Thông tư 01/1999/TT-TGCP hướng dẫn thực hiện Nghị định 26/1999/NĐ-CP về hoạt động tôn giáo
- Tóm tắt
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Thông tư 01/1999/TT-TGCP
Cơ quan ban hành: | Ban Tôn giáo Chính phủ | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 01/1999/TT-TGCP | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Thông tư | Người ký: | Lê Quang Vịnh |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 16/06/1999 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Văn hóa-Thể thao-Du lịch |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Tổ chức tôn giáo được phép in, xuất bản các loại sách kinh và ấn phẩm
Ngày 16/6/1999, Ban Tôn giáo Chính phủ ban hành Thông tư 01/1999/TT-TGCP hướng dẫn thực hiện một số điều trong Nghị định của Chính phủ 26/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999 về các hoạt động tôn giáo. Cụ thể như sau:
1. Chế tài các hoạt động tôn giáo bao gồm:
- Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo;
- Nhà nước bảo đảm các hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín đồ;
- Nhà nước khuyến khích các hoạt động tôn giáo vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân;
- Mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đều bị xử lý theo pháp luật cho dù hành vi ấy thuộc về chức sắc, chức việc, tín đồ hay tổ chức, cơ quan, cá nhân có chức năng quản lý Nhà nước;
- Mọi hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống lại Nhà nước, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân, làm hại đến nền văn hoá lành mạnh của dân tộc, hoạt động mê tín dị đoan đều bị xử lý theo pháp luật.
2. Nhà nước cho phép các tổ chức tôn giáo được in, xuất bản các loại sách kinh, các ấn phẩm tôn giáo; được sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hoá phẩm tôn giáo, đồ dùng việc đạo.
3. Các thủ tục hành chính cho việc in, xuất bản, sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hoá phẩm tôn giáo theo những quy định sau đây:
- Thủ tục hành chính về in, xuất bản các loại kinh, ấn phẩm tôn giáo;
- Thủ tục hành chính về xuất, nhập khẩu văn hoá có nội dung tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo và những đồ dùng trong việc đạo;
- Những trường hợp xuất bản, kinh doanh, lưu hành, tàng trữ, xuất nhập khẩu văn hoá phẩm trái quy định của pháp luật thì tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm sẽ bị xử lý theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
Thông tư có hiệu lực từ ngày 01/07/1999.
Xem chi tiết Thông tư 01/1999/TT-TGCP tại đây
tải Thông tư 01/1999/TT-TGCP
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ Số: 01/1999/TT-TGCP |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Hà Nội, ngày 16 tháng 06 năm 1999 |
THÔNG TƯ
HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN MỘT SỐ ĐIỀU TRONG NGHỊ ĐỊNH CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 26/1999/NĐ-CP NGÀY 19 THÁNG 4 NĂM 1999 VỀ CÁC HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO
Căn cứ Điều 29 Nghị định của Chính phủ số 26/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999 về các hoạt động tôn giáo, Ban Tôn giáo của Chính phủ ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định này như sau
Nghị định gồm 29 điều trong đó Điều 1, Điều 2, Điều 3, Điều 4, Điều 5 tạo nên chương: "Những quy định chung", Điều 6, Điều 7, Điều 8, Điều 9, Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 16, Điều 17, Điều 18, Điều 19, Điều 20, Điều 21, Điều 22, Điều 23, Điều 24, Điều 25, Điều 26 tạo nên chương "Những quy định cụ thể" và Điều 27, Điều 28, Điều 29 tạo nên chương "Điều khoản thi hành".
Ban Tôn giáo của Chính phủ không hướng dẫn thực hiện tất cả mọi điều trong Nghị định. Lý do là vì có nhiều điều tự thân đã khá rõ ràng cụ thể, có một số điều cần phải liên tịch với bộ, ban, ngành khác có liên quan và có một số điều chưa đủ điều kiện để có thể cụ thể hoá ngay được.
Ban Tôn giáo của Chính phủ chỉ hướng dẫn thực hiện một số điều mà khi kết hợp với các luật, pháp lệnh, nghị định, quy phạm hiện hành, đã có thể định tính, định lượng cụ thể từng vấn đề được đặt ra.
Cụ thể là Thông tư này hướng dẫn về những điều sau đây:
Điều 4, Điều 5 về chế tài chung các hoạt động tôn giáo
Điều 7, Điều 8 về hoạt động tôn giáo tại cơ sở thờ tự.
Điều 11 về việc xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự của tổ chức tôn giáo.
Điều 12 về việc xây dựng, sửa chữa, tu bổ các di tích lịch sử, văn hoá đã được xếp hạng.
Điều 14 về việc in, xuất bản các loại kinh sách và các xuất bản phẩm tôn giáo; sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hoá phẩm, đồ dùng trong việc đạo.
Điều 16 về xử lý người mạo danh chức sắc, nhà tu hành để hoạt động tôn giáo.
Điều 18 về trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành.
Điều 19 về hoạt động dòng tu (hoặc các hình thức tổ chức tu hành tập thể tương tự).
Điều 20, Điều 21 về việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc, nhà tu hành, những người chuyên hoạt động tôn giáo kể cả những người do tín đồ bầu ra.
Sau đây là bản hướng dẫn từng đề mục theo thứ tự đã nêu trên.
Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo.
Nhà nước bảo đảm các hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín đồ.
Nhà nước khuyến khích các hoạt động tôn giáo vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đều bị xử lý theo pháp luật cho dù hành vi ấy thuộc về chức sắc, chức việc, tín đồ hay tổ chức, cơ quan, cá nhân có chức năng quản lý Nhà nước.
Mọi hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống lại Nhà nước, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân, làm hại đến nền văn hoá lành mạnh của dân tộc, hoạt động mê tín dị đoan đều bị xử lý theo pháp luật.
Pháp luật nói ở đây là Pháp lệnh xử lý hành chính với Điều 12 (cảnh cáo), Điều 25 (quản chế hành chính), Pháp lệnh cán bộ, công chức với Điều 39, Luật khiếu nại tố cáo với Điều 1, Điều 6 và Bộ Luật Hình sự với Điều 73, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 198, Điều 199, Điều 205, Điều 205a, Điều 221.
Cơ sở thờ tự của tổ chức tôn giáo là sở hữu chung của cộng đồng tín đồ được Nhà nước bảo hộ (Điều 70 Hiến pháp, Điều 234 Bộ luật Dân sự).
Cơ sở thờ tự bao gồm: nhà chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường, trụ sở của tổ chức tôn giáo, nhà nguyện, trai phòng, hội quán và những công trình phụ cận như: tượng, đài, bia, tháp được xây dựng trong khuôn viên.
Không để cơ sở thờ tự bị lấn chiếm. Nhà nước bảo hộ cơ sở thờ tự tôn giáo.
Nhà nước không chấp thuận việc chuyển giao nhà đất của cá nhân thành cơ sở thờ tự tôn giáo dưới bất cứ hình thức nào.
Cơ sở thờ tự của tổ chức tôn giáo đã hiến cho Nhà nước để sử dụng vào các việc công ích (trường học, bệnh viện, cơ sở từ thiện nhân đạo.v.v..) thì không đặt vấn đề trả lại.
Cơ sở thờ tự của các tổ chức tôn giáo cho mượn có thời hạn nay đã hết hạn thì phải trả lại. Nếu có nhu cầu sử dụng phải thoả thuận với tổ chức tôn giáo. Khi trả lại thì phải giải quyết thoả đáng lợi ích của các bên liên quan theo chính sách, pháp luật hiện hành.
Việc sửa chữa, xây dựng tại cơ sở thờ tự được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh thực hiện theo Điều 11, Nghị định 288/HĐBT ngày 31/12/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định thi hành "Pháp lệnh bảo vệ, sử dụng di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh".
Khu vực I phải bảo tồn nguyên trạng mọi yếu tố gốc còn lại. Nghiêm cấm bất cứ một sự thay đổi, bổ sung mới dù là nhỏ nhất. Trường hợp có trùng tu di tích phải theo đúng kiểu mẫu cũ.
Khu vực II là khu vực bao quanh khu vực I có thể xây dựng được tượng đài, bia tháp hoặc các công trình văn hoá khác nhằm mục đích tôn tạo khu di tích, thắng cảnh.
Khu vực III là khung cảnh thiên nhiên và thắng cảnh của di tích; có thể xây dựng thêm những công trình dịch vụ như nhà tiếp khách, nhà văn hoá hoặc vườn hoa, công viên nhưng phải bảo đảm sự hài hoà trong không gian của di tích thắng cảnh.
Mọi công trình xây dựng trên khu vực bảo vệ của di tích thắng cảnh đã được xếp hạng phải được phép của Bộ Văn hoá - Thông tin.
Việc tu bổ và sửa chữa nhỏ như trát vá, quét vôi, đảo ngói, lát nền, thay cửa và cải tạo sửa chữa, lắp đặt thiết bị đường ống trong nhà và trong khuôn viên, trang trí nội thất không ảnh hưởng đến kết cấu công trình các nhà lân cận và bộ mặt đường phố được miễn giấy phép xây dựng. Tuy nhiên trước khi sửa chữa nhỏ phải thông báo cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã sở tại biết.
Việc sửa chữa lớn làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc công trình tại cơ sở thờ tự, việc khôi phục công trình thờ tự bị hoang phế, bị huỷ hoại do chiến tranh, thiên tai, rủi ro; việc tạo lập cơ sở thờ tự, việc xây dựng công trình thờ tự (nhà, tượng, bia, đài, tháp và các công trình nhằm mục đích thờ tự) người chủ trì cơ sở thờ tự phải:
Làm đơn xin phép Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Thủ tục hành chính cấp giấy phép xây dựng tại Thông tư số 05/BXD/KTQH ngày 18/9/1996 của Bộ Xây dựng.
Việc tổ chức quyên góp để tạo nguồn tài chính cho xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự phải được phép Chủ tịch ủy ban Nhân dân cấp tỉnh.
Người chủ trì cơ sở thờ tự làm sai giấy phép hoặc không xin phép thì sẽ bị xử lý hành chính theo các Điều 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13 của Nghị định 48/CP ngày 5/5/1997 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong quản lý xây dựng và Điều 12, 14 và 16 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
Tổ chức tôn giáo có nhu cầu cần in, xuất bản các loại kinh, sách, văn hoá phẩm có nội dung tôn giáo phải đăng ký đề tài xuất bản với Nhà Xuất bản Tôn giáo trực thuộc Ban Tôn giáo của Chính phủ.
Trong thời gian 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn, Giám đốc Nhà Xuất bản Tôn giáo có trách nhiệm giải quyết và trả lời bằng văn bản.
Nghiêm cấm việc chuyển, nhượng giấy phép xuất bản dưới bất cứ hình thức nào (Điều 9 - Nghị định 79/CP ngày 6/11/1993 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành Luật Xuất bản).
Các tổ chức tôn giáo thuộc Trung ương hoặc thuộc địa phương và những người thuộc các tổ chức đó xuất văn hoá phẩm có nội dung tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo và những hiện vật phục vụ cho công việc tôn giáo, nếu có văn bản đồng ý của Ban Tôn giáo của Chính phủ (ở Trung ương) hoặc Ban Tôn giáo của ủy ban nhân dân cấp tỉnh (ở địa phương) thì cơ quan văn hoá sẽ cấp giấy phép làm thủ tục hải quan (Điều 4 - Quyết định 893 QĐ-CP ngày 20/7/1992 của Bộ Văn hoá Thông tin Thể thao quy định về xuất, nhập khẩu văn hoá phẩm không thuộc phạm vi kinh doanh).
Các tổ chức tôn giáo thuộc Trung ương hoặc thuộc địa phương và những người thuộc các tổ chức đó, nhập văn hoá phẩm nội dung tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo và những hiện vật phục vụ cho công việc tôn giáo phải làm đơn xin phép trước, nếu được sự đồng ý bằng văn bản của Ban Tôn giáo của Chính phủ (ở Trung ương) hoặc Ban Tôn giáo của ủy ban nhân dân cấp tỉnh (ở địa phương) thì cơ quan văn hoá sẽ cấp giấy phép nhập khẩu (Điều 10 - Quyết định 893/QĐ-CP ngày 20/7/1992 của Bộ Văn hoá Thông tin Thể thao quy định về xuất, nhập khẩu văn hoá phẩm không thuộc phạm vi kinh doanh).
Các dòng tu (hoặc các hình thức tổ chức tu hành tập thể tương tự) đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam cần thực hiện việc đăng ký hoạt động với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền:
Dòng tu (hoặc các hình thức tổ chức tu hành tập thể tương tự) hình thành và hoạt động trong phạm vi chỉ một tỉnh hoặc thành phố, người đứng đầu dòng tu phải xin phép và có sự chấp thuận của Trưởng ban Tôn giáo của ủy ban nhân dân cấp tỉnh (trong trường hợp không có Ban Tôn giáo thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh).
Dòng tu (hoặc các hình thức tu hành tập thể) của các tôn giáo khác hình thành và hoạt động trên phạm vi liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, người đứng đầu dòng tu phải xin phép và có sự chấp thuận của Trưởng Ban Tôn giáo của Chính phủ.
Việc bầu bề trên dòng phải được sự chấp thuận của Trưởng Ban Tôn giáo của Chính phủ. Trường hợp bầu bề trên dòng trong phạm vi một tỉnh (hoặc thành phố) phải có sự chấp thuận của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Người đứng đầu dòng tu (hoặc hình thức tổ chức tu hành tập thể tường tự) chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động.
Mọi dòng tu (hoặc các hình thức tu hành tập thể) phải xây dựng quy chế hoạt động với nội dung:
Tôn chỉ, mục đích của dòng tu.
Hệ thống tổ chức và quản lý của dòng tu.
Hoạt động xã hội của dòng tu.
Cơ sở vật chất của dòng tu.
Quan hệ xã hội của dòng tu.
Quan hệ quốc tế của dòng tu.
Có đơn xin Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
Lý lịch rõ ràng có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú;
Người đứng đầu dòng tu chấp thuận;
Tu sinh vị thành niên được cha mẹ hay người giám hộ cam kết đồng ý.
Người nhập tu phải thực hiện việc đăng ký hộ khẩu theo quy định tại Nghị định 51/CP ngày 10/9/1997 của Chính phủ về việc đăng ký và quản lý hộ khẩu.
Nhà nước cấm không cho nhập tu những người trốn tránh pháp luật và các nghĩa vụ công dân.
Việc bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc, nhà tu hành từ tỉnh này sang tỉnh khác phải xin phép và có sự chấp thuận của các Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh của nơi đi và cả nơi đến để hoạt động tôn giáo.
Trong trường hợp muốn phục hồi chức trách, chức vụ tôn giáo có tác dụng trên nhiều tỉnh, thành phố thì tổ chức tôn giáo hợp pháp cấp Trung ương phải xin phép và có sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.
Trong khi chờ đợi Thông tư liên tịch của Ban Tôn giáo của Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo, cần thực hiện một số quy định sau đây.
Học viện Phật giáo Việt Nam, Viện Nghiên cứu Phật học, Trường cao đẳng Phật học, Trường Cơ bản Phật học của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đại Chủng viện của Giáo hội Công giáo Việt Nam và các trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành của các tôn giáo khác khi mở trường phải xin phép Thủ tướng Chính phủ.
Ban Tôn giáo của Chính phủ, các Bộ, Ngành chức năng và ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trường tôn giáo thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra giúp tổ chức tôn giáo có trường tôn giáo hoạt động đúng pháp luật.
Giám đốc Học viện Phật giáo Việt Nam, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật giáo, Giám đốc Đại Chủng viện của Giáo hội Công giáo và các chức danh tương đương của trường của các tổ chức tôn giáo khác do tổ chức tôn giáo bổ nhiệm sau khi có sự chấp thuận của Trưởng Ban Tôn giáo của Chính phủ.
Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Phật học, Trường cơ bản Phật học của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Lớp giáo lý hạnh đường của đạo Cao đài và các trường lớp tương đương của tôn giáo khác do người đứng đầu tổ chức tôn giáo địa phương bổ nhiệm với sự chấp thuận của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Các loại trường, lớp của các tổ chức tôn giáo phải có quy chế hoạt động:
Chức năng, nhiệm vụ của trường.
Tổ chức các hoạt động giáo dục trong trường, lớp tôn giáo.
Nhiệm vụ, quyền hạn của giảng viên.
Nhiệm vụ và quyền hạn của người học.
Tổ chức quản lý trường, lớp tôn giáo.
Quan hệ của trường, lớp tôn giáo và xã hội.
Giám đốc, Viện trưởng, Hiệu trưởng trường, lớp của các tổ chức tôn giáo chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động .
Giảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước.
Người vào học các trường, lớp đào tạo chức sắc, nhà tu hành phải hoàn thành các nghĩa vụ công dân, lý lịch rõ ràng có xác nhận của chính quyền cấp xã.
Chương trình đào tạo chức sắc, nhà tu hành các trường, lớp tôn giáo có môn Giáo dục công dân (giáo dục chính trị, pháp luật, lịch sử dân tộc) là môn học chính khoá.
Cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục đào tạo để xuyên tạc chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chống lại Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc (Điều 17, Luật Giáo dục).
(Các trường, lớp đào tạo chức sắc, nhà tu hành của từng tôn giáo sẽ có văn bản hướng dẫn riêng).
Thông tư này có trích dẫn những điều, khoản trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến lĩnh vực tôn giáo để các cấp, các ngành nghiên cứu vận dụng (có phụ lục kèm theo)./.
|
BAN TÔN GIÁO CỦA CHÍNH PHỦ |