Nghị quyết về việc sửa Lời nói đầu của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Nghị quyết
Cơ quan ban hành: | Quốc hội | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đang cập nhật |
Số hiệu: | Không số | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Lê Quang Đạo |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 22/12/1988 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Lĩnh vực: |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Nghị quyết Không số
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
NGHỊ QUYẾT
VỀ
VIỆC SỬA LỜI NÓI ĐẦU CỦA HIẾN PHÁP
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
QUỐC
HỘI
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
Căn cứ vào
Điều 83 và Điều 147 của Hiến pháp nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Căn cứ vào
Nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp
thứ 3, tháng 6 năm 1988;
Sau khi xem xét đề
nghị của Hội đồng bộ trưởng, Uỷ
ban đối ngoại và Uỷ ban pháp luật của Quốc
hội;
Đề phù hợp
với đường lối đối ngoại của Đảng
và Nhà nước trong giai đoạn cách mạng hiện
nay;
QUYẾT NGHỊ:
Sửa
Lời nói đầu của Hiến pháp nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt
"Trải
qua bốn nghìn năm lịch sử, nhân dân Việt
Từ
năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng
lập và rèn luyện, đi con đường của Cách
mạng tháng Mười Nga, nhân dân ta đã lần lượt
chiến thắng bọn đế quốc xâm lược
và bè lũ tay sai của chúng, hoàn thành cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân, tiến lên làm cách mạng xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nước
ta từ một nước thuộc địa và nửa
phong kiến trở thành một nước độc lập,
thống nhất và xã hội chủ nghĩa, một thành viên
của cộng đồng xã hội chủ nghĩa thế
giới.
Năm
1945, sau khi quân đội Liên Xô đánh thắng chủ nghĩa
phát xít, nhân dân ta đã làm Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 2
tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
Tuyên ngôn độc lập. Nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông
Nam châu Á, ra đời.
Nhưng
bọn thực dân, đế quốc đã xâm lược
nước ta một lần nữa. "Thà hy sinh tất cả
chức không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ", nhân dân ta kháng chiến lâu dài
chống quân xâm lược, thực hiện cải cách ruộng
đất. Chiến thắng vĩ đại Điện
Biên Phủ đã kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến
chống thực dân. Năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ
được ký kết trên cơ sở công nhận độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của nước Việt Nam. Thắng lợi của
Cách mạng tháng Tám và của cuộc kháng chiến chống
thực dân mở đầu thời kỳ sụp đổ
của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới.
Với
âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa
kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng, chia cắt
lâu dài nước ta, đặt miền Nam Việt Nam, Lào,
Cam-pu-chia vào phòng tuyến phản cách mạng, bọn đế
quốc đã tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược
cực kỳ man rợ đối với nước ta. Thấm
nhuần chân lý "không có gì quý hơn độc lập, tự
do", nhân dân ta chiến đấu anh dũng, quyết giải
phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất
đất nước. Chiến thắng dồn dập của
nhân dân Việt Nam, cùng với chiến thắng của nhân
dâm Lào và nhân dân Cam-pu-chia, đã đưa đến việc
ký kết Hiệp định Pa-ri năm 1973 về Việt
Nam.
Mùa
xuân năm 1975, nhân dân Việt Nam giành được thắng
lợi trọn vẹn trong cuộc tổng tiến công và nổi
dậy mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử. Sau ba mươi năm chiến đấu gian khổ,
miền Nam, thành đồng Tổ quốc, được
hoàn toàn giải phóng.
Trong
khi toàn dân ta kháng chiến, cứu nước, cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã đạt
được những thành tựu to lớn: thiết lập
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ
chế độ người bóc lột người, bước
đầu xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, tiến hành cách mạng
tư tưởng và văn hoá, vừa xây dựng vừa
chiến đâu, làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn
của cuộc kháng chiến chống xâm lược đối
với miền Nam anh hùng.
Thắng
lợi của nhân dân ba nước Đông Dương nói
chung và thắng lợi của nhân dân Việt Nam nói riêng
trong cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược
báo hiệu sự phá sản hoàn toàn của chủ nghĩa
thực dân mới, góp phần củng cố và mở rộng
hệ thống thế giới của chủ nghĩa xã hội,
cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân
và dân chủ, đẩy mạnh thế tiến công của
ba dòng thác cách mạng của thời đại.
Sau
khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta tiến hành tổng
tuyển cử tự do trong cả nước thực hiện
thống nhất Tổ quốc. Tháng 7 năm 1976, nước
ta lấy tên là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Sau
ba mươi năm chiến tranh giải phóng, đồng
bào ta thiết tha mong muốn có hoà bình để xây dựng
Tổ quốc, đồng thời luôn luôn phát huy truyền
thống vẻ vang của dân tộc, tiếp tục đấu
tranh kiên cường bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ của mình.
Cách
mạng Việt Nam liên tiếp giành được thắng
lợi to lớn là do Đảng cộng sản Việt
Nam vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin,
vạch ra đường lối đúng đắn để
lãnh đạo cách mạng nước ta; giương cao
hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; củng cố liên minh công - nông do giai cấp công
nhân lãnh đạo; đoàn kết chặt chẽ các tầng
lớp nhân dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất;
xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân
dân; không ngừng củng cố chính quyền cách mạng; kết
hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa
quốc tế vô sản, phối hợp sức mạnh của
nhân dân ta với phong trào cách mạng của nhân dân thế
giới; kết hợp đấu tranh chính trị, đấu
tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao.
Đó
là thắng lợi của lòng yêu nước nông nàn, chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần hy sinh không bờ bến
của đồng bào và chiến sĩ cả nước một
lòng một dạ vì sự nghiệp giải phóng, xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
Đó
là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu
và quan hệ hợp tác giúp nhau giữa nhân dân ba nước
Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia; thắng lợi của tình đoàn
kết chiến đấu, sự viện trợ to lớn
và có hiệu quả của Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa anh em khác đối với cách mạng Việt
Nam; thắng lợi của các lực lượng độc
lập dân tộc, dân chủ và hoà bình trên thế giới đã
tích cực ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của
nhân dân Việt Nam.
Đồng
bào ta trải qua biết bao hy sinh, gian khổ mới có ngày
nay ! Tiền đồ hết sức vẻ vang, nhưng
nhiệm vụ rất nặng nề. Toàn dân ta quyết tăng
cường đoàn kết, thực hiện Di chúc thiêng liêng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, hăng
hái tiến lên theo đường lối mà Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng
cộng sản Việt Nam đã đề ra:
"Nắm
vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập
thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng
thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ
sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách
mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng
khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ
trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập
thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền
văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội
chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc
lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không
ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng
cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật
tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt
Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội
chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội".
Nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần có một
bản Hiến pháp thể chế hoá đường lối
của Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn
mới. Đó là Hiến pháp của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước.
Kế
thừa và phát triển Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp
năm 1959, Hiến pháp này tổng kết và xác định
những thành quả đấu tranh cách mạng của nhân
dân Việt Nam trong nửa thế kỷ qua, thể chế ý
chí và nguyện vọng của nhân dân việt Nam, bảo đảm
bước phát triển rực rỡ của xã hội Việt
Nam trong thời gian tới.
Là
Luật cơ bản của Nhà nước, Hiến pháp này
quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn
hoá và xã hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân, cơ cấu tổ chức và nguyên tắc hoạt động
của các cơ quan Nhà nước. Nó thể hiện mối
quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ
và Nhà nước quản lý trong xã hội Việt Nam.
Toàn
thể nhân dân Việt Nam đoàn kết chặt chẽ dưới
lá cờ bách chiến bách thắng của Đảng cộng
sản Việt Nam, ra sức thi hành Hiến pháp, giành những
thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa".
Nghị quyết
này đã được Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII, kỳ họp
thứ 4, thông qua ngày 22 tháng 12 năm 1988.