Nghị quyết về nhiệm vụ năm 1995
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Nghị quyết
Cơ quan ban hành: | Quốc hội | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đang cập nhật |
Số hiệu: | Không số | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Nông Đức Mạnh |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 01/11/1994 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Lĩnh vực: |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Nghị quyết Không số
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
NGHỊ QUYẾT
VỀ NHIỆM
VỤ NĂM 1995
QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Căn cứ vào
Điều 84 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam;
Sau khi xem xét báo
cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện nhiệm
vụ năm 1994 và phương hướng nhiệm vụ
năm 1995, báo cáo công tác của Toà án nhân dân tối cao và Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, báo cáo thẩm tra và thuyết
trình của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của
Quốc hội, ý kiến đại biểu Quốc hội
và báo cáo tổng hợp ý kiến cử tri cả nước;
QUYẾT NGHỊ:
Quốc hội
tán thành báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện
nhiệm vụ năm 1994, phương hướng, nhiệm
vụ năm 1995, báo cáo của Toà án nhân dân tối cao và Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Quốc hội nhấn mạnh
một số vấn đề sau đây:
I- ĐÁNH GIÁ
TÌNH HÌNH NĂM 1994
Phát huy kết
quả của các năm trước, năm 1994, nhân dân ta
tiếp tục phấn đầu đạt được
những thành tựu mới: tình hình kinh tế - xã hội có
thêm những chuyển biến tích cực, quốc phòng, an
ninh được giữ vững, quan hệ đối
ngoại và hợp tác quốc tế được mở rộng,
đời sống của số đông nhân dân có bước
cải thiện; mở ra triển vọng đạt và vượt
nhiều chỉ tiêu mà Nghị quyết Quốc hội đã
đề ra.
Những thành
tựu nói trên đã tạo thuận lợi cho việc hoàn
thành vượt mức kế hoạch 5 năm 1991-1995 và tạo
đà cho sự phát triển trong những năm tiếp
theo.
Tuy nhiên, nền
kinh tế nước ta nhìn chung vẫn còn nhiều mặt
yếu kém: ngân sách Nhà nước vẫn bội chi lớn,
công tác điều hành tài chính còn nhiều nhược điểm,
mức đầu tư phát triển thấp, khả năng
kiềm chế lạm phát chưa thật vững chắc.
Kết quả việc thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí, chống tham nhũng, chống buôn lậu còn hạn
chế. Các tệ nạn xã hội chậm được
khắc phục. Bộ máy Nhà nước còn cồng kềnh,
kém hiệu lực. Kỷ cương trong quản lý kinh tế,
quản lý xã hội còn lỏng lẻo. Việc thủ tục
hành chính phiền hà chậm được sửa đổi.
Việc giải quyết đơn thư khiếu nại,
tố cáo của công dân còn chậm. Bên cạnh đó, thiên
tai đã gây thiệt hại nặng ở nhiều địa
phương và để lại hậu quả cho năm
1995 và nhiều năm sau.
Từ tình hình
trên và trước những yêu cầu mới, những thời
cơ và thách thức mới, Quốc hội quyết nghị
nhiệm vụ và chỉ tiêu chủ yếu của năm
1995 như sau:
II- PHƯƠNG
HƯỚNG, NHIỆM VỤ CHUNG VÀ CHỈ TIÊU NĂM 1995
1- Phương
hướng, nhiệm vụ năm 1995 là:
Tiếp tục
đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, đưa
đất nước chuyển sang thời kỳ phát triển
mới với tộc độ cao hơn theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trên cơ sở phát
huy có hiệu quả mọi tiềm năng của đất
nước, thực hành tiết kiệm, đẩy nhanh tốc
độ cải cách kinh tế gắn với cải cách hành
chính, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lành mạnh
hoá tình hình tài chính - tiền tệ. Bảo đảm sự
phát triển hài hoà giữa kinh tế và văn hoá - xã hội.
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng,
chống buôn lậu. Giữ vững ổn định chính
trị, củng cố quốc phòng, an ninh. Mở rộng
quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế.
2- Những
chỉ tiêu chủ yếu của năm 1995 là:
- Tổng sản
phẩm trong nước (GDP) tăng: 9%-10%.
- Giá trị
sản lượng nông nghiệp tăng: 4,5% - 5%.
- Sản lượng
lương thực đạt: 26 triệu - 26,5 triệu tấn.
- Giá tri sản
lượng công nghiệp tăng: 13% - 14%.
- Giá trị
kim ngạch xuất khẩu tăng: 25%.
- Kiềm chế
lạm phát ở mức 10%.
III- CÁC NHIỆM
VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH
1- Về kinh
tế:
a) Đổi
mới hơn nữa công tác kế hoạch hoá, bảo đảm
định hướng đưa nền kinh tế theo mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh.
Tiến hành
tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm
1991-1995. Tích cực triển khai xây dựng kế hoạch
5 năm (từ năm 1996 đến năm 2000) bảo đảm
phát huy lợi thế và tiềm năng của đất nước,
thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của chiến
lượng phát triển kinh tế - xã hội.
Tiếp tục
xây dựng và hoàn chỉnh quy hoạch các vùng kinh tế trọng
điểm, các ngành và các khu công nghiệp tập trung. Tích cực
chuẩn bị các dự án đầu tư lớn, những
công trình then chốt trong kế hoạch 5 năm tới.
Nghiên cứu xây dựng phương án phòng, chống lũ,
lụt cho đồng bằng sông Cửu Long và những vùng
thường xuyên bị lũ, lụt đe doạ.
b) Về Tài
chính - tiền tệ:
Xây dựng
chính sách tài chính quốc gia. Phấn đấu tăng thu trên
cơ sở mở rộng và nâng cao hiệu quả sản
xuất, kinh doanh, khai thác và quản lý tốt nguồn thu, có
chính sách tạo thêm và nuôi dưỡng nguồn thu. Tiết
kiệm hơn nữa chi cho tiêu dùng, chi quản lý hành chính để
tăng vốn cho đầu tư phát triển; phấn đấu
giảm bội chi ngân sách, tiến tới cân bằng thu chi
và có tích luỹ. Kiểm soát chặt chẽ việc cung ứng
tiền tệ, điều chỉnh cung cầu theo hướng
vừa bảo đảm yêu cầu sản xuất, kinh
doanh và tăng trưởng kinh tế, vừa có tác dụng
kiềm chế lạm phát. Tiếp tục xoá bao cấp qua
vốn, qua giá với cách làm và bước đi phù hợp.
Điều chỉnh tỷ giá hối đoái linh hoạt nhằm
khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu
theo định hướng kế hoạch. Có chính sách lãi
suất hợp lý, huy động được tiền gửi,
khuyến khích vay vốn đầy tư phát triển; tăng
tín dụng đầu tư trung hạn và dài hạn cho sản
xuất nông nghiệp.
Tiếp tục
xử lý tốt chế độ phân cấp quản lý ngân
sách giữa trung ương và địa phương để
vừa bảo đảm vai trò quản lý thống nhất
của trung ương đối với nền tài chính quốc
gia, vừa phát huy tính chủ động và trách nhiệm của
địa phương. Cải tiến khâu phân bổ thu,
chi ngân sách cho các địa phương, bảo dảm tính
ổn định, dân chủ công khai. Cấp ngân sách cho các địa
phương kịp thời và thuận tiện; tăng cường
kiểm tra, giám sát việc quản lý chi tiêu theo đúng chính
sách, chế độ, chống lãng phí, tham ô, sử dụng
vốn sai mục đích.
Huy động
và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn; có chính
sách và cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp và nhân dân
đầu tư phát triển sản xuất. Triển khai
Luật khuyến khích đầu tư trong nước. Sơ
kết, đánh giá việc thực hiện Luật đầu
tư nước ngoài để có những sửa đổi,
bổ sung kịp thời.
Phân bổ hợp
lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ngân sách
cho đầu tư phát triển. Cần tập trung vốn
cho những công trình trọng điểm, sớm đem lại
hiệu quả. Chấm dứt tính trạng đầu tư
phân tán, thì công kéo dài gây lãng phí, thất thoát. Chấn chỉnh
cơ chế quản lý vốn ngân sách và hoàn chỉnh cơ
chế tín dụng cho đầu tư xây dựng cơ bản;
xây dựng cơ chế "tự vay, tự trả"
trong lĩnh vực đầu tư phát triển.
Tiếp tục
củng cố và đổi mới hoạt động của
ngân hàng, tài chính đáp ứng yêu cầu của sản xuất,
kinh doanh và huy động vốn. Đẩy nhanh việc hình
thành thị trường vốn, tạo điều kiện
cho các nguồn vốn sớm phát huy tác dụng.
c) Về chuyển
dịch cơ cấu kinh tế:
Thúc đẩy
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
phát huy lợi thế sản xuất của từng vùng và
của quốc gia. Bên cạnh việc đầu tư có
trọng điểm nhằm xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, cần tập trung xây dựng
một số cơ sở sản xuất, kinh doanh trọng
yếu. Quan tâm đến công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn. Phát triển
toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp, đặc biệt cọi
trọng công nghiệp chế biến, công nghiệp sản
xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Đầu tư có
chọn lọc vào các ngành then chốt như ngành điện,
dầu khí, thép, cơ khí chế tạo, xi măng, các vật
liệu xây dựng khác. Chú trọng đầu tư chiều
sâu, nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng
sản phẩm và hiệu quả kinh tế. Quan tâm phát triển
doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ.
d) Về kinh
tế đối ngoại và xuất, nhập khẩu:
Mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại. Khẩn trương
hoàn thiện chính sách, cải thiện môi trường đầu
tư; nhanh chóng xoá bỏ các khâu trung gian, các thủ tục
hành chính phiền hà, các tệ nạn tiêu cực trong lĩnh
vực hợp tác và đầu tư; khuyến khích đầu
tư theo hướng ưu tiên cho sản xuất, chuyển
giao công nghệ và kinh nghiệp quản lý. Cần tính toán kỹ
bước đi, lĩnh vực, quy mô và hình thực hợp
tác, liên doanh với nước ngoài, bảo đảm hiệu
quả và lợi ích lâu dài của đất nước.
Xây dựng hệ
thống chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất
khẩu. Quản lý chặt chẽ hoạt động nhập
khẩu; coi trọng việc nhập khẩu máy móc, thiết
bị cho sản xuất, đổi mới công nghệ; hạn
chế việc nhập khẩu hàng tiêu dùng chưa thật
cần thiết hoặc trong nước đã sản xuất
được; phấn đấu để tiến tới
cân bằng xuất, nhập khẩu và tăng quỹ dự
trữ ngoại tệ. Phát triển mạnh du lịch và các
dịch vụ thu ngoại tệ khác.
e) Về quan
hệ sản xuất:
Tập trung
chỉ đạo việc chỉnh đốn tổ chức,
cải tiến quản lý và xử lý vấn đề vốn
cho các cơ sở kinh tế quốc doanh nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động sản xuất, kinh doanh và bảo
đảm vai trò chủ đạo của thành phần kinh
tế này. Từng bước thực hiện việc bỏ
chế độ Bộ chủ quản, cấp hành chính chủ
quản. Khôi phục và phát triển thương mại quốc
doanh ở những ngành hàng và những địa bàn trọng
yếu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh
doanh, đủ sức hỗ trợ việc chuyển đổi
cơ cầu kinh tế nông nghiệp và can thiệp có hiệu
quả vào thị trường khi cần thiết.
Có hình thức
và biện pháp hợp lý, tiếp tục xử lý các doanh
nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài. Sơ kết
rút kinh nghiệm việc thí điểm cổ phần hoá để
tiếp tục triển khai có hiệu quả và đúng hướng.
Tổng kết,
đánh giá tình hình kinh tế hợp tác, nhân rộng các mô hình
làm ăn có hiệu quả và hỗ trợ cho các loại hình
kinh tế này phát triển. Hướng dẫn, giúp đỡ
các hợp tác xã, các hộ xã viên, các hộ cá thể về
khoa học, kỹ thuật, về vốn và tiếp thị.
Khuyến khích
kinh tế tư nhân phát triển theo định hướng
có lợi cho quốc tế, dân sinh.
2- Về khoa
học, công nghệ và môi trường:
Đẩy mạnh
nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ phục
vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Gắn hoạt động khoa học và công nghệ với
sản xuất, đời sống. Khuyến khích các doanh
nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ. Có
chính sách khuyến khích các nhà khoa học gắn bó với sản
xuất. Tiếp thu có hiệu quả các tiến bộ khoa
học và công nghệ của nước ngoài góp phần từng
bước nâng cao trình độ công nghệ, năng suất
lao động và chất lượng sản phẩm. Đổi
mới công tác quản lý khoa học và công nghệ theo hướng
dẫn các cơ quan khoa học với sản xuất và đào
tạo.
Ứng dụng
rộng tãi và có hiệu quả công nghệ thông tin trong công
tác cải cách hành chính và trong các ngành kinh tế, trước
kết là trong các ngành tài chính, ngân hàng. ứng dụng mạnh
mẽ công nghệ sinh học để chuyển dịch cơ
cấu nông nghiệp nhằm tạo ra nhiều giống cây
trồng, vật nuôi, có năng suất và chất lượng
cao.
Trong sự
nghiệp phát triển kinh tế, kiên quyết bảo vệ
môi trường, đáp ứng yêu cầu phát triển trước
mắt và lâu dài. Triển khai thực hiện Luật bảo
vệ môi trường; hình thành mạng lưới kiểm
soát môi trường từ trung ương đến cơ
sở, xử lý nghiêm những hành vi phá hoạt môi trường,
phá vỡ cảnh quan thiên nhiên, cấu trúc đô thị.
3- Về văn
hoá - giáo dục:
Tiếp tục
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Phát
triển các loại hình trường, lớp bán công và dân lập,
đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu học của
nhân dân. Đảm bảo các điều kiện nhất là
đội ngũ giáo viên để thực hiện mục
tiêu phổ cập giáo dục tiểu học và xoá mù chữ;
phấn đấu bỏ dần lớp học ca 3 và trường
lớp tre lá; củng cố và mở rộng các trường
phổ thông dân tộc nội trú. Sắp xếp hợp lý các
trường đại học và chuyên nghiệp; từng bước
đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục và
đào tạo; chấn chỉnh đào tạo tại chức.
Chăm lo ngành sư phạm; thực hiện chế độ
bồi dưỡng giáo viên; có chính sách đãi ngộ thoả
đáng đối với giáo viên giỏi, giáo viên vùng cao, vùng
sâu, biên giới, hải đảo... Hoàn chỉnh cơ chế
phân công, phân cấp quản lý ngân sách và cán bộ trong các lĩnh
vực văn hoá, giáo dục trong cả nước.
Giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc. Tăng cường
quản lý Nhà nước trong lĩnh vực văn hoá, thông
tin; xử lý nghiêm những vi phạm về quản lý và những
hành vi lưu hành văn hoá phẩm có nội dung xấu, đặc
biệt là phim, băng hình mang tính kích động bạo lực
và khiêu dâm. Đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng
văn hoá, thông tin cơ sở, xây dựng gia đình văn
hoá. Tiếp tục nghiên cứu, cải tiến chế độ,
chính sách đối với văn nghệ sĩ và những
người hoạt động trong lĩnh vực sáng tạo
nghệ thuật. Chủ động trong mở rộng
giao lưu văn hoá và thông tin đối ngoai. Tổ chức
tốt và tiết kiệm các hoạt động kỷ niệm
những ngày lễ lớn trong năm 1995. Nâng cao chất lượng
các chương trình phát thành, truyền hình; mở rộng
diện phủ sóng để đảm bảo cho nhân dân
trong cả nước được xem những nội
dung chính của chương trình truyền hình Trung ương.
Đẩy mạnh
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thể
dục, thể thao. Chú trọng thể thao thành tích cao trên cơ
sở mở rộng phong trào thể dục, thể thao quần
chúng. Tổ chức tốt đại hội thể dục,
thể thao toàn quốc năm 1995, tích cực chuẩn bị
cho việc tham dự đại hội thể theo Đông
Nam á.
Khơi dậy
tiềm năng của cộng đồng và gia đình đối
với việc thực hiện các mục tiêu bảo vệ,
chăm sóc trẻ em. Có những chính sách và biện pháp giáo dục
thanh niên, giúp thành niên lập nghiệp, giải quyết việc
làm.
4- Về các
vấn đề xã hội và y tế:
Bảo đảm
nguồn vốn cho các chương trình quốc gia nhằm
tạo việc làm, thu hút nhiều lao động thông quá các
dự án nhỏ, chú ý các vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách
mạng, kháng chiến cũ. Đẩy mạnh phong trao
"xoá đói giảm nghèo"; dành một phần ngân sách để
chủ động khắc phục hậu quả ở các
vùng xảy ra thiên tai. Triển khai thực hiện tốt Bộ
luật lao động, Pháp lệnh ưu đãi người
hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình
liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt
động kháng chiến, người có công giúp đỡ
cách mạng và Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự
Nhà nước "Bà mẹ Việt Nam anh hùng". Bảo đảm
và từng bước nâng cao đời sống các đối
tượng chính sách xã hội. Chính phủ nghiên cứu sửa
đổi, bổ sung chính sách, chế độ cho cán bộ
cấp xã, phường và điều chỉnh những bất
hợp lý trong quá trình thực hiện chính sách tiền lương
mới trên cơ sở tổng quỹ lương đã được
Quốc hội thông qua.
Bảo đảm
thực hiện chương trình chăm sóc sức khoẻ
ban đầu, nhất là việc chăm sóc sức khoẻ
bà mẹ, trẻ em, người cao tuổi. Củng cố
và phát triển trạm y tế cơ sở, nhất là ở
miền núi, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt quan tâm tới
việc xoá "xã trắng" về y tế. Tích cực đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ y tế; thực hiện
chính sách đãi ngộ đối với cán bộ y tế
cơ sở. Đầu tư kinh phí kịp thời cho việc
phòng, chữa bệnh sốt rét, bệnh phong, lao và một
số bệnh khác; cung cấp đủ muối iốt cho
chương trình phòng, chống bệnh bướu cổ.
Có các biện phép để người nghèo được
khám, chữa bệnh giảm, miễn phí. Tăng cường
đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết
bị cho các cơ sở y tế; xây dựng 2 trung tâm y tế
trình độ cao ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh. Quản lý tốt các phòng khám, điều trị, nhà
thuốc tư nhân. Xã hội hoá các hoạt động y tế
- xã hội bằng nhiều biện pháp và hình thức thích
hợp. Nhanh chóng khắc phục hiện tượng tiêu cực
trong khám, chữa bệnh. Đẩy mạnh việc thực
hiện chiến lược dân số - kế hoạch hoá
gia đình đến năm 2000; chú trọng công tác giáo dục,
truyền thống để tạo ra bước chuyển
biến lớn về nhận thức; cung cấp đủ
kinh phí và dịch vụ kỹ thuật để bảo đảm
thực hiện việc giảm tỷ lệ phát triển
dân số 0,06%/năm.
Tiếp tục
thực hiện các biện pháp phòng, chống các tệ nạn
xã hội, trước hết là các tệ nghiện hút, tiêm
chích ma tuý, mại dạm, cờ bạc; có các biện pháp tích
cực giáo dục, chữa trị kết hợp với dạy
nghề, tạo việc làm cho các đối tượng này;
nghiêm trị bọn chủ chứa, bọn môi giới mại
dâm, bọn tổ chức dùng chất ma tuý. Tăng đầu
tư và thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp phòng,
chống lây nhiễm HIV/AIDS.
5- Về quốc
phòng, an ninh:
Động
viên toàn dân, toàn quân giữ vững ổn định chính trị,
bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ; không ngừng nâng cao cảch giác cách mạng, bảo
vệ an ninh quốc gia.
Phát huy sức
mạnh tổng hợp tích cực xây dựng nền quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân đi vào chiều sâu. Kết hợp
chặt chẽ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
với quốc phòng, an ninh, củng cố các khu vực phòng
thủ, các vùng biển, đảo, biên giới, các phòng tuyến
an ninh và các cơ sở vững mạnh toàn diện. Nâng cao
chất lượng các cơ quan và cán bộ chuyên trách giúp
các cấp, các ngành triển khai nhiệm vụ quốc phòng,
an ninh theo chức năng. Thực hiện tốt chính sách hậu
phương quân đội.
Tăng cường
tuyên truyền, giáo dục pháp luật; động viên đông
đảo quần chúng kết hợp chặt chẽ với
các lực lượng bảo vệ pháp luật trong việc
giữ gìn trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội,
phòng, chống tội phạm và các tệ nạn xã hội.
Tích cực nâng
cao chất lượng tổng hợp của các lực lượng
vũ trang. Giáo dục Luật nghĩa vụ quân sự
trong nhân dân, nhất là cho thành niên. Tăng cường đầu
tư cho công nghiệp quốc phòng, các học viện và các
trường của quân đội, công an.
Tăng cường
công tác bảo đảm kỹ thuật Xây dựng lực
lượng vũ trang chính quy, trong sạch, vững mạnh,
gắn bó mật thiết với nhân dân. Từng bước
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cán
bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang.
6- Về các
vấn đề dân tộc thiểu số và miền núi:
Quan tâm đầu
tư thích đáng cho vùng các dân tộc thiểu số và miền
núi, trong đó chú ý đầu tư về cơ sở hạ
tầng như đường giao thông, điện, thông
tin liên lạc, nước tưới và nước sinh hoạt...
và đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế
để khai thác thế mạnh của miền núi; đẩy
mạnh việc giao đất, giao rừng cho các hộ gia
đình. Triển khai chương trình tổng thể vùng
cao phía Bắc, kết hợp việc phát triển kinh tế
với quốc phòng, an ninh. Cải tiến thủ tục xét
duyệt và cấp vốn cho các chương trình mục tiêu
liên quan đến việc phủ xanh đồi, núi trọc,
bảo vệ rừng, phát triển cây công nghiệp và chăn
nuôi. Thực hiện tốt định canh, định cư,
giải quyết một bước cơ bản vấn đề
di, định cư. Nghiên cứu xây dựng quỹ hỗ
trợ phát triển kinh tế vùng dân tộc thiểu số
và miền núi với những điều kiện vay vốn
ưu đãi.
Tiếp tục
thực hiện tốt một số chính sách hỗ trợ
cho vùng cao, biên giới khó khăn, vùng lòng hồ, vùng đồng
bào Khơme bị lũ, lụt nặng, vùng xoá bỏ cây
thuộc phiện; đầu tư nghiên cứu biện pháp
thay thế cây thuốc phiện.
Tích cực đào
tạo đội ngũ cán bộ người dân tộc
thiểu số và xây dựng hệ thống chính sách để
khuyến khích giáo viên, cán bộ y tế, các cán bộ khoa học,
kỹ thuật tích cực tham gia sự nghiệp phát triển
văn hoá, giáo dục, y tế miền núi.
7- Về đối
ngoại:
Trên cơ sở
đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, hoà bình, hữu nghị và hợp tác quốc
tế, tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt
được, ra sức thực hiện chính sách đối
ngoại rộng mở với phương châm đa phương
hoá, đa dạng hoá quan hệ. Chuẩn bị các điều
kiện cần thiết để gia nhập các tổ chức
khu vực và quốc tế khác. Tăng cường hơn
nữa quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới. Quan tâm bảo vệ quyền lợi chính
đáng của người Việt Nam ở ngoài nước,
phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế.
Tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng
cố vị trí của nước ta ở khu vực và trên
thế giới.
8- Tiếp tục
đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết
về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống
tham nhũng, chống buôn lậu:
Biến việc
thực hiện Nghị quyết của Quốc hội thành
cuộc vận động sâu rộng, thu hút đông đảo
quần chúng và các tổ chức chính trị, xã hội tham
gia nhằm tạo được những chuyển biến
thực sự trong năm 1995.
Kiện toàn
và nâng cao hiệu quả hoạt động của Bộ
máy chỉ đạo công tác đấu tranh chống tham nhũng,
chống buôn lậu. Nghiêm trị những kẻ có hành vi
tham nhũng, buôn lậu hoặc tiếp tay cho bọn tham nhũng,
buôn lậu.
9- Nâng cao hiệu
lực bộ máy Nhà nước:
Đẩy mạnh
cải cách bộ máy hành chính, chú trọng việc phân định
rõ thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cơ quan trong
bộ máy Nhà nước, giữa trung ương và địa
phương, giữa ngành và lãnh thổ. Xây dựng bộ máy
quản lý Nhà nước thực sự trong sạch, tinh gọn
và có hiệu lực. Trên cơ sở bảo đảm thắng
lợi cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân các
cấp nhiệm kỳ 1994-1999, củng cố bộ máy của
chính quyền địa phương, nhất là cấp cơ
sở. Gấp rút đào tạo lại và đào tạo mới
đội ngũ cán bộ, viên chức Nhà nước đáp
ứng yêu cầu quản lý theo cơ chế mới. Đưa
ra khỏi bộ máy những viên chức kém năng lực,
kém phẩm chất. Sớm ban hành Pháp lệnh công chức.
Sử dụng
có hiệu quả các công cụ pháp luật, kế hoạch,
tài chính, tiền tệ để nâng cao hiệu lực của
công tác quản lý Nhà nước, khắc phục tình trạng
yếu kém trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội,
thi hành pháp luật.
Xây dựng mối
quan hệ chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể quần chúng và nhân dân, lắng nghe và tiếp
thu ý kiến của nhân dân để kịp thời sửa
đổi cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật
và công tác quản lý, điều hành. Đổi mới và nâng
cao hiệu quả việc giải quyết đơn, thư
khiếu tố của công dân.
Chấn chỉnh
và tăng cường các cơ quan bảo vệ pháp luật
thực sự trong sạch, vững mạnh để làm tốt
công tác đấu tranh bảo vệ pháp luật, phòng chống
tội phạm. Nâng cao chất lượng công tác thanh tra, điều
tra, kiểm sát và xét xử; tổ chức tốt việc
thi hành án.
Xúc tiến
việc thành lập cơ quan tài phán hành chính, góp phần chống
tệ quan liêu cửa quyền, chống sự lộng hành
và vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Nâng cao hiệu
quả hoạt động của Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc
hội. Từng bước bổ sung các đại biểu
chuyên trách cho Quốc hội và các đoàn đại biểu
Quốc hội. Đổi mới và cải tiến công tác
thông tin phục vụ đại biểu Quốc hội.
Tổng kết,
rút kinh nghiệm hoạt động giám sát nhằm sớm
xây dựng và ban hành Quy chế giám sát.
IV- TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
Chính phủ,
các cơ quan Nhà nước hữu quan, các ngành, các cấp có
kế hoạch cụ thể để chỉ đạo
việc triển khai các nội dung của Nghị quyết
này theo chức năng và nhiệm vụ của mình; tăng
cường kiểm tra, định kỳ sơ kết, tổng
kết, rút kinh nghiệm để đánh giá tình hình thực
hiện Nghị quyết. Chính phủ tổng hợp đầy
đủ tình hình thực hiện kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm 1994 và những vấn đề
lớn nảy sinh trong quá trình triển khai kế hoạch
1995 để báo cáo Quốc hội trong kỳ họp tới.
Uỷ ban thường
vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ
ban của Quốc hội tăng cường hoạt động
giám sát việc thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ
quan trọng mà Quốc hội đã đề ra.
Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tăng
cường giám sát các cơ quan Nhà nước, đồng
thời động viên các tầng lớp nhân dân tích cực
tham gia thực hiện thắng lợi Nghị quyết về
nhiệm vụ năm 1995.
Quốc hội
kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước,
người Việt Nam ở nước ngoài phát huy truyền
thống đoàn kết, nêu cao ý thức, tự cường,
nỗ lực vượt bậc hoàn thành thắng lợi
nhiệm vụ năm 1995. Tất cả vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Nghị quyết
này đã được Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá IX, kỳ họp
thứ 6 thông qua ngày 1 tháng 11 năm 1994.