọn của mình để tham gia vào việc xét xử. Người đó được lựa chọn trong số những người được đưa ra ứng cử theo như đã nêu ở điều 4 và 5.
3, Nếu trong thành phần có mặt xét xử không có một Thẩm phán nào của các bên thì mỗi bên có thể chọn Thẩm phán theo như đã nêu ở điểm 2 của điều này.
4. Quyết nghị của điều này được áp dụng trong trường hợp đã được nêu ở các điều 26 và 29, trong trường hợp ấy Chủ tịch yêu cầu một hay, trong trường hợp cần thiết, 2 thành viên của Tòa án trong thành phần của các ban dành chỗ của mình cho ủy viên của Toà án có quốc tịch của các bên hữu quan; hay khi những người này vắng mặt, trong trường hợp không thể tham gia, sẽ dành chỗ cho các thẩm phán được các bên lựa chọn.
5. Nếu ở một bên có một vấn đề chung thì các bên, do điều đó có liên quan đến việc áp dụng các nghị quyết trước, được xem như là một bên. Trong trường hợp có các mối nghi ngờ về vấn đề này thì nó sẽ được Tòa án xác định và giải quyết.
6. Các thẩm phán được lựa chọn theo điểm 2, 3, 4 của điều này cần phải thỏa mãn các điều kiện đòi hỏi của điều 2 và điểm 2 của điều 17 và các điều 20, 24 của bản quy chế này. Họ được tham gia một cách bình đẳng với các đồng sự của họ trong việc tham gia nghị quyết.
Điều 32.
1. Các ủy viên của Tòa án lĩnh lương cả năm.
2. Chủ tịch Tòa án lĩnh phụ cấp đặc biệt cả năm.
3. Phó Chủ tịch lĩnh phụ cấp đặc biệt từng ngày trong thời gian thừa hành chức vụ Chủ tịch.
4. Những Thẩm phán được lựa chọn theo như đã nêu ở điều 31 mà không phải là ủy viên của Tòa án thì lĩnh thù lao từng ngày của họ thừa hành nhiệm vụ chức trách của mình.
5. Các khoản lương, phụ cấp, thù lao do Đại hội đồng ấn định. Nó có thể ít hơn trong thời gian phục vụ.
6. Lương của thư ký do Đại hội đồng ấn định theo đề xuất của Tòa án.
7. Các nguyên tắc do Đại hội đồng đặt ra quy định các điều kiện trong đó các ủy viên của Tòa án và thư ký Tòa án được hưởng tiền hưu trí khi họ về hưu cũng như các điều kiện mà các ủy viên và thư ký Tòa án lĩnh phí tổn đi đường.
8. Các khoản lương, phụ cấp, thù lao đã nêu ở trên đây được miễn mọi khoản đóng góp.
Điều 33. Liên hợp quốc chịu chi phí của Tòa án theo như Đại hội đồng đã quy định.
Chương 2.
QUYỀN HẠN CỦA TÒA ÁN
Điều 34.
1. Chỉ các quốc gia mới là các bên trong các vụ tranh chấp được Tòa án giải quyết.
2. Với các điều kiện của bản quy chế này, Tòa án có thể được hỏi các tổ chức quốc tế công khai về những tin tức có liên quan đến vụ tranh chấp mà Tòa án đang xem xét, cũng như thu nhập các tin tức cần thiết được tổ chức đó chuyển đến theo sáng kiến riêng của họ.
3. Khi có một vụ tranh chấp đang được Tòa án giải quyết. Tòa án phải giải thích văn kiện pháp lý cho một tổ chức quốc tế nào đó hay một điều ước quốc tế đã công nhận hiệu lực của văn bản đó. Thư ký Tòa án thông báo và gửi cho tổ chức quốc tế đó bản sao tất cả các hồ sơ giấy tờ đó.
Điều 35.
1. Tòa án giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia là thành viên của quy chế này.
2. Các điều kiện Tòa án giải quyết tranh chấp đối với các quốc gia khác sẽ do Hội đồng bảo an quy định theo các điều khoản cụ thể từ các điều ước quốc tế hiện hành. Các điều kiện này trong mọi trường hợp không được để các bên ở vị trí bất bình đẳng trước Tòa án.
3. Khi có một quốc gia không phải là thành viên của Liên hiệp quốc nhưng lại là một bên trong một vụ tranh chấp thì Tòa án quy định số tiền mà bên đó phải đóng góp vào việc chi phí của Tòa án. Quyết định này không áp dụng nếu như quốc gia đó đã tham gia vào việc chi phí của Tòa án.
Điều 36.
1. Tòa án tiến hành xét tất cả các vụ tranh chấp mà các bên đưa ra và tất cả các vấn đề được nêu riêng trong hiến chương Liên hợp quốc hay các điều ước quốc tế hiện hành.
2. Các quốc gia thành viên của quy chế này bất kỳ lúc nào cũng có thể tuyên bố rằng họ thừa nhận vô điều kiện (ifso facto) đối với mỗi quốc gia khác bất kỳ đã nhận nhiệm vụ như vậy: thẩm quyền xét xử của Tòa án là nghĩa vụ xét xử về tất cả vấn đề tranh chấp pháp lý có liên quan đến:
a. Giải thích điều ước.
b. Vấn đề bất kỳ liên quan đến Luật quốc tế.
c. Có sự kiện, nếu về sau xác định được vi phạm nghĩa vụ quốc tế.
d. Tính chất mà mức độ bồi hoàn do vi phạm nghĩa vụ quốc tế.
3. Những tuyên bố nêu trên có thể là không điều kiện hay trong điều kiện có thiện cảm từ phía các quốc gia này hay quốc gia khác hay trong thời gian nhất định.
4. Những bản tuyên bố đó được chuyển tới Tổng thư ký bảo quản. Tổng thư ký gửi các bản sao cho các thành viên của quy chế này và cho thư ký Tòa án.
5. Các tuyên bố dựa trên cơ sở của điều 36 quy chế của Thường trực Pháp viện quốc tế vẫn còn có hiệu lực, thì trong quan hệ giữa các thành viên của quy chế này, các tuyên bố đó được coi như công nhận thẩm quyền xét xử của Tòa án quốc tế và là nghĩa vụ đối với mình trong thời hiện tại có hiệu lực của các tuyên bố và phù hợp với các điều kiện đã trình bày trong đó.
6. Trong trường hợp tranh chấp về quyền xét xử được đưa đến Tòa án thì vấn đề đó sẽ được Tòa án xác định và giải quyết.
Điều 37. Trong tất cả các trường hợp khi điều ước quốc tế hiện hành dự kiến chuyển vụ tranh chấp cho một tòa án được Hội quốc liên hay Thường trực pháp viện quốc tế thiết lập thì vụ tranh chấp giữa các quốc gia thành viên của quy chế này phải được chuyển đến Tòa án quốc tế.
Điều 38.
1. Tòa án, với chức năng là giải quyết phù hợp với luật quốc tế các vụ tranh chấp được chuyển đến Tòa án, sẽ áp dụng:
a. Các điều ước quốc tế, chung hoặc riêng, đã quy định về những nguyên tắc được các bên đang tranh chấp thừa nhận;
b. Các tập quán quốc tế như những chứng cứ thực tiễn chung, được thừa nhận như những quy phạm pháp luật;
c. Nguyên tắc chung của luật được các quốc gia văn minh thừa nhận
d. Với những điều kiện nêu ở điều 59, các án lệ và các học thuyết của các chuyên gia có chuyên môn cao nhất về luật quốc tế của các quốc gia khác nhau được coi là phương tiện để xác định các qui phạm pháp luật.
2. Quyết định này không nằm ngoài quyền giải quyết vụ việc của Tòa án, xác định như vậy (ex aequo et bono), nếu các bên thỏa thuận điều này.
Chương 3.
THỦ TỤC XÉT XỬ
Điều 39.
1. Ngôn ngữ chính thức của Tòa án là tiếng Pháp và Anh. Nếu các bên thỏa thuận tiến hành giải quyết vụ việc bằng tiếng Pháp thì ra nghị quyết bằng tiếng Pháp. Nếu các bên thỏa thuận tiến hành giải quyết vụ việc bằng tiếng Anh thì ra nghị quyết bằng tiếng Anh.
2. Khi không có thỏa thuận nào về việc sẽ dùng ngôn ngữ nào thì mỗi bên được sự gợi ý của Tòa án, có thể dùng ngôn ngữ mà bên đó thích. Nghị quyết của Tòa án được làm bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Trong trường hợp này Tòa án đồng thời xác định văn bản nào trong số 2 văn bản đó là chính thức.
3. Theo yêu cầu của một bên bất kỳ nào, Tòa án có nhiệm vụ cho bên đó có quyền dùng một ngôn ngữ khác ngoài tiếng Pháp và tiếng Anh.
Điều 40.
1. Các vụ tranh chấp được đưa đến Tòa án, không phụ thuộc vào các tình tiết, hay là dựa vào các thỏa thuận đặc biệt, hay là dựa vào đơn viết gửi cho thư ký Tòa án. Trong cả 2 trường hợp cần phải nêu rõ đối tượng của sự tranh chấp và các bên tranh chấp.
2. Thư ký Tòa án nhanh chóng báo cáo cho tất cả các bên hữu quan.
3. Thư ký Tòa án cũng thông báo cho các thành viên Liên hợp quốc thông qua Tổng thư ký Liên hợp quốc, và bất cứ quốc gia nào khác đều có quyền tham gia phiên tòa.
Điều 41.
1. Nếu như, theo ý kiến của Tòa án, các tình tiết đòi hỏi, Tòa án có quyền nêu rõ những biện pháp tạm thời cần thiết để đảm bảo quyền của mỗi bên.
2. Từ lúc này cho đến khi có quyết định cuối cùng phải thông báo về các biện pháp đã đề xuất được chuyển đến các bên và Hội đồng bảo an.
Điều 42.
1. Các bên phát biểu thông qua đại diện của mình.
2. Họ có thể sử dụng trước Tòa án sự giúp đỡ của trạng sư, luật sư.
3. Các đại diện, luật sư, trạng sư đại diện cho các bên ở Tòa án được sử dụng quyền ưu đãi và bất khả xâm phạm cần thiết để họ thực hiện được nhiệm vụ của mình.
Điều 43.
1. Thủ tục xét xử bao gồm 2 phần: thủ tục viết và thủ tục nói.
2. Thủ tục viết bao gồm viết thông báo cho Tòa án và cho các bên các bản bị vong lục, và nếu cần, những câu trả lời các vấn đề đó cũng như tất cả các giấy tờ và tài liệu xác nhận các bản đó.
3. Tất cả các thông báo này được chuyển qua thư ký theo trình tự và thời hạn mà Tòa án đã quy định.
4. Mọi giấy tờ của một trong các bên đệ trình cần phải được báo cho phía bên kia bằng bản sao có chứng thực.
5. Thủ tục nói là Tòa án nghe các nhân chứng, các giám định viên, các đại diện, các luật sư và các trạng sư.
Điều 44.
1. Để chuyển tất cả các thông báo cho những người khác trừ các đại diện, luật sư, trạng sư thì Tòa án phải gửi trực tiếp cho chính phủ của quốc gia mà trên lãnh thổ quốc gia đó Tòa án muốn chuyển thông báo.
2. Nguyên tắc ấy cũng được áp dụng trong trường hợp khi cần thiết phải áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ tại chỗ.
Điều 45. Việc nghe vụ án được tiến hành dưới sự chủ trì của Chủ tịch hay nếu Chủ tịch không thể chủ trì được thì Phó Chủ tịch. Nếu như không có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và không có ai có thể chủ trì thì Thẩm phán nhiều tuổi nhất có mặt sẽ chủ trì.
Điều 46. Việc nghe vụ án ở Tòa án được tiến hành công khai, nếu như không theo một quyết nghị khác của Tòa án hay nếu như các bên yêu cầu không cho phép khán giả được đến dự.
Điều 47.
1. Mỗi phiên họp xét xử đều ghi biên bản được Thư ký hay Chủ tịch ký.
2. Chỉ có biên bản đó mới là chính thức.
Điều 48. Tòa án điều khiển hướng đi của vụ án, xác định hình thức và thời hạn mà trong đó mỗi bên cần phải trình bày hết lý lẽ của mình, và áp dụng mọi biện pháp có liên quan đến vụ việc thu thập chứng cứ.
Điều 49. Thậm chí trước khi bắt đầu nghe vụ án, Tòa án có thể yêu cầu các đại diện đưa ra văn bản bất kỳ hay một sự giải thích, trong trường hợp từ chối phải lập biên bản.
Điều 50. Tòa án trong thời gian bất kỳ có thể giao việc tiến hành điều tra hay giám định cho một người bất kỳ, cho đồng sự, cho phòng, ủy ban hay cho một tổ chức nào khác do mình lựa chọn.
Điều 51. Trong khi nghe vụ án, tất cả các câu hỏi có liên quan đến vụ án được nêu ra cho các nhân chứng và các giám định viên phải theo đúng các điều kiện đã được Tòa án quy định trong Quy chế đã được nhắc tới trong điều 30.
Điều 52. Sau khi đã thu thập chứng cứ, trong thời hạn đã được ấn định để làm việc đó. Tòa án có thể không nhận tất cả các chứng cứ giấy tờ và lời nói mà một trong các bên muốn đưa ra không có sự thỏa thuận của bên kia.
Điều 53.
1. Nếu một trong các bên không trình diện trước Tòa án không đưa ra lý lẽ của mình thì bên kia có thể yêu cầu Tòa án giải quyết theo hướng có lợi cho mình.
2. Trước khi xác nhận lời thỉnh cầu đó, Tòa án có nhiệm vụ phải biết rõ không phải sự cần thiết của vụ án đối với Tòa án, theo các điều 36 và 37, mà cần phải thấy rõ là yêu sách đó có đủ cơ sở thực tế và pháp lý hay không.
Điều 54.
1. Khi các đại diện, các luật sư, trạng sư dưới sự chủ trì của Tòa án, trình bày xong lời giải thích của mình về vụ án, Chủ tịch tuyên bố là đã nghe hết.
2. Tòa án sẽ nghỉ để thảo luận quyết định.
3. Phần nghị án của Tòa án được tiến hành bằng các phiên họp không công khai và được giữ bí mật.
Điều 55.
1. Tất cả các vấn đề được quyết định bằng đại đa số số phiếu của Thẩm phán có mặt.
2. Trong trường hợp ngang bằng số phiếu thì phiếu của Chủ tịch hay Thẩm phán thay thế Chủ tịch có giá trị quyết định.
Điều 56.
1. Trong phán quyết cần phải đưa vào những ý kiến mà trên cơ sở đó ra phán quyết.
2. Phán quyết ghi tên các thẩm phán là những người thông qua phán quyết đó.
Điều 57. Nếu trong phán quyết từng phần hay toàn phần không biểu thị được ý kiến nhất trí của các Thẩm phán thì mỗi Thẩm phán có quyền nêu ý kiến riêng của mình.
Điều 58. Phán quyết được Chủ tịch và Thư ký Tòa án ký. Nó được đọc trong các phiên họp công khai của Tòa án sau khi thông báo chính thức cho các đại diện các bên.
Điều 59. Phán quyết của Tòa án chỉ có hiệu lực đối với các quốc gia tham gia vào vụ tranh chấp và coi trọng vụ tranh chấp đó.
Điều 60. Phán quyết đã làm xong thì không kháng cáo trong trường hợp có sự tranh cãi về ý nghĩa hay về phạm vi phán quyết thì Tòa án phải giải thích các vấn đề đó theo yêu cầu của bất kỳ bên nào.
Điều 61.
1. Yêu cầu phúc thẩm phán quyết có thể đưa ra trên cơ sở đó những tình tiết mới được phát hiện mà về tính chất của nó có ảnh hưởng quyết định đến xuất phát điểm của vụ tranh chấp và những tình tiết đó cả Tòa án, cả bên yêu cầu xem xét lại để không biết, với điều kiện tất yếu là việc không biết đó không phải là hậu quả của sự thiếu thận trọng.
2. Việc mở phúc thẩm là do quyết định của Tòa án khi xác nhận có tình tiết mới công nhận tính chất làm cơ sở cho việc phúc thẩm vụ tranh chấp và do đó thông qua yêu cầu về phúc thẩm.
3. Tòa án có thể yêu cầu để các điều kiện của phán quyết được thi hành, trước khi Tòa án tiến hành phúc thẩm vụ án
4. Yêu cầu phúc thẩm vẫn phải được công bố thời hạn chậm nhất là 6 tháng sau khi phát hiện ra các tình tiết mới.
5. Không một yêu cầu nào về phúc thẩm được xét sau 10 năm kể từ lúc ra phán quyết.
Điều 62.
1. Nếu như một quốc gia nào đó thấy rằng phán quyết về vụ tranh chấp có thể động chạm đến lợi ích nào đó có tính chất pháp lý của quốc gia đó thì nước đó có thể yêu cầu Tòa án quyết định cho tham gia vào vụ việc đó.
2. Quyết định một yêu cầu như vậy thuộc về Tòa án.
Điều 63.
1. Trong trường hợp xảy ra các vấn đề phải giải thích bản điều ước mà trong đó, trừ các bên hữu quan của vụ tranh chấp có các quốc gia khác tham gia, thư ký Tòa án phải nhanh chóng báo cho tất cả các quốc gia này.
2. Mỗi quốc gia trong số các quốc gia này sau khi đã nhận được thông báo, có quyền tham gia vào vụ việc, và nếu quốc gia đó sử dụng quyền này, thì việc giải thích được ghi trong phán quyết cũng nhất thiết như nhau.
Điều 64. Khi không có một quy định nào khác của Tòa án thì mỗi bên phải chịu án phí của riêng mình.
Chương 4.
NHỮNG KẾT LUẬN TƯ VẤN
Điều 65.
1. Tòa án có thể có những kết luận tư vấn về một vấn đề pháp luật bất kỳ nào theo yêu cầu của một cơ quan bất kỳ được chính Hiến chương Liên hợp quốc hay theo đúng bản quy chế này, cho toàn quyền được yêu cầu.
2. Các vấn đề mà kết luận tư vấn của Tòa án được sửa chữa dựa theo nó, được trình lên Tòa án bằng đơn trình bày chính xác vấn đề để yêu cầu kết luận, kèm theo tất cả tài liệu có thể dùng để làm sáng tỏ vấn đề.
Điều 66.
1. Thư ký Tòa án nhanh chóng báo tin về đơn có yêu cầu kết luận tư vấn cho tất cả các quốc gia có quyền tham gia vào Tòa án.
2.Ngoài ra, thư ký Tòa án bằng cách giữ đặc biệt và trực tiếp thông báo cho một quốc gia bất kỳ có quyền đến Tòa án cũng như cho một tổ chức quốc tế bất kỳ nào có thể (theo ý kiến của Chủ tịch Tòa án, nếu như Tòa án không họp) cung cấp những tin tức về vấn đề cụ thể nào đó, rằng Tòa án sẵn sàng nhận trong thời hạn Chủ tịch đã quy định, tất cả những tài liệu văn bản báo cáo bằng lời trong phiên họp công khai được triệu tập nhằm mục đích đó.
3. Nếu như quốc gia có quyền đến Tòa án không nhận được thông báo đặc biệt đã được nhắc nhở ở điểm 2 của điều này thì quốc gia đó có thể bày tỏ nguyện vọng được đệ trình bản báo cáo bằng văn bản hay được nghe Tòa án thông qua quyết định về các vấn đề đó.
4. Các quốc gia và các tổ chức đệ trình các bản báo cáo bằng văn bản hay bằng lời hay cả những quốc gia và những tổ chức này được phép thảo luận các bản báo cáo của các quốc gia hay các tổ chức khác ở hình thức, giới hạn và trong thời hạn do Tòa án hay nếu như Tòa án không họp, Chủ tịch Tòa án quy định trong từng trường hợp riêng biệt. Để đạt được mục đích này Thư ký Tòa án thông báo, trong thời hạn cần thiết, tất cả những bản báo cáo bằng văn bản đó cho các quốc gia và các tổ chức đã gửi những bản báo cáo tương tự.
Điều 67. Tòa án đưa ra kết luận tư vấn của mình trong phiên họp công khai đã được báo trước cho Tổng thư ký và các đại diện của các thành viên Liên hợp quốc trực tiếp có liên quan và cho đại diện của các quốc gia và các tổ chức quốc tế khác.
Điều 68. Trong khi thực hiện các chức năng tư vấn của mình. Tòa án, ngoài những điều đã nêu ra, lấy các phán quyết có liên quan đến các vụ việc tranh chấp trong quy chế này làm chủ đạo, ở mức độ mà Tòa án công nhận là chúng áp dụng được.
Chương 5.
SỬA ĐỔI
Điều 69. Những sửa đổi quy chế này được đưa vào theo đúng trình tự đã được Hiến chương Liên hợp quốc nêu lên đối với việc sửa đổi quy chế, tuy nhiên, phải tuân theo tất cả những nguyên tắc mà có thể được Đại hội đồng quy định theo đề nghị của Hội đồng bảo an về việc tham gia của các quốc gia không phải là thành viên của Liên hợp quốc nhưng lại là thành viên của quy chế.
Điều 70. Tòa án có quyền đề nghị những điều sửa đổi quy chế này mà Tòa án xét cần thiết, phải báo cáo bằng văn bản những điều đó cho Tổng thư ký để tiếp tục xem xét phù hợp với các nguyên tắc đã được trình bày ở điều 69.