Báo cáo 246/BC-UBTVQH12 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hoá

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • Tiếng Anh
  • Hiệu lực
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Nội dung MIX

    - Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…

    - Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.

  • Tải về
Mục lục
Tìm từ trong trang
Lưu
Theo dõi văn bản

Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.

Báo lỗi
Ghi chú

thuộc tính Báo cáo 246/BC-UBTVQH12

Báo cáo 246/BC-UBTVQH12 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hoá
Cơ quan ban hành: Ủy ban Thường vụ Quốc hộiSố công báo:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Số hiệu:246/BC-UBTVQH12Ngày đăng công báo:Đang cập nhật
Loại văn bản:Báo cáoNgười ký:Tòng Thị Phóng
Ngày ban hành:17/06/2009Ngày hết hiệu lực:Đang cập nhật
Áp dụng:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản để xem Ngày áp dụng. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Tình trạng hiệu lực:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Lĩnh vực: Văn hóa-Thể thao-Du lịch
Tình trạng hiệu lực: Đã biết
Ghi chú
Ghi chú: Thêm ghi chú cá nhân cho văn bản bạn đang xem.
Hiệu lực: Đã biết
Tình trạng: Đã biết

UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

-------------------

Số: 246/BC-UBTVQH12

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

----------------------

Hà Nội, ngày 17 tháng 6 năm 2009

 

 

BÁO CÁO

GIẢI TRÌNH, TIẾP THU, CHỈNH LÝ DỰ THẢO LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG

MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT DI SẢN VĂN HÓA

 

 

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Tại phiên họp tổ chiều 28/5/2009 và phiên họp toàn thể sáng 02/6/2009, Quốc hội đã thảo luận và cho ý kiến về Dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa (DSVH).

Đa số ý kiến các vị đại biểu Quốc hội tán thành về cơ bản nội dung sửa đổi, bổ sung thể hiện trong Dự thảo Luật, đồng thời đã góp ý vào một số điều, khoản cụ thể.

Sau phiên họp ngày 02/6/2009, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng, cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội để hoàn thiện Dự thảo Luật trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp này.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa như sau:

1. Về di sản văn hoá phi vật thể

1.1. Một số vấn đề chung

- Có ý kiến đề nghị sửa đổi định nghĩa DSVH phi vật thể tại khoản 1 Điều 4 Luật DSVH cho phù hợp với định nghĩa của Công ước về bảo vệ DSVH phi vật thể (Công ước UNESCO 2003) mà Việt Nam đã gia nhập. Tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH thể hiện lại khái niệm này như sau:“Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan; có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng; không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác.”.

- Có ý kiến cho rằng đối với DSVH phi vật thể cũng phải xác định yếu tố gốc để bảo tồn, tránh làm biến dạng các DSVH đó.

UBTVQH nhận thấy một trong những đặc trưng của DSVH phi vật thể là không ngừng được tái tạo và có nhiều dị bản. Tuỳ theo thời gian, không gian, chủ thể nắm giữ, giới thiệu và trình diễn, các nghi lễ, tập tục, bài hát, điệu múa, bài thuốc dân gian,... không ngừng  được bổ sung và tái tạo. Điều này đã được đề cập trong định nghĩa về DSVH phi vật thể tại Công ước UNESCO 2003 và chính nó đã tạo nên nét đặc sắc của DSVH phi vật thể. Do vậy, rất khó xác định yếu tố gốc của DSVH phi vật thể và quy định việc bảo tồn yếu tố gốc. Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho phép không quy định về yếu tố gốc của DSVH phi vật thể trong Luật này.

- Có ý kiến cho rằng DSVH phi vật thể cũng cần được xếp hạng như DSVH vật thể. Ngược lại, có ý kiến đề nghị không xếp hạng DSVH phi vật thể mà chỉ nên cấp bằng công nhận DSVH phi vật thể quốc gia.

UBTVQH nhận thấy DSVH phi vật thể là những giá trị tinh thần thiêng liêng, gắn bó mật thiết với mỗi cộng đồng, làm nên bản sắc của cộng đồng đó. Việc so sánh DSVH phi vật thể của cộng đồng này với cộng đồng khác để xếp hạng chúng theo giá trị và tầm ảnh hưởng là rất khó thực hiện, đồng thời cũng không phù hợp với nguyên tắc tôn trọng đa dạng văn hoá. Điều 12 Công ước UNESCO 2003 chỉ quy định việc lập các danh mục thống kê. Theo tinh thần này, Dự thảo Luật đã quy định việc lập Danh mục DSVH phi vật thể quốc gia. Tiếp thu một phần ý kiến đại biểu, UBTVQH đã chỉ đạo hoàn thiện quy định về việc đưa DSVH phi vật thể vào Danh mục DSVH phi vật thể quốc gia, cấp chứng nhận di sản được đưa vào Danh mục DSVH phi vật thể quốc gia để đáp ứng nguyện vọng của cử tri, đồng thời đảm bảo phù hợp với tinh thần của Công ước UNESCO 2003.

- Có ý kiến đề nghị không quy định việc đưa DSVH phi vật thể ra khỏi Danh mục DSVHPVT quốc gia.

Tiếp thu một phần ý kiến đại biểu, UBTVQH đã sửa lại quy định này theo hướng chỉ đưa ra khỏi Danh mục DSVH phi vật thể quốc gia những trường hợp sau khi được đưa vào Danh mục, phát hiện không đủ tiêu chuẩn do có sai lầm trong quá trình lập và xem xét hồ sơ khoa học.

1.2. Trách nhiệm và biện pháp bảo vệ, phát huy giá trị DSVH phi vật thể

Phần lớn ý kiến đại biểu đề nghị quy định trách nhiệm và biện pháp cụ thể  của Nhà nước nhằm bảo vệ và phát huy giá trị DSVH phi vật thể.

Tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH đã chỉ đạo sửa đổi, bổ sung 5/11 điều về DSVH phi vật thể, cụ thể như sau:

- Sửa đổi, bổ sung 5 khoản vào Điều 17 (chính sách bảo vệ, phát huy giá trị DSVH phi vật thể);

- Sửa đổi, bổ sung 3 khoản vào Điều 18 (trách nhiệm, thẩm quyền, trình tự, thủ tục lập Danh mục DSVH phi vật thể quốc gia);

- Sửa đổi, bổ sung 3 khoản vào Điều 21 (chính sách đối với tiếng nói, chữ viết của cộng đồng các dân tộc Việt Nam);

- Sửa đổi, bổ sung 4 khoản vào Điều 25 (duy trì và phát huy giá trị văn hoá của lễ hội truyền thống);

- Sửa đổi, bổ sung 2 khoản vào Điều 26 (chính sách và trách nhiệm của Nhà nước đối với nghệ nhân dân gian).

2. Về di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh

2.1. Một số vấn đề chung

- Hầu hết các đại biểu đều nhất trí với việc thay khái niệm “yếu tố nguyên gốc” trong Luật DSVH hiện hành bằng khái niệm “yếu tố gốc cấu thành di tích” nhưng cho rằng quy định “yếu tố gốc cấu thành di tích” như trong dự thảo Luật là quá rộng, dễ dẫn đến việc vận dụng tùy tiện trong công tác bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích.

Tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH đã cho sửa lại khái niệm này tại khoản 15 Điều 4 mới như sau: “Yếu tố gốc cấu thành di tích là yếu tố có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thẩm mỹ, thể hiện đặc trưng của di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh.”.

- Có ý kiến cho rằng Luật DSVH chưa đề cập đến một số đối tượng như nhà vườn, phố cổ, làng cổ, di sản đô thị, công viên địa chất,...

UBTVQH nhận thấy Điều 28 Luật DSVH hiện hành đã quy định di tích lịch sử - văn hoá và danh lam thắng cảnh bao gồm “quần thể các công trình kiến trúc” và “khu vực thiên nhiên có giá trị khoa học về địa chất, địa mạo, địa lý, đa dạng sinh học, hệ sinh thái đặc thù hoặc khu vực thiên nhiên chứa đựng những dấu tích vật chất về các giai đoạn phát triển của trái đất”. Quy định này bao quát được các đối tượng như nhà vườn, phố cổ, làng cổ, di sản đô thị, công viên địa chất và trên thực tế đã được vận dụng để xếp hạng những di tích này. Tuy nhiên, để  thể hiện được đầy đủ hơn các loại hình di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh, UBTVQH đã cho bổ sung vào Điều 28 Luật DSVH một số loại hình như “công trình kiến trúc - nghệ thuật, quần thể kiến trúc, tổng thể kiến trúc đô thị và địa điểm cư trú có giá trị tiêu biểu cho một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử phát triển kiến trúc - nghệ thuật”.

- Có ý kiến đề nghị không gộp “di tích lịch sử - văn hóa” và “danh lam thắng cảnh” vào khái niệm “di tích” với những quy định chung về yếu tố gốc cấu thành di tích, khu vực bảo vệ, nguyên tắc bảo vệ, tu bổ, phục hồi,... mà nên tách thành những loại hình riêng, với những quy định riêng phù hợp với mỗi loại hình.

UBTVQH thấy rằng di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh tuy có khác nhau nhưng nhiều khi cũng khó phân biệt rạch ròi. Phần lớn danh lam thắng cảnh đều có những công trình do con người sáng tạo nên. Bên cạnh đó, không hiếm cảnh quan thiên nhiên trở thành DSVH là do gắn với các anh hùng, danh nhân. Mặt khác, giữa danh lam thắng cảnh với di tích lịch sử - văn hoá cũng có nhiều điểm chung về yếu tố gốc cấu thành di tích, khu vực bảo vệ di tích, yêu cầu bảo vệ và phát huy giá trị,... nên có thể áp dụng những biện pháp quản lý chung. Thực tiễn cho thấy việc quản lý và tổ chức các hoạt động chuyên môn nghiệp vụ theo quy định của Luật DSVH đối với hai đối tượng này trong nhiều năm qua chưa nảy sinh bất cập. Do vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ quy định như trong Dự thảo Luật.

- Có ý kiến đề nghị làm rõ hơn tiêu chí xếp hạng di tích.

Tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH đã chỉ đạo sửa đổi, bổ sung Điều 29 như trong Dự thảo mới của Luật.

- Có ý kiến cho rằng Luật DSVH hiện hành chưa quy định việc kiểm kê đối với di tích và lập hồ sơ khoa học để đề nghị xếp hạng di tích, trong khi đó, trên thực tế, tại các địa phương đã và đang triển khai công việc này.

UBTVQH nhận thấy việc bổ sung quy định trên là cần thiết, phù hợp với thực tiễn bảo vệ và phát huy giá trị DSVH của các địa phương nên đã bổ sung quy định này vào khoản 1 Điều 31.

2.2. Các khu vực bảo vệ di tích

- Có ý kiến cho rằng khu vực bảo vệ I của di tích phải gồm “di tích” và “vùng có các yếu tố gốc cấu thành di tích”.

Về vấn đề này, UBTVQH xin được giải trình như sau: Theo khoản 15 Điều 4 Dự thảo Luật thì di tích được tạo nên từ chính các yếu tố gốc cấu thành di tích. Ví dụ, di tích vịnh Hạ Long bao gồm 1960 hòn đảo lớn nhỏ và toàn bộ diện tích mặt nước biển trong khu vực rộng khoảng 1.553km², trong đó vùng lõi (khu vực bảo vệ I) của Vịnh có diện tích 334km² quần tụ 775 hòn đảo. Các đảo và mặt nước biển là những yếu tố gốc cấu thành di tích vịnh Hạ Long. Tương tự, di tích nhà thờ Phát Diệm (Kim Sơn, Ninh Bình) được cấu thành từ hàng loạt yếu tố gốc như tam quan, nhà thờ chính, nhà thờ đá, hang động giả,... Trong cả hai trường hợp đã dẫn, không thể xác định được di tích tách rời các yếu tố gốc cấu thành và các yếu gốc cấu thành tách rời di tích. Nếu quy định khu vực bảo vệ I gồm “di tích và vùng có các yếu tố gốc cấu thành di tích” như trong Luật DSVH hiện hành thì sẽ trùng lặp về nghĩa. Do vậy, để đảm bảo tính lô gích của định nghĩa, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ quy định như trong Dự thảo Luật.

- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về việc cắm mốc giới xác định các khu vực bảo vệ di tích trên thực địa.

UBTVQH thấy rằng ý kiến của đại biểu là xác đáng, đã cho bổ sung quy định này vào khoản 2 Điều 32 của Luật.

- Có ý kiến cho rằng khu vực bảo vệ I của di tích phải được bảo vệ nguyên trạng, không nên cho phép xây dựng bất kỳ công trình nào, kể cả trong trường hợp đặc biệt.

UBTVQH thấy rằng theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì nhiều di tích chỉ có khu vực bảo vệ I. Việc xây dựng một số công trình thiết yếu phục vụ công tác bảo vệ và phát huy giá trị di tích trong khu vực bảo vệ I của di tích (như nhà trưng bày, nhà vệ sinh, hệ thống đèn chiếu sáng,...) là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, cân nhắc ý kiến đại biểu, UBTVQH đã chỉ đạo thể hiện lại quy định này như sau để tránh sự vận dụng tùy tiện: “Trường hợp đặc biệt có yêu cầu xây dựng công trình trực tiếp phục vụ việc bảo vệ và phát huy giá trị di tích ở khu vực bảo vệ I phải được sự đồng ý bằng văn bản của cấp có thẩm quyền xếp hạng di tích đó”.

2.3. Bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích

- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định tổ chức, cá nhân thực hiện việc bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích phải có chứng chỉ hành nghề; có ý kiến cho rằng cần phân biệt việc tu bổ, phục hồi quy mô lớn với việc sửa chữa nhỏ lẻ, để quy định cho phù hợp, không nhất thiết công trình bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích nào cũng đều phải lập dự án; một số ý kiến đề nghị bổ sung quy định trước khi thực hiện dự án bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích, phải công bố công khai quy hoạch, dự án để xin ý kiến nhân dân và để người dân cùng tham gia giám sát việc thực hiện.

UBTVQH đã chỉ đạo sửa đổi, bổ sung Điều 34, thể hiện đầy đủ các yêu cầu nói trên của đại biểu Quốc hội.

- Có ý kiến đề nghị giao thẩm quyền phê duyệt dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích quốc gia đặc biệt cho Thủ tướng Chính phủ để phù hợp với thẩm quyền phê duyệt việc xây dựng trong các khu vực bảo vệ I của di tích quy định tại khoản 3 Điều 32. Có ý kiến lại đề nghị giao thẩm quyền phê duyệt dự án bảo quản, tu bổ, tôn tạo di tích cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, không nên giao Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ VHTT&DL.

UBTVQH xin được giải trình như sau: Điểm b khoản 1 Điều 34 mới quy định việc bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích cần được lập thành dự án trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt, trừ trường hợp sửa chữa nhỏ không ảnh hưởng đến yếu tố gốc. Theo quy định tại Luật Xây dựng và Luật Đầu tư hiện hành thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt dự án là cơ quan chủ quản đầu tư. Vì quy định của Luật Xây dựng, Luật Đầu tư có nhiều điểm không phù hợp với thực tế bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích nên khoản 3 Điều 34 mới dự kiến giao Chính phủ quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục phê duyệt các dự án này. Như vậy, điểm b khoản 1 Điều 34 không giao cụ thể trách nhiệm phê duyệt dự án cho cấp nào mà chỉ quy định trước khi phê duyệt dự án phải có sự đồng ý bằng văn bản của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc của Bộ trưởng Bộ VHTT&DL, tùy hạng di tích. Tuy nhiên, để quy định phù hợp với thực tế bảo tồn, tu bổ, phục hồi di tích, UBTVQH đã cho thay cụm từ “Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh” ở Điều này bằng cụm từ “cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hóa, thể thao, du lịch cấp tỉnh”.

Về ý kiến đại biểu so sánh quy định tại khoản 1 Điều 34 với khoản 3 Điều 32, UBTVQH nhận thấy việc bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích khác với việc xây dựng thêm công trình trong các khu vực bảo vệ di tích, đặc biệt là xây dựng thêm công trình ở khu vực bảo vệ I. Để bảo vệ nguyên trạng mặt bằng và không gian ở khu vực I, Dự thảo Luật quy định trong trường hợp đặc biệt cần xây dựng công trình trực tiếp phục vụ bảo vệ và phát huy giá trị di tích ở khu vực I, phải có sự đồng ý bằng văn bản của cấp có thẩm quyền xếp hạng di tích đó. Còn việc xây dựng công trình phục vụ bảo vệ và phát huy giá trị di tích ở khu vực II chỉ cần có văn bản đồng ý của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với di tích cấp tỉnh, của Bộ trưởng Bộ VHTT&DL đối với di tích quốc gia, di tích quốc gia đặc biệt, tương tự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 34.

Vì những lý do đã nêu, xin đề nghị Quốc hội cho giữ quy định như trong Dự thảo Luật.

- Có ý kiến đề nghị xem xét lại việc bãi bỏ Điều 35 vì Điều này quy định thẩm quyền phê duyệt dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích; nếu bãi bỏ thì sẽ không chặt chẽ về pháp luật.

Tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH đã bổ sung quy định về thẩm quyền phê duyệt dự án bảo quản, tu bổ và phục hồi di tích vào khoản 1 và khoản 3 Điều 34 mới.

- Nhiều đại biểu đề nghị quy định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân lấn chiếm khu vực bảo vệ di tích hoặc vi phạm nguyên tắc “bảo tồn tối đa các yếu tố gốc cấu thành di tích”,  làm biến dạng di tích trong tu bổ di tích.

UBTVQH nhận thấy khoản 1 Điều 13 Luật DSVH hiện hành đã quy định việc “làm sai lệch” di tích là hành vi bị nghiêm cấm.

Quy định nói trên chỉ mang tính nguyên tắc, bởi vì trong Bộ luật Dân sự (Điều 22) đã có các quy định cụ thể về việc xử phạt đối với các hành vi hủy hoại di sản văn hóa. Tại Nghị định số 56/2006/NĐ-CP ngày 6/6/2006 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa - thông tin cũng đã có 3 Điều (56, 57, 58) với hàng chục quy định chi tiết về việc xử phạt đối với các hành vi vi phạm Luật DSVH, trong đó có các hành vi bảo quản, xây dựng công trình phục vụ di tích, tu bổ, phục hồi di tích không đảm bảo chuyên môn nghiệp vụ, làm sai, hỏng hoặc lợi dụng bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích để trục lợi,...

- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về tu bổ, phục hồi khẩn cấp đối với những di tích bị hủy hoại hoặc có nguy cơ bị hủy hoại do thiên tai hoặc những lý do khác.

UBTVQH thấy rằng vấn đề này đã được quy định cụ thể tại Điều 33 Luật hiện hành, không cần phải bổ sung.

- Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể thời gian UBND cấp tỉnh rà soát danh mục kiểm kê DSVH của địa phương (khoản 4, Điều 33 được sửa đổi, bổ sung).

Tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH sửa đổi, bổ sung quy định này như sau: “Ít nhất 5 năm một lần, UBND cấp tỉnh rà soát và quyết định đưa ra khỏi danh mục kiểm kê DSVH của địa phương các công trình xây dựng, địa điểm, cảnh quan thiên nhiên, khu vực thiên nhiên không đủ tiêu chuẩn xếp hạng di tích.”.

2.4. Xây dựng công trình có khả năng ảnh hưởng đến di tích

- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về quy hoạch khảo cổ để  tránh nảy sinh những phức tạp trong quá trình triển khai xây dựng các công trình phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; cũng có ý kiến cho rằng cần bổ sung quy định về nguồn kinh phí tổ chức thăm dò, khai quật khảo cổ đối với các công trình xây dựng.

Tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH đã cho sửa đổi một khoản và bổ sung hai khoản vào Điều 37 Luật DSVH: khoản 1 giao Chủ tịch UBND cấp tỉnh tổ chức việc lập, phê duyệt và công bố quy hoạch khảo cổ ở địa phương; khoản 2 quy định trách nhiệm của chủ đầu tư dự án cải tạo, xây dựng công trình ở địa điểm thuộc quy hoạch khảo cổ; khoản 4 quy định cụ thể nguồn kinh phí tổ chức, thăm dò, khai quật khảo cổ.

- Có ý kiến phát hiện nội dung khoản 1 Điều 37 quy định việc cải tạo xây dựng công trình có ảnh hưởng đến cảnh quan thiên nhiên và môi trường sinh thái của di tích có nội dung gần với các quy định của Điều 36.

Tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH đã chuyển khoản 1 Điều 37 thành khoản 3 Điều 36 cho phù hợp.

- Một số đại biểu đề nghị cần quy định rõ thời hạn cấp giấy phép khai quật khảo cổ khẩn cấp ở Điều 38; cũng có ý kiến đề nghị tách Điều 38 thành hai khoản cho mạch lạc hơn.

Tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH đã cho tách Điều 38 thành hai khoản và bổ sung quy định sau vào khoản 2: “Thời hạn cấp giấy phép khai quật khẩn cấp không quá 3 ngày, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị; trường hợp không cấp giấy phép, phải nêu rõ lý do bằng văn bản.”.

- Có ý kiến đề nghị có những quy định riêng đối với hoạt động thăm dò khảo cổ và đối với hoạt động khai quật khảo cổ; có ý kiến đề nghị quy định tiêu chuẩn, trách nhiệm, nghĩa vụ của tổ chức thăm dò, khai quật khảo cổ; cũng có ý kiến đề nghị bổ sung quy định Bộ VHTT&DL ban hành văn bản hướng dẫn thủ tục cấp giấy phép khai quật khẩn cấp vào cuối Điều 38.

UBTVQH nhận thấy khoản 3 Điều 39 Luật DSVH hiện hành đã giao Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Thông tin (nay thuộc chức năng của bộ VHTT&DL) ban hành quy chế về thăm dò, khai quật khảo cổ. Văn bản này đã được Bộ VHTT&DL ban hành, cụ thể hoá các quy định của Luật đối với hoạt động thăm dò, khai quật khảo cổ, bao gồm cả thủ tục cấp giấy phép khai quật khảo cổ khẩn cấp như đề nghị của đại biểu. Sau khi Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật DSVH được Quốc hội thông qua, Bộ VHTT&DL sẽ sửa đổi, bổ sung quy chế này cho phù hợp với quy định của Luật.

- Có ý kiến cho rằng Điều 38 mới và Điều 33 mâu thuẫn nhau về thẩm quyền xử lý trong trường hợp khẩn cấp.

UBTVQH nhận thấy Điều 33 quy định về trách nhiệm bảo vệ di tích và thẩm quyền áp dụng các biện pháp bảo vệ di tích trong trường hợp di tích đang bị hủy hoại hoặc có nguy cơ bị hủy hoại, còn khoản 2 Điều 38 mới quy định về  thẩm quyền cấp giấy phép khai quật khảo cổ khẩn cấp để bảo vệ địa điểm khảo cổ đang bị hủy hoại hoặc có nguy cơ bị hủy hoại. Yêu cầu bảo vệ di tích (DSVH đã được đánh giá) và địa điểm khảo cổ chưa khai quật (DSVH tiềm năng, chưa được đánh giá) trong trường hợp khẩn cấp có khác nhau nên quy định về thẩm quyền ở hai điều luật cũng khác nhau. Vì vậy, xin đề nghị Quốc hội cho giữ Điều 33 như Luật DSVH hiện hành và giữ Điều 38 như trong Dự thảo Luật.

 

3. Về di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia

3.1. Một số vấn đề chung

- Có ý kiến đề nghị bổ sung tiêu chí xác định di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.

UBTVQH nhận thấy các khái niệm di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia đã được giải thích tại khoản 5, khoản 6 và khoản 7 Điều 4 Luật DSVH hiện hành. Tiêu chí xác định di vật, cổ vật là rõ ràng. Riêng tiêu chí xác định bảo vật quốc gia thì cần được quy định cụ thể hơn. Vì vậy, tiếp thu một phần ý kiến đại biểu, UBTVQH đã cho bổ sung một điều quy định cụ thể tiêu chí và thẩm quyền xác định bảo vật quốc gia (Điều 41a).

- Một số đại biểu đề nghị quy định chính sách thu hồi cổ vật của Việt Nam ở nước ngoài.

UBTVQH nhận thấy ý kiến đại biểu rất xác đáng. Tuy nhiên, do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của nước ta trước đây, cổ vật bị đưa ra nước ngoài bằng nhiều con đường khác nhau, phân biệt trường hợp hợp pháp và không hợp pháp rất khó. Hơn nữa, để thu hồi cổ vật phải có kinh phí để mua lại cổ vật hoặc để phục vụ điều tra, tranh tụng ở nước ngoài. Trong tình hình đó, việc thu hồi cổ vật ở nước ngoài chưa có tính khả thi. Hiện nay, nước ta đã gia nhập Công ước UNESCO 1970 về các biện pháp ngăn cẩm xuất nhập khẩu và chuyển giao trái phép quyền sở hữu tài sản văn hoá; việc giải quyết số cổ vật của nước ta ở nước ngoài và ngược lại, giải quyết số cổ vật nước ngoài ở Việt Nam sẽ được thực hiện theo quy định của Công ước quốc tế. Vì những lý do đã trình bày, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho phép bổ sung quy định này vào thời điểm thích hợp.

3.2. Bồi hoàn chi phí và khen thưởng người giao nộp di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia

- Một số đại biểu cho rằng Luật cần quy định cụ thể mức bồi hoàn chi phí phát hiện, bảo quản và khen thưởng những người phát hiện, giao nộp di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.

UBTVQH nhận thấy mức bồi hoàn chi phí phát hiện, bảo quản và khen thưởng người phát hiện, giao nộp di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia đã được quy định cụ thể tại các Điều 21, 52, 53, 54 Nghị định số 92/2002/NĐ-CP của Chính phủ. Những quy định này liên quan đến giá cả, luôn cần được điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Vì vậy, xin đề nghị Quốc hội tiếp tục cho giữ ở văn bản dưới luật.

- Có ý kiến đề nghị cho phép người dân được trả tiền để giữ lại cổ vật mà họ phát hiện được trong trường hợp cổ vật có giá trị thấp và Nhà nước đã có nhiều cổ vật tương tự.

UBTVQH nhận thấy, trong thực tế, khi người dân giao nộp vật tìm được, phải có hội đồng của cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa xác định giá trị và quyết định có thu hồi hay không. Nếu vật tìm được không phải là cổ vật hoặc là cổ vật có giá trị thấp mà Nhà nước thấy không cần thiết phải lưu giữ thì cơ quan nhà nước trả lại cho người tìm được. Nhưng đây là những vấn đề nghiệp vụ, không cần phải quy định trong Luật.

3.3. Quản lý di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia

- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định về xã hội hóa việc giám định di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Ngược lại, có ý kiến đề nghị quy định rõ thành phần, chức năng, trách nhiệm của Hội đồng giám định cổ vật.

UBTVQH cho rằng xã hội hoá công tác giám định cổ vật là giải pháp đúng đắn để khắc phục hạn chế về nhân lực, tài lực, vật lực của cơ quan nhà nước về văn hoá, tạo điều kiện khai thông bế tắc trong lĩnh vực đăng ký di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, đồng thời phát triển một ngành nghề mới mà xã hội có nhu cầu. Vì vậy, UBTVQH đã cho bổ sung vào Điều 42 quy định về cơ sở giám định cổ vật và giao Bộ trưởng Bộ VHTT&DL quy định cụ thể điều kiện thành lập và hoạt động của các cơ sở giám định cổ vật.

- Một số đại biểu cho rằng cần bổ sung các quy định cụ thể nhằm khuyến khích các nhà sưu tập tư nhân đăng ký di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia với Nhà nước để làm minh bạch hóa thị trường cổ vật.

Tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH đã bổ sung vào điều 42 một khoản (khoản 3) quy định các quyền dành cho tổ chức, cá nhân đăng ký di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia nhằm khuyến khích việc đăng ký.

4. Về bảo tàng

4.1. Một số vấn đề chung

- Có ý kiến đề nghị sửa đổi định nghĩa bảo tàng cho cập nhật và đưa định nghĩa này về Điều 4 (giải thích từ ngữ).

Tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH đã sửa lại định nghĩa bảo tàng cho phù hợp với định nghĩa của Hội đồng Quốc tế các bảo tàng (ICOM) và chuyển định nghĩa đó từ Điều 47 Luật DSVH hiện hành lên thành khoản 16 Điều 4 mới.

- Có ý kiến đề nghị bổ sung “nhà truyền thống”, “nhà lưu niệm danh nhân” vào hệ thống bảo tàng.

UBTVQH xin được giải trình như sau: Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 28 Luật DSVH, nhà lưu niệm danh nhân nếu có đủ tiêu chí thì được coi là di tích lịch sử - văn hoá, không thuộc hệ thống bảo tàng. Còn nhà truyền thống là một thiết chế văn hoá ở cơ sở có chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt động khác với bảo tàng. Tài liệu, hiện vật trưng bày trong nhà truyền thống chủ yếu là tranh ảnh, ít có hiện vật gốc; những hiện vật có giá trị của nhà truyền thống đã được điều chỉnh tại Điều 52 của Luật DSVH. Hơn nữa, theo quy định tại Điều 47 Luật DSVH và tại Điều 47 mới trong Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật DSVH thì không thành lập bảo tàng công lập ở cấp dưới đơn vị trực thuộc bộ, ngành, đoàn thể trung ương hoặc dưới cấp tỉnh. Nếu đưa nhà truyền thống vào hệ thống bảo tàng thì hệ thống này quá mở rộng, ngân sách nhà nước không bù đắp nổi, đồng thời sẽ làm cho hệ thống bảo tàng trở nên manh mún. Vì những lý do trên, xin đề nghị Quốc hội không bổ sung nhà lưu niệm danh nhân, nhà truyền thống vào hệ thống bảo tàng.

4.2. Các loại bảo tàng

- Một số đại biểu cho rằng cần giữ nguyên 4 loại bảo tàng như quy định của Luật hiện hành; có đại biểu đề nghị bổ sung định nghĩa về bảo tàng quốc gia, bảo tàng chuyên ngành, bảo tàng cấp tỉnh và bảo tàng ngoài công lập.

UBTVQH nhận thấy việc quy định hệ thống bảo tàng gồm bảo tàng công lập và bảo tàng ngoài công lập là cần thiết vì hai loại bảo tàng này có chế độ sở hữu khác nhau, được những pháp nhân khác nhau thành lập và hoạt động bằng nguồn kinh phí khác nhau. Trong hệ thống bảo tàng công lập vẫn có các loại hình như quy định của Luật hiện hành là bảo tàng quốc gia, bảo tàng chuyên ngành và bảo tàng cấp tỉnh. Dự thảo Luật chỉ phân biệt hai loại hình bảo tàng chuyên ngành là bảo tàng chuyên ngành thuộc bộ, ngành, đoàn thể trung ương và bảo tàng chuyên ngành thuộc đơn vị trực thuộc bộ, ngành, đoàn thể trung ương. Đây là những bảo tàng chuyên ngành đang tồn tại và hoạt động theo Luật DSVH. Tên gọi các bảo tàng đã thể hiện rõ chế độ sở hữu, kinh phí hoạt động và thẩm quyền thành lập mỗi loại bảo tàng, vì vậy, UBTVQH thấy không cần thiết bổ sung định nghĩa về từng loại bảo tàng trong Luật mà để các văn bản nghiệp vụ hướng dẫn.

- Một số đại biểu lo ngại việc giao cho các bộ, ngành, đoàn thể thẩm quyền thành lập bảo tàng chuyên ngành thuộc các đơn vị trực thuộc bộ, ngành, đoàn thể dễ dẫn đến việc thành lập bảo tàng một cách tràn lan, gây lãng phí cho ngân sách, hoạt động manh mún, kém hiệu quả.

Như đã báo cáo Quốc hội, bảo tàng chuyên ngành thuộc các đơn vị trực thuộc bộ, ngành, đoàn thể trung ương là loại hình đang tồn tại và hoạt động theo Luật DSVH. Để hạn chế việc thành lập bảo tàng một cách tràn lan, gây lãng phí cho ngân sách, hoạt động kém hiệu quả, Dự thảo Luật đã quy định việc thành lập bảo tàng công lập ở trung ương phải có sự thoả thuận của Bộ VHTT&DL, ở cấp tỉnh phải có sự thoả thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về VHTT&DL. Vì vậy, xin đề nghị Quốc hội cho được giữ quy định như trong Dự thảo.

- Có ý kiến cho rằng quy định tại khoản 1 Điều 47 “bảo tàng công lập do cơ quan nhà nước quyết định thành lập” là chưa chính xác, đề nghị sửa là: “do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, người đứng đầu các ngành, các tổ chức chính trị Trung ương, cấp tỉnh, thành phố quyết định thành lập”.

UBTVQH thấy rằng quy định đã dẫn tại khoản 1 Điều 47 là đúng pháp luật, không mâu thuẫn với quy định tại Điều 50 giao thẩm quyền quyết định thành lập bảo tàng công lập cho Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Người đứng đầu ngành và đoàn thể trung ương hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, vì người thực hiện thẩm quyền thành lập bảo tàng là thủ trưởng cơ quan được giao thẩm quyền. Tuy nhiên, việc giải thích về các loại bảo tàng công lập, ngoài công lập là không cần thiết và có phần trùng lặp với quy định về thẩm quyền thành lập bảo tàng tại Điều 50. Vì vậy, UBTVQH đã cho lược bỏ  phần giải thích về các loại bảo tàng.

- Có ý kiến cho rằng đối với bảo tàng ngoài công lập, Chủ tịch UBND cấp tỉnh chỉ có thẩm quyền “cấp phép hoạt động” chứ không có thẩm quyền “cấp phép thành lập”.

Tiếp thu ý kiến đại biểu, UBTVQH đã cho thay cụm từ “cấp phép thành lập” bằng cụm từ “cấp giấy phép hoạt động” tại điểm c khoản 1 Điều 50 mới.

- Có ý kiến đề nghị bỏ quy định thành lập bảo tàng công lập ở trung ương phải có sự thoả thuận của Bộ VHTT&DL. Ngược lại, có ý kiến cho rằng việc thành lập bảo tàng ngoài công lập cũng phải có ý kiến của Bộ VHTT&DL. Ý kiến khác đề nghị ghi rõ tại điểm c khoản 1 Điều 50: “theo đề nghị của Giám đốc Sở VHTT&DL”.

Như đã báo cáo Quốc hội, quy định thành lập bảo tàng công lập phải có sự thoả thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về VHTT&DL là để hạn chế việc thành lập bảo tàng một cách tràn lan. Việc giao nhiệm vụ thẩm định đề án thành lập bảo tàng ở trung ương cho Bộ VHTT&DL, ở địa phương cho Sở VHTT&DL là phù hợp với yêu cầu phân cấp quản lý trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, văn bản luật không quy định tới trách nhiệm của cấp Sở nên sử dụng cụm từ “cơ quan nhà nước có thẩm quyền về VHTT&DL”. UBTVQH kính đề nghị Quốc hội cho giữ quy định và cách thể hiện như trong Dự thảo Luật.

- Nhiều đại biểu đề nghị rà soát lại Nghị định 92 để bỏ những quy định về tiêu chí xếp hạng bảo tàng không phù hợp thực tiễn; có ý kiến đề nghị  bỏ Điều 51 về xếp hạng bảo tàng.

UBTVQH nhận thấy việc xếp hạng bảo tàng là một yêu cầu chuyên môn nghiệp vụ của ngành, cần được quy định. Điều 51 chỉ quy định những nguyên tắc chung và những quy định này là đúng đắn. Tuy nhiên, việc cụ thể hóa các quy định của Điều 51 trong Nghị định 92 có một số điểm chưa hợp lý. Tiếp thu ý kiến của đại biểu, UBTVQH sẽ chỉ đạo các cơ quan hữu quan xem xét, sửa đổi những quy định chưa hợp lý trong Nghị định.

4.3. Nhiệm vụ của bảo tàng

- Hầu hết ý kiến đại biểu đều tập trung vào quy định về hoạt động dịch vụ của bảo tàng. Có đại biểu  đề nghị không cho phép làm dịch vụ tại bảo tàng. Có đại biểu đề nghị bổ sung quy định hoạt động dịch vụ phải “phù hợp với chức năng hoạt động của bảo tàng và theo quy định của pháp luật”.

Tiếp thu ý kiến của đại biểu, UBTVQH đã cho thể hiện quy định về hoạt động dịch vụ của bảo tàng.

- Có ý kiến đề nghị bổ sung quy định cụ thể về việc thu phí tham quan bảo tàng.

UBTVQH nhận thấy quy định về phí tham quan bảo tàng thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về phí và lệ phí. Trong trường hợp cần có những quy định cụ thể phù hợp với đặc điểm hoạt động của bảo tàng, các quy định này sẽ được thể hiện ở văn bản dưới luật. Vì vậy, xin đề nghị Quốc hội cho phép không quy định về phí tham quan trong Luật này.

Ngoài những điều chỉnh trên đây, UBTVQH đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, sửa chữa một số cách diễn đạt và chi tiết kỹ thuật chưa phù hợp để hoàn thiện văn bản Luật.

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Trên đây là báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội kính trình Quốc hội xem xét, quyết định./.

 

 

TM. ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI

PHÓ CHỦ TỊCH

(đã ký)

 

 

 

 

 

Tòng Thị Phóng

 

Ghi chú
LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết
Nội dung văn bản đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên YouTube

TẠI ĐÂY

văn bản cùng lĩnh vực

văn bản mới nhất

×
×
×
Vui lòng đợi