THÔNG TƯ
LIÊN
NGÀNH TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - BỘ TƯ PHÁP
SỐ 05/TTLN NGÀY 15 THÁNG 10 NĂM 1993
HƯỚNG DẤN
THỰC HIỆN MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LỆNH VỀ THẨM PHÁN
VÀ HỘI THẨM TOÀ ÁN NHÂN DÂN
Để thực hiện đúng các
quy định của Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân được uỷ ban
Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 5 năm 1993;
Sau khi trao đổi với
văn phòng Chủ tịch nước, Bộ Quốc phòng, Toà án nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp
hướng dẫn một số điểm như sau đây:
I. VỀ TIÊU CHUẨN THẨM PHÁN
1- Theo quy định tại Điều 33 của Pháp lệnh về thẩm phán và
Hội thẩm toà án nhân dân thì: "Pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 15 tháng
8 năm 1993"; do đó, kể từ ngày 15 tháng 8 năm 1993, công dân Việt Nam để
có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án cấp nào thì phải có đầy
đủ các tiêu chuẩn mà Pháp lệnh quy định đối với Thẩm phán Toà án cấp đó. Tuy nhiên, theo Nghị quyết số
37/UBTVQH 9 ngày 14 tháng 5 năm 1993 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội "quy
định một số điểm về việc thi hành Pháp
lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân" cần phân biệt các trường
hợp sau:
a) Đối với những người hiện tại không phải là Thẩm phán, để
có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm
Thẩm phán Toà án cấp nào, thì phải có đủ các tiêu chuẩn mà Pháp lệnh quy định
đối với Thẩm phán Toà án cấp đó.
b) Đối với những Thẩm phán đương nhiệm chưa đủ thời gian làm
công tác pháp luật, chưa có trình độ cao đẳng Toà án hoặc đại học Luật,
nhưng có đủ các tiêu chuẩn khác mà Pháp
lệnh quy định đối với Thẩm phán Toà án cấp họ đượng nhiệm là Thẩm phán, thì vẫn
có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm lại làm Thẩm phán Toà án cấp đó. Trong nhiệm
kỳ được bổ nhiệm lại, những Thẩm phán chưa có đủ trình độ cao đẳng Toà án hoặc
đại học luật phải học tập để đạt trình độ đại học luật; nếu không thì không
được tuyển chọn và bổ nhiệm lại làm Thẩm phán trong nhiệm kỳ tiếp theo. Chánh
án toà án có Thẩm phán vừa được bổ nhiệm lại, nhưng còn thiếu tiêu chuẩn về
trình độ Cao đẳng Toà án hoặc đại học luật có trách nhiệm phối hợp với cơ quan
chức năng bố trí thời gian, tạo điều kiện cho Thẩm phán đi học để nâng cao
trình độ đại học luật.
2. Tiêu chuẩn "có sức khoẻ bảo đảm cho hoàn thành nhiệm
vụ được giao" quy định tại Điều 4 của Pháp lệnh cần được hiểu là ngoài thể
lực cần thiết, còn bao gồm yếu tố ngoại hình đó là không dị tật, đị hình ảnh
hưởng trực tiếp đến tư thế hoặc việc thực hiện nhiệm vụ của người Thẩm phán.
3. Những người sau đây được coi là không đủ tiêu chuẩn
"có phẩm chất, đạo đức tốt":
- Người đã bị kết án về tội cố ý, không phụ thuộc vào việc
đã được xoá án hay chưa được xoá án;
- Người đã bị kết án về tội vô ý, nhưng chưa được xoá án;
- Người có hành vi vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức gây ảnh
hưởng xấu hoặc mất uy tín trong quần chúng, nhân dân;
- Người có người thân thích, ruột thịt như cha, mẹ, vợ,
chồng, con cùng sống chung trong gia đình mà họ có những việc làm vi phạm pháp luật nghiêm trọng, có
hệ thống.
II. VIỆC THÀNH LẬP HỘI ĐỒNG TUYỂN CHỌN
THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN, QUẬN,
THỊ Xà, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TỈNH.
Theo quy định tại Điều 23 của Pháp lệnh: "Hội đồng
tuyển chọn thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh gồm có Giám đốc Sở Tư pháp làm Chủ tịch, đại diện Hội đồng nhân dân, Toà
án nhân dân, ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Ban chấp hành Hội luật gia tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương là uỷ viên.
Danh sách các uỷ viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán toà
án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh do Bộ trưởng Bộ Tư pháp
quyết định theo đề nghị của Giám đốc Sở Tư pháp sau khi thống nhất ý kiến với
Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương".
Pháp lệnh không quy định cụ thể người nào có thể đại diện,
nhưng theo tinh thần chung thì người đại diện phải là một trong những người
lãnh đạo của các cơ quan, tổ chức nói trên. Do đó, Giám đốc Sở Tư pháp phải có
công văn gửi cho các cơ quan, tổ chức nói trên yêu cầu cử một trong những người
lãnh đạo sau đây tham gia hội đồng tuyển chọn Thẩm phán:
- Đại diện của Hội đồng nhân dân là một thành viên của
Thường trực Hội đồng nhân dân hoặc Trưởng ban hay Phó ban Ban pháp chế của Hội
đồng nhân dân.
- Đại diện của Toà án nhân dân là Chánh án hoặc Phó chánh
án;
- Đại diện của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc là một thành viên của
Thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc;
- Đại diện của Ban chấp hành hội luật gia là một thành viên
của Thường vụ Ban chấp hành Hội luật gia. Nơi nào chưa thành lập Hội luật gia
thì tạm thời không có đại diện của Ban chấp hành Hội luật gia tham gia hội đồng
tuyển chọn thẩm phán. Khi nào Hội luật gia được thành lập thì Giám đốc Sở Tư
pháp đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định bổ sung đại diện của Ban chấp hành
Hội luật gia làm uỷ viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán.
Trong trường hợp Trưởng ban hay Phó trưởng ban pháp chế của
Hội đồng nhân dân hoặc thành viên của Thường vụ Ban chấp hành Hội luật gia...
là lãnh đạo của Sở Tư pháp, Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương thì họ không được cử tham gia hội
đồng tuyển chọn Thẩm phán.
Sau khi có quyết định của cơ quan, tổ chức nói trên về việc
cử người tham gia Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán, Giám đốc Sở Tư pháp cần kịp
thời trao đổi ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương; nếu thấy người được cử tham gia Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán không
đúng thành phần hướng dẫn nói trên hoặc có vấn đề cần được xem xét lại (như
đang còn kỷ luật hay có dư luận không tốt), thì Giám đốc Sở Tư pháp cần trao
đổi ý kiến với tập thể lãnh đạo cơ quan đã cử người đó và đề nghị xem xét lại.
Sau khi đã có sự thống nhất ý kiến thì Giám đốc Sở Tư pháp đề nghị danh sách
các uỷ viên lên Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định. Trong trường hợp có ý kiến
khác nhau thì Giám đốc Sở Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương báo cáo ý kiến của
mình lên Bộ trưởng Bộ Tư pháp để xem xét, quyết định.
III. THỦ TỤC TUYỂN CHỌN VÀ TRÌNH CHỦ TỊCH NƯỚC
BỔ NHIỆM LÀM THẨM PHÁN
1. Hồ sơ của người được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm
Thẩm phán gồm có các giấy tờ sau đây:
- Một bản sơ yếu lý lịch có chứng nhận của cơ quan quản lý
hồ sơ, lý lịch gốc của người đó.
- Một đơn xin tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán theo mẫu
do Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân tối cao quy định;
- Các bản sao văn bằng, các chứng chỉ về trình độ chuyên môn
pháp luật, trình độ lý luận chính trị và các chứng chỉ khác (nếu có) liên quan
đến việc tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán. Các bản sao này đều có chứng
thực của công chứng Nhà nước hoặc cơ quan nơi người đó công tác.
- Nhận xét đối với người xin được tuyển chọn, bổ nhiệm làm
Thẩm phán của cơ quan nơi người đó công tác theo các tiêu chuẩn đối với Thẩm
phán đưọc quy định tại Pháp lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm Toà án nhân dân.
2. Việc chuẩn bị hồ sơ của người được đề nghị tuyển chọn và
bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, kể cả việc lấy ý kiến của cấp uỷ cùng cấp, do Sở Tư pháp đảm nhiệm có sự
phối hợp chặt chẽ với Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Việc chuẩn bị hồ sơ của người được đề nghị tuyển chọn và bổ
nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, kể
cả việc lấy ý kiến của cấp uỷ cùng cấp, do Bộ
Tư pháp đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với Toà án nhân dân tối cao.
Việc chuẩn bị hồ sơ của người được đề nghị tuyển chọn và bổ
nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Toà án quân sự khu
vực, kể cả việc lấy ý kiến của Đảng uỷ Quân khu, Quân đoàn, Quân chủng, Tổng
cục hoặc cấp tương đương do Bộ Quốc phòng đảm nhiệm có sự phối hợp chặt chẽ với
Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao.
3. Việc tuyển chọn người để bổ nhiệm làm Thẩm phán được tiến
hành đối với từng người một và theo trình tự: một thành viên của hội đồng tuyển
chọn Thẩm phán trình bày các tài liệu có trong hồ sơ của người được đề nghị
tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán; căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ,
các thành viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán phát biểu ý kiến của mình về
việc người được đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phánvà Hội thẩm Toà án
nhân dân hay không; Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán biểu quyết công khai bằng
cách giơ tay; quyết định của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán phải được quá nửa
tổng số thành viên của hội đồng biểu quyết tán thành.
Thành viên của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Nhà nước nếu
không đồng ý với ý kiến đa số của hội đồng có quyền bảo lưu ý kiến của mình và
ý kiến bảo lưu, lý do bảo lưu phải được ghi rõ vào biên bản.
Việc trình Chủ tịch nước bổ nhiệm Thẩm phán được tiến hành
như sau:
a. Danh sách những người được hội đồng tuyển chọn Thẩm phán
Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thẩm phán Toà án quân
khu và tương đương, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực tuyển chọn, do Bộ trưởng
Bộ Tư pháp -Chủ tịch hội đồng tuyển chọn trình Chủ tịch nước bổ nhiệm. Kèm theo
tờ trình là hồ sơ của người được Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán đã tuyển chọn,
bản sao biên bản phiên họp tuyển chọn Thẩm phán của hội đồng.
b. Đối với những người Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án
nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh tuyển chọn, thì Giám đốc Sở
Tư pháp -Chủ tịch hội đồng tuyển chọn báo cáo kết quả việc tuyển chọn bắng văn
bản gửi cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp để Bộ trưởng Bộ Tư pháp thống nhất với Chánh
án Toà án nhân dân tối cao trình Chủ tịch nước bổ nhiệm. Kèm theo báo cáo kết
quả việc tuyển chọn Thẩm phán của hội đồng.
Sau khi nhận được báo cáo kết quả việc tuyển chọn Bộ trưởng
Bộ Tư pháp trao đổi ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Nếu có trưqờng
hợp nào mà Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao thấy cần
thiết yêu cầu Hội đồng tuyển chọn xem xét lại
hoặc làm rõ, thì Hội đồng tuyển chọn có trách nhiệm thực hiện yêu cầu
đó. Trong trường hợp Hội đồng tuyển chọn vẫn giữ ý kiến của mình, thì nêu lý do
và Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao sẽ trình ý kiến của
mình về trường hợp đó với Chủ tịch nước.
IV. VIỆC CÁCH CHỨC THẨM PHÁN
1. Đối với Thẩm phán vi phạm kỷ luật không còn đủ tiêu chuẩn
làm Thẩm phán, thì hồ sơ đề nghị Chủ tịch nước cách chức gồm có các giấy tờ sau
đây:
- Bản tự kiểm điểm của Thẩm phán;
- Biên bản của Hội đồng kỷ luật cơ quan nơi Thẩm phán công
tác.
2. Việc chuẩn bị hồ sơ đề nghị cách chức Thẩm phán đối với
Thẩm phán Toà án nào do Chánh án Toà án đó đảm nhiệm. Sau khi chuẩn bị xong thì
hồ sơ đề nghị cách chức Thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu và tương đương, Thẩm phán Toà án
quân sự khu vực được gửi đến Bộ Tư pháp; hồ sơ đề nghị cách chức Thẩm phán Toà
án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh được gửi đến Sở Tư pháp.
Việc chuẩn bị hồ sơ đề nghị cách chức Chánh án, Phó Chánh án
Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương do Bộ Tư pháp đảm nhiệm;
việc chuẩn bị hồ sơ đề nghị cách chức Chánh án Toà án quân sự quân khu và tương
đương, Toà án quân sự khu vực do Bộ quốc phòng đảm nhiệm và việc chuẩn bị hồ sơ
đề nghị cách chức Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân quận, huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh do Sở Tư pháp đảm nhiệm.
3. Việc xét và trình Chủ tịch nước cách chức Thẩm phán được
thực hiện theo thủ tục và trình tự như việc tuyển chọn và trình Chủ tịch nước
bổ nhiệm Thẩm phánhướng dẫn tại Mục III của Thông tư này.
Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày ký.
Trong quá trình thực hiện Thông tư này nếu có gì vướng mắc,
thì các cơ quan hữu quan báo cáo để Toà
án nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn việc giải quyết.