Chỉ thị về tổ chức và quản lý thị trường vùng biên giới Việt - Trung trong tình hình mới
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Chỉ thị 94-CT
Cơ quan ban hành: | Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 94-CT | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Chỉ thị | Người ký: | Trần Đức Lương |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 25/03/1992 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Lĩnh vực: |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Chỉ thị 94-CT
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
CHỈ THỊ
CỦA CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ
94-CT
NGÀY 25 THÁNG 3 NĂM 1992 VỀ TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ
THỊ TRƯỜNG VÙNG BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI
Tiếp theo các Chỉ thị số 382-CT ngày 19 tháng 11 năm 1991 và số 411-CT ngày 25 tháng 12 năm 1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về việc triển khai các công tác có liên quan đến quan hệ với Trung Quốc, nay chủ tịch hội đồng Bộ trưởng quy định một số chủ trươngvà biện pháp về tổ chức và quản lýthị trường vùng biên giới Việt - Trung trong tình hình mới.
I. NGUYÊN TẮC CHUNG
Việc tổ chức và quản lý thị trường
vùng biên giới Việt –Trung trong tình hình hiện nay phải tạo điều kiện để mở
rộng giao lưu hàng hoá giữa hai nước và nhân dân hai bên biên giới phù hợp với
những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa hai Nhà nước và những Hiệp định mà
Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc đã ký, đảm bảo nguyên tắc bình đẳng,
cùng có lợi, đồng thời phải thiết lập trật tự trên thị trường này, sớm chấm dứt
tình trạng qua lại, buôn bán tuỳ tiện, lộn xộn, trái pháp luật, kiên quyết ngăn
chặn và bài trừ tệ buôn lậu qua biên giới (kể cả trên bộ và trên biển), góp
phần đảm bảo trật tự, an ninh chính trị và xã hội ở cả hai bên.
II. TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ VIỆC GIAO LƯU HÀNG
HOÁ Ở VÙNG BIÊN GIỚI VIỆT - TRUNG
Cần tăng cường sự quản lý thống nhất của nhà nước về hoạt động buôn bán xuất nhập khẩu qua biên giới.
1. Về mậu dịch xuất nhập khẩu
Chỉ các Công ty
thương mại và các thực thể kinh tế khác (bao gồm quốc doanh Trung ương và quốc
doanh địa phương, Công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp hợp tác,
liên doanh với nước ngoài theo luật đầu tư với nước ngoài tại Việt Nam) có giấy
phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ trưởng Bộ Thương Mại và Du lịch Việt Nam
cấp mới được quyền hoạt động mậu dịch xuất nhập khẩu.
Mọi hoạt động xuất nhập khẩu phải tuân thủ đầy đủ luật pháp của nước ta và Hiệp định thưong mại giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc ký ngày 7 tháng 11 năm 1991.
2. Về trao đổi hàng hoá của dân cư biên giới
Trong trao đổi, mua bán hàng hoá của cư dân hai bên biên
giới thì hình thức chủ yếu là trao đổi, mua bán hàng hoá qua biên giới với quy
mô nhỏ, tính chất, mức độ đơn giản, được gọi là xuất nhập khẩu tiểu ngạch và
cũng phải đặt dưói sự quản lý thống nhất của nhà nước về quy chế xuất nhập
khẩu.
Tham gia xuất nhập khẩu tiểu ngạch biên giới chỉ là những
người kinh doanh nhỏ có vốn thấp hơn vốn pháp định quy định trong nghị định
221-HĐBT ngày 23 tháng 7 năm 1991 của Hội đồng Bộ trưởng và những người này
đồng thời phải là cư dân thường trú tại khu vực biên giới.
Người kinh doanh xuất nhập khẩu tiểu ngạch biên giới phải có
giấy phép kinh doanh buôn bán do Uỷ ban nhân dân huyện cấp theo quy định trong
nghị định 66-HĐBT ngày 2 tháng 3 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng và có giấy
phép kinh doanh xuất nhập khẩu tiểu ngạch biên giới do Uỷ ban nhân dân tỉnh
cấp.
Không được phép kinh doanh xuất nhập khẩu tiểu ngạch biên
giới các mặt hàng Nhà nước cấm, các mặt hàng Nhà nước quản lý xuất nhập khẩu
bằng hạn ngạch và các mặt hàng Nhà nước thống nhất cân đối việc xuất nhập khẩu.
Bộ Thương mại và Du lịch định kỳ công bố danh mục cụ thể của những mặt hàng
này.
Kinh doanh xuất nhập khẩu tiểu ngạch biên giới phải nộp thuế
xuất nhập khẩu tiểu ngạch và phải chịu sự kiểm soát của Hải quan.
Đồng bào dân tộc sinh sống ở các xã và thị trấn tiếp giáp
với đường biên giới đi chợ phiên hoặc mang quà có tính thăm thân (trong mức quy
định) được coi không phải là buôn bán và không phải nộp thuế. Tổng cục Hải quan
phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Thương mại và du lịch quy định mức cụ thể cho
những đối tượng này.
Trong trường hợp có sự thoả thuận của chính quyền hai bên
biên giới, các tổ chức và cá nhân người Trung Quốc nếu được phép kinh doanh tại
chợ biên giới Việt Nam thì phải nộp thuế doanh thu và thuế lợi tức theo các
luật thuế của Việt Nam.
Bộ Tài chính bàn với Tổng cục Hải quan và Uỷ ban nhân dân
tỉnh biên giới căn cứ vào luật thuế và yêu cầu trên đây hướng dẫn cụ thể việc
thực hiện thu thuế và có chính sách điều tiết cho địa phương như thuế doanh
thu, thuế lợi tức, bảo đảm thu được thuế với thuế suất và giá tính thuế hợp lý,
thuận tiện cho người nộp thuế, chủ động ngăn ngừa việc trốn thuế và tăng nguồn
thu cho ngân sách.
3.Vấn đề thanh toán và tiền tệ.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam khẩn trương đàm phán với ngân
hàng Trung Quốc ký kết thoả ước về vấn
đề tiền tệ và thanh toán phục vụ cho các hoạt động kinh tế thương mại và việc
trao đổi hàng hoá của cư dân biên giới.
Trước mắt, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần có biện pháp chấn
chỉnh ngay các hoạt động thanh toán và đổi tiền đang diễn ra lộn xộn tại các
khu vực cửa khẩu biên giới. Việc mua bán hàng hoá ở chợ bên phía nước nào thì
chủ yếu dùng tiền ở nước ấy. Người của mỗi bên được mang theo một số tiền nhất
định của nước mình khi xuất nhập cảnh qua biên giới để dùng vào việc mua bán ở
chợ biên giới. Hạn chế, tiến tới chấm dứt tình trạng tự phát đổi tiền không qua
ngân hàng hai bên.
4. Về địa điểm trao đổi hàng hoá
Mọi hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hoá qua biên giới (chính
ngạch cũng như tiểu ngạch) bắt buộc phải thông qua các cửa khẩu, chịu sự kiểm
tra, kiểm soát của đồn biên phòng và Hải Quan cửa khẩu. Hoạt động xuất nhập
khẩu mậu dịch phải thông qua các cửa khẩu Quốc tế và cửa khẩu Quốc gia, các
hoạt động buôn bán tiểu ngạch ngoài việc thông qua các cửa khẩu nói trên còn có
thể thông qua các cặp đường mòn đã được hai bên đồng ý mở. Việc buôn bán ở chợ
biên giới chỉ được tiến hành ở các cặp chợ đã được chính quyền cấp tỉnh biên
giới hai bên thoả thuận. Uỷ ban Nhân dân tỉnh biên giới căn cứ vào nhu cầu trao
đổi hàng hoá, khả năng xây dựng cơ sở vật chất và điều kiện quản lý mà chỉ đạo
cụ thể việc tổ chức và quản lý từng chợ biên giới và thông báo cho chính quyền
cấp tỉnh bên kia biên giới về thời gian và thể thức buôn bán ở từng chợ.
III. CHỐNG BUÔN LẬU QUA BIÊN GIỚI
Các Bộ, ngành chức năng và Uỷ ban Nhân dân các tỉnh phải
tăng cường chỉ đạo và quản lý thị trường biên giới Việt - Trung: kiên quyết
chống buôn lậu, trước hết là ngăn chặn tệ xuất nhập đồng, măng gan, các kim
loại màu khác, gỗ, vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ; tệ nhập lậu các loại ma tuý,
văn hoá phẩm đồi truỵ, phản động; chống lưu hành tiền giả, dụ dỗ buôn bán phụ
nữ và trẻ em. Trên mặt biển, phải tăng cường ngăn chặn việc xuất lậu kim loại
và sang mạn, tẩu tán hàng công nghiệp nhập lậu và việc tầu thuyền nước ngoài
vào khai thác trái phép hải sản và các tài nguyên khác.
Các lực lượng bộ đội biên phòng, Hải quan, công an, thuế vụ
và quản lý thị trường đề cao trách nhiệm, thực hiện đúng chức năng và nhiệm
vụ của mình đồng thời phối hợp hành động
chặt chẽ để quản lý tốt việc qua lại biên giới và xuất nhập hàng hoá qua biên
giới.
Tổng cục Hải quan cần định kỳ tổ chức tiếp xúc với Hải quan
Trung Quốc để thông báo cho nhau danh mục hàng hoá cấm nhập khẩu, cấm xuất khẩu
của mỗi bên, có biện pháp thông báo cho nhân dân vùng biên giới mỗi bên nghiêm
chỉnh chấp hành, đồng thời phối hợp với việc kiểm tra, xử lý.
Thủ trưởng các lực lượng kiểm tra, kiểm soát trên biên giới
phải tăng cường giáo dục chính trị, nâng cao trình độ nghiệp vụ và bồi dưỡng
Trung văn cho cán bộ, nhân viên công tác ở vùng biên giới phía Bắc, đồng thời
giải quyết các điều kiện, phương tiện cần thiết đảm bảo các lực lượng này hoạt
động thật sự có hiệu lực.
Ban chỉ đạo Quản lý thị trường Trung ương thoả thuận với Uỷ
ban nhân dân các tỉnh có biên giới ra quyết định đặt trên mỗi tuyến đường chính
vào vùng biên giới Việt - Trung một trạm kiểm soát liên ngành, thay thế cho số
trạm trước đây đã đặt, đảm bảo được việc kiểm tra kiểm soát nhưng không gây ách
tắc giao lưu hàng hoá.
Chỉ thị này thay thế Chỉ thị 405-CT ngày 19 tháng 11 năm
1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Ban chỉ đạo Quản lý thị trường Trung ương đôn đốc các cơ
quan có liên quan và Uỷ ban nhân dân các tỉnh có biên giới với Trung Quốc lập
kế hoạch cụ thể triển khai ngay Chỉ thị
này, hàng tháng báo cáo tình hình triển khai lên Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.