Nghị quyết về cải tiến quản lý xây dựng cơ bản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Nghị quyết 166-HĐBT
Cơ quan ban hành: | Hội đồng Bộ trưởng | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 166-HĐBT | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Nghị quyết | Người ký: | Tố Hữu |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 15/12/1984 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Nghị quyết 166-HĐBT
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 166-HĐBT NGÀY 15-12-1984
VỀ CẢI TIẾN QUẢN LÝ XÂY DỰNG CƠ BẢN
Để thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V), Hội đồng Bộ trưởng quyết định một số vấn đề về cải tiến quản lý xây dựng cơ bản như sau:
Phát triển đúng mức lực lượng xây lắp quốc doanh của tỉnh và huyện, chú trọng các địa bàn đang có nhu cầu lớn nhưng thiếu lực lượng.
- Xí nghiệp, công ty khảo sát xây dựng.
- Xí nghiệp, viện thiết kế quy hoạch xây dựng.
- Xí nghiệp, viện thiết kế công trình xây dựng.
- Xí nghiệp, công ty, xí nghiệp liên hợp xây lắp.
- Xí nghiệp, công ty cung ứng và vận tải chuyên dùng cho xây dựng.
Đối với công tác xây lắp có thể tổ chức liên hiệp các xí nghiệp.
Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước phối hợp với các ngành có liên quan cùng các Bộ chủ quản nghiên cứu loại hình tổ chức và cơ chế quản lý các hình thức tự tổ chức thi công đối với các đơn vị vừa sản xuất vừa làm nhiệm vụ xây dựng cơ bản thuộc Thuộc cục Cao su, Bộ Lâm nghiệp, Bộ Công nghiệp thực phẩm, Bộ Nông nghiệp...
- Trong những năm trước mắt, phải kiện toàn tổ chức và bổ sung trang bị kỹ thuật để đồng bộ hoá năng lực của các đơn vị xây lắp chuyên ngành trọng yếu sau đây: công nghiệp và dân dụng, giao thông, thuỷ lợi, mỏ và than, đường dây và trạm biến thế điện, dầu khí, bưu điện truyền thanh, nông nghiệp, lâm nghiệp.
- Phát triển các mối quan hệ kinh tế trực tiếp giữa các cơ sở bằng các hình thức liên kết và hợp tác xây dựng trên từng khu vực thông qua hợp đồng kinh tế. Tiến tới hình thành các tổ hợp khảo sát, thiết kế, xây lắp, cung ứng, vận tải phục vụ xây dựng trên các khu vực có nhu cầu xây dựng lớn.
- Trên địa bàn tỉnh, thành phố có thể thành lập các công ty xây lắp theo các chuyên ngành chủ yếu; không để phân tán nhiều ngành. Đối với các thành phố và khu vực xây dựng tập trung, nên tổ chức các công ty hoặc xí nghiệp liên hợp xây dựng nhà ở xí nghiệp hoặc công ty san nền, công ty hoặc xí nghiệp liên hợp xây dựng công trình kỹ thuật hạ tầng.
- Trên địa bàn huyện, tuỳ theo điều kiện cụ thể, có thể tổ chức xí nghiệp xây lắp hoàn chỉnh hoặc không hoàn chỉnh (chỉ có bộ khung quản lý với một số ít công nhân có tay nghề giỏi làm nòng cốt để sử dụng lực lượng hợp tác xã và lao động hợp đồng tại chỗ)
- Sắp xếp lại các tổ chức xây lắp thuộc Bộ Quốc Phòng để đủ khả năng đảm nhận các công trình quốc phòng và tham gia xây lắp các công trình kinh tế theo phương thức nhận thầu.
- Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương phối hợp với Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước cùng Bộ chủ quản xây lắp tổng kết và xây dựng mô hình tổ chức đơn vị cơ sở chuẩn để vận dụng trong các ngành khác nhau; nghiên cứu làm thử hình thức liên hiệp khoa học - sản xuất trong xây dựng cơ bản.
- Kiện toàn các công ty, xí nghiệp khảo sát của các Bộ Xây dựng, Giao thông vận tải, Thuỷ lợi. Lực lượng khảo sát của ba Bộ này cần được phân công hợp tác và liên kết hoạt động trên từng khu vực để không chồng chéo, trùng lắp; tận dụng khả năng để ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, sử dụng cơ sở thí nghiệm chung đáp ứng nhu cầu khảo sát xây dựng cho các ngành và địa phương trên khu vực đó.
- Củng cố và phát triển đúng mức lực lượng khảo sát của các ngành quốc phòng, nông nghiệp, điện, than, dầu và khí, luyện kim để kết hợp khảo sát xây dựng và khảo sát phục vụ sản xuất.
- Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước ra quy chế về quản lý lực lượng khảo sát nước ngoài làm việc trên lãnh thổ Việt Nam.
- Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước thực hiện thống nhất quản lý công tác khảo sát và tài liệu khảo sát; cùng với các ngành có liên quan sớm lập được các bản đồ địa hình, địa chất công trình thuỷ văn, khí hậu và xây dựng.
- Kiện toàn các viện thiết kế thuộc các Bộ sản xuất và Bộ Quốc phòng để các viện này đủ sức tự thiết kế phần lớn những công trình xây dựng thuộc chuyên ngành.
Tập trung công tác thiết kế và quản lý công tác thiết kế công trình giao thông vận tải vào Bộ Giao thông vận tải, thiết kế công trình thuỷ lợi vào Bộ Thuỷ lợi, thiết kế công trình dân dụng và nhà ở vào Bộ Xây dựng.
- Các Bộ sự nghiệp kinh tế, văn hoá, xã hội được giữ lực lượng thiết kế dân dụng cần thiết cho công tác thiết kế sửa chữa, trung tu, phục chế; làm công tác giao thầu thiết kế, giám định thiết kế với sự thoả thuận của Bộ Xây dựng.
- Các cơ quan Nhà nước, các đoàn thể không có tư cách pháp nhân thiết kế không được nhận thầu thiết kế. Các cơ quan khoa học, kỹ thuật chỉ được làm dịch vụ thiết kế khi có đăng ký đúng ngành chuyên môn và có tổ chức bảo đảm trách nhiệm.
- ở mỗi tỉnh, thành phố tuỳ điều kiện cụ thể có thể tổ chức viện hay xí nghiệp thiết kế theo các chuyên ngành chủ yếu (công nghiệp, dân dụng, giao thông vận tải, thuỷ lợi). Các tổ chức thiết kế này chịu trách nhiệm về thiết kế các loại công trình xây dựng chuyên ngành của địa phương và chịu sự quản lý của Bộ chủ quản chuyên ngành.
Sử dụng tốt và quản lý chặt chẽ lực lượng thiết kế tư ở miền Nam, thu hút dần họ vào các tổ chức thiết kế quốc doanh.
- Đẩy mạnh công tác tiêu chuẩn hoá, ban hành thiết kế điển hình, thiết kế mẫu và ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào lĩnh vực thiết kế. Đối với thiết kế cá biệt, phải được thẩm tra xét duyệt đúng thủ tục. Đối với những công trình đã có thiết kế mẫu và phải dùng thiết kế mẫu, sẽ được ghi vào luận chứng kinh tế - kỹ thuật được duyệt.
Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước nghiên cứu quy chế về công tác thiết kế, chế độ thẩm tra và quản lý thiết kế trình thường vụ Hội đồng Bộ trưởng ban hành trong thời gian ngắn nhất.
- Sắp xếp lại lực lượng và tổ chức quản lý xe, máy, thiết bị thi công ở các Bộ có lực lượng lớn như Bộ Xây dựng, Bộ Thuỷ Lợi, Bộ Giao thông vận tải trên từng khu vực; tổ chức tốt hợp tác và liên kết giữa các lực lượng này trên từng khu vực. Tổ chức mạng lưới bảo dưỡng, sửa chữa, sản xuất phụ tùng để sử dụng cao nhất năng lực trang bị hiện có. Tăng cường bộ phận quản lý xe, máy, thiết bị thi công ở các Bộ và các tỉnh, thành phố có lực lượng xe, máy, thiết bị tương đối lớn.
- Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước chủ trì phối hợp giữa các chuyên ngành sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành các tiêu chuẩn định mức kinh tế - kỹ thuật sử dụng máy, phương thức và giá cho thuê máy, khắc phục tình trạng giữ máy không hoạt động trong khi đơn vị khác cần máy xây dựng.
- Trên cơ sở phân công xây lắp, các Bộ và địa phương lập kế hoạch trang bị xe, máy, thiết bị và công cụ thi công của Bộ và địa phương theo hướng kết hợp cơ giới với thủ công, tận dụng lực lượng lao động tại chỗ, hết sức coi trọng cơ giới nhỏ, công cụ cải tiến và công cụ thông thường.
- Việc phát triển các cơ sở công nghiệp xây dựng phải theo quy hoạch xây dựng và có cơ cấu phù hợp với trình độ kỹ thuật thi công và yêu cầu xây lắp có khối lượng lớn.
Trong kế hoạch 5 năm 1986 - 1990, hoàn chỉnh và phát triển các cụm công nghiệp xây dựng tại các khu vực có điều kiện phát triển và có nhu cầu lớn. Trước mắt chú trọng những khu vực đã có cơ sở công nghiệp xây dựng tương đối phát triển và có nhu cầu lớn về xây dựng nhà ở và dịch vụ sản xuất như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Quảng Nam - Đà Nẵng, Đồng Nai, Vũng Tàu.
- Các Bộ có nhiệm vụ cung ứng thiết bị, vật tư kỹ thuật và vật liệu xây dựng cho xây dựng cơ bản chịu trách nhiệm tạo nguồn hàng bảo đảm thực hiện các chỉ tiêu cung ứng được giao theo kế hoạch pháp lệnh, trước hết là cho các công trình trọng điểm của Nhà nước; đồng thời có lực lượng vật tư, vật liệu xây dựng đáp ứng cho nhu cầu xây dựng của khu vực tập thể và của nhân dân.
- Khuyến khích các tổ chức xây lắp sản xuất và tiết kiệm vật tư, vật liệu xây dựng để tham gia cân đối kế hoạch xây lắp; phần vật tư, vật liệu tự kiếm được thanh toán theo khung giá Nhà nước.
- Thông qua hợp đồng kinh tế, các tổ chức cung ứng chịu trách nhiệm cung cấp cho các hộ tiêu thụ các loại thiết bị, vật tư kỹ thuật và vật liệu xây dựng đúng số lượng, quy cách, chất lượng, thời gian, theo giá cả Nhà nước tại các địa điểm do các Bộ cung ứng quy định cho từng khu vực nhằm giảm bớt chi phí vận tải. Thực hiện cân, đong, đo, đếm trong các khâu giao nhận.
- Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước phối hợp với các Bộ cung ứng nghiên cứu chính sách dự trữ hợp lý về các loại vật tư, vật liệu xây dựng cho các tổ chức xây dựng.
Bộ Vật tư phối hợp với Bộ Xây dựng và các Bộ có liên quan nghiên cứu việc liên kết giữa các tổ chức cung ứng, tổ chức các trung tâm cung ứng theo khu vực. Trong năm 1985, áp dụng thí điểm phương thức cung ứng đồng bộ đến chân công trình cho một số công trình để rút kinh nghiệm mở rộng dần cho các công trình xây dựng khác.
- Bộ trưởng, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương và Giám đốc các tổ chức xây lắp được điều động thiết bị thi công, vật tư kỹ thuật và vật liệu xây dựng giữa các công trình do mình thi công, nhưng không được làm ảnh hưởng đến mục tiêu tiến độ trong năm kế hoạch và phải thông báo cho ngân hàng đầu tư và xây dựng. Việc điều động các thiết bị thi công, vật tư kỹ thuật, vật liệu xây dựng nhập theo thiết bị toàn bộ phải có sự thoả thuận của chủ đầu tư và được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cho phép.
- Các tổ chức cung ứng thường xuyên thông báo cho các cơ sở trong ngành xây dựng tình hình chủng loại, quy cách, số lượng và giá cả vật tư, vật liệu hiện có.
- Thực hiện quyết toán vật tư, vật liệu xây dựng hàng năm và từng công trình.
- Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương chủ trì cùng Bộ Vật tư và Bộ Xây dựng tiếp tục nghiên cứu cải tiến phương thức và tổ chức cung ứng thiết bị, vật tư kỹ thuật, vật liệu xây dựng, bớt khâu trung gian, chồng chéo, trùng lắp để phục vụ tốt cho xây dựng.
- Trong những năm gần đây lực lượng xây dựng trong khu vực kinh tế tập thể đã phát triển nhanh nhưng chưa được quản lý chặt chẽ và sử dụng hợp lý. Các Uỷ ban nhân dân địa phương cần chấn chỉnh tổ chức và tăng cường quản lý các hợp tác xã xây dựng, xoá bỏ hợp tác xã trá hình và "cai đầu dài" đi đôi với cải tạo nhà thầu xây dựng.
Những hợp tác xã xây dựng chuyên nghiệp có đủ điều kiện quy định là tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân, được phép trực tiếp nhận thầu xây dựng các loại công trình đơn giản với chủ đầu tư, nhận thầu lại từng bộ phận công trình hoặc hạng mục công trình do tổ chức xây lắp quốc doanh làm thầu chính.
- Với việc hướng dẫn hoạt động đối với từng loại hợp tác xã xây dựng và cải tạo, sử dụng nhà thầu tư nhân do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố phụ trách theo sự quản lý thống nhất của Bộ chủ quản chuyên ngành trên cơ sở các quy định chung của Nhà nước.
Bên giao thầu là chủ đầu tư công trình xây dựng, bên nhận thầu là các tổ chức xây lắp có tư cách pháp nhân và thực hiện chế độ hạch toán kinh tế. Tuỳ theo đặc điểm kỹ thuật và quy mô công trình, có thể áp dụng hình thức đấu thầu.
Chủ đầu tư và bên nhận thầu có thể lựa chọn thoả thuận áp dụng hình thức giao thầu và nhận thầu thích hợp, khuyến khích áp dụng hình thức tổng thầu xây lắp đối với công trình sản xuất và tổng thầu xây dựng đối với công trình dân dụng, nhà ở. Chủ đầu tư có thể khoán toàn bộ chi phí xây dựng công trình hoặc hạng mục công trình cho tổ chức xây lắp; tổng thầu xây lắp có thể khoán gọn hạng mục công trình cho đơn vị nhận thầu lại.
Các công trình trọng điểm của Nhà nước phải được sắp xếp theo mục tiêu kinh tế xã hội; Uỷ ban kế hoạch Nhà nước trực tiếp cân đối cho các công trình trọng điểm. Các công trình của địa phương đầu tư bằng ngân sách địa phương và vốn huy động của nhân dân phải đăng ký với Uỷ ban kế hoạch Nhà nước và Bộ chủ quản về mục tiêu đầu tư, đồng thời thông báo cho cơ quan tài chính và ngân hàng cùng cấp.
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước sẽ xét thứ tự ưu tiên để cân đối các công trình thuộc ngân sách địa phương.
Trong quá trình thực hiện, đơn vị cơ sở có thể bổ sung thêm kế hoạch và báo cáo lên cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp. Trường hợp vì lý do khách quan, sau khi đã tìm mọi biện pháp khắc phục mà vẫn không có khả năng thực hiện các chỉ tiêu pháp lệnh thì đơn vị cơ sở báo cáo lên cơ quan chủ quản cấp trên trực tiếp để xin điều chỉnh vào đầu quý III của năm kế hoạch. Sau khi đã giao kế hoạch, nếu cơ quan giao kế hoạch muốn thay đổi kế hoạch thì phải bàn với đơn vị cơ sở và phải bảo đảm điều kiện vật chất cần thiết cho việc thực hiện.
Bộ chủ quản đầu tư cũng giao kế hoạch cho chủ đầu tư theo thời gian tương ứng.
- Tổng mức vốn đầu tư thực hiện (có phân theo vốn thiết bị, vốn xây lắp).
- Năng lực sản xuất mới huy động và giá trị tài sản cố định mới tăng (trong đó có năng lực mới huy động của công trình trọng điểm).
- Giá trị sản lượng xây lắp thực hiện được thanh toán, trong đó giá trị sản lượng xây lắp các công trình, hạng mục công trình hoàn thành được bàn giao.
- Danh mục công trình và hạng mục công trình hoàn thành bàn giao theo chỉ tiêu chất lượng quy định trong thiết kế.
- Mức giảm giá thành trên 1000 đồng giá trị sản lượng xây lắp thực hiện được thanh toán.
- Lợi nhuận và các khoản nộp ngân sách.
- Những vật tư chủ yếu do Nhà nước cung ứng.
Ngoài ra, các cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp giao thêm các chỉ tiêu hướng dẫn như ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật; mức tăng năng suất lao động; mức giảm tiêu hao vật tư, chất lượng công trình...
Tổng cục Thống kê hướng dẫn phương pháp tính năng suất lao động trong xây lắp.
Hạch toán kinh tế trong xây dựng cơ bản đang là một khâu rất yếu, còn mang nặng tính hình thức; nhiều công trình không tính được giá thành chính xác và không quyết toán được.
Yêu cầu cấp bách là phải nhanh chóng đưa công tác hạch toán kinh tế ở những đơn vị cơ sở trong xây dựng cơ bản vào nề nếp nhằm:
Các Bộ chủ quản phải làm tốt các định mức kinh tế - kỹ thuật chuyên ngành trên cơ sở hợp lý hoá tổ chức sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và sử dụng tiết kiệm triệt để máy móc, thiết bị, vật tư và sức lao động.
- Trong năm 1985, Bộ Tài chính và các ngành có liên quan cùng các Bộ chủ quản xây lắp khẩn trương tiến hành kiểm kê, đánh giá lại tài sản cố định của các tổ chức xây dựng.
- Trên cơ sở xác định quy mô hợp lý của các tổ chức xây dựng mà xác định lại mức tài sản cố định ban đầu của cơ sở.
- Bộ Tài chính và các ngành có liên quan nghiên cứu sửa lại chế độ trích khấu hao (bao gồm khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn) để đưa vào giá thành dự toán xây lắp.
- Trước mắt cần khẩn trương tiến hành việc chuyển các xe, máy, thiết bị thi công, công xưởng phụ trợ nhập theo thiết bị toàn bộ tài sản cố định của tổ chức xây lắp; hạch toán và thanh toán đối với xe, máy, thiết bị thi công đã điều động cho đơn vị khác.
- Vật tư, vật liệu do Nhà nước cung ứng thì tính theo giá chỉ đạo do các cơ quan quản lý giá có thẩm quyền quyết định. Trường hợp chưa có giá chỉ đạo thì được tạm tính của cơ quan cung ứng vật tư, vật liệu theo Điều lệ quản lý giá.
- Đối với vật tư, vật liệu do các đơn vị xây lắp tự kiếm thông qua các biện pháp liên doanh, lên kết, nếu là những vật tư, vật liệu quan trọng do Nhà nước thống nhất quản lý mua theo giá chỉ đạo của Nhà nước; đối với các loại khác mua bán theo giá thoả thuận thì tính theo giá thực mua trong khung giá do cơ quan có thẩm quyền quyết định.
Uỷ ban Vật giá Nhà nước nghiên cứu việc xác định giá vật liệu đến chân công trình. Bộ Xây dựng và các Bộ chuyên ngành khác nghiên cứu việc thống nhất cung ứng vật liệu xây dựng vào một tổ chức đầu mối (công ty cung ứng vật liệu xây dựng) để tạo điều kiện thực hiện giá vật liệu đến chân công trình.
Nếu tổ chức xây lắp có sáng kiến thay đổi thiết kế, thay thế vật liệu hiếm mà không ảnh hưởng đến yêu cầu kỹ thuật, chất lượng công trình và tiến độ thi công, được cơ quan thiết kế và chủ đầu tư chấp nhận thì được hưởng số tiền tiết kiệm được.
- Thiết kế và dự toán toàn bộ công trình có thời gian xây dựng không quá một năm, hoặc thiết kế và dự toán cho khối lượng xây lắp trong năm kế hoạch đối với công trình xây dựng nhiều năm.
- Danh mục các loại vật tư, thiết bị do chủ đầu tư đảm nhận cung ứng.
- Nhà nước thay đổi giá, thay đổi tiền lương.
- Thay đổi nguồn cung cấp vật tư, vật liệu (có giấy báo của tổ chức cung ứng và được cơ quan có thẩm quyền xác nhận).
- Thay đổi khung giá phần vật tư, vật liệu mua bằng giá thoả thuận.
- Bổ sung thiết kế.
Để bảo đảm quyền tự chủ tài chính của các tổ chức xây lắp, Bộ Tài chính sửa đổi một số chế độ về vốn, cụ thể là:
Các đơn vị cơ sở được Nhà nước cấp 50% vốn lưu động định mức; ngoài ra thì vay ngân hàng.
Các đơn vị cơ sở được trích một phần quỹ phát triển sản xuất để bổ sung vốn lưu động.
Đơn vị cơ sở được lập và mở rộng vốn tự có từ các nguồn:
- Vốn do ngân sách cấp theo chế độ hiện hành.
- Quỹ khuyến khích phát triển sản xuất.
- Phần trích khấu hao cơ bản để lại xí nghiệp (bao gồm cả phần trích khấu hao cơ bản những tài sản cố định đã khấu hao hết nhưng vẫn còn tham gia sản xuất, những tài sản cố định đầu tư bằng vốn tự có của đơn vị hoặc bằng vốn vay ngân hàng).
- Các nguồn thu khác do chế độ Nhà nước quy định.
Vốn tự có năm trước được chuyển sang năm sau không phải nộp vào ngân sách Nhà nước.
- Vốn khấu hao cơ bản để lại.
- Một phần quỹ khuyến khích phát triển sản xuất.
- Một phần quỹ phúc lợi.
Vốn này phải gửi vào Ngân hàng đầu tư và xây dựng; Ngân hàng phải tạo điều kiện thuận lợi để cơ sở rút được vốn dễ dàng.
Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Bộ Tài chính ra quy định cụ thể về cho vay và quyền sử dụng ngoại tệ theo cơ chế chung của Nhà nước.
Bộ Tài chính cùng với Uỷ ban Vật giá Nhà nước, Uỷ ban xây dựng cơ bản Nhà nước và Bộ chủ quản nghiên cứu quy định tỷ lệ cụ thể cho từng ngành và hướng dẫn các ngành, các cấp thực hiện.
- Đối với khối lượng xây lắp theo chỉ tiêu pháp lệnh, lợi nhuận thực hiện của đơn vị cơ sở được phân phối như sau:
Phần khối lượng xây lắp bằng vật tư do Nhà nước cấp để lại cơ sở 50%, nộp ngân sách Nhà nước (Ngân sách trung ương và Ngân sách địa phương) 50%. Phần khối lượng xây lắp bằng vật tư do đơn vị tự tìm kiếm để lại cơ sở từ 60% đến 80%, nộp ngân sách Nhà nước (bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương) từ 20% đến 40%. Bộ Tài chính cùng với Bộ chủ quản quy định mức cụ thể do từng ngành xây lắp.
- Đối với khối lượng xây lắp ngoài chỉ tiêu pháp lệnh thì sau khi làm đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, phần lợi nhuận thu được dùng để lập ba quỹ của đơn vị cơ sở.
Lợi nhuận để lại đơn vị cơ sở sau khi thanh toán các khoản nộp bắt buộc, còn lại (tính 100%) được phân phối cho các quỹ theo tỷ lệ sau đây:
Trích cho quỹ khuyến khích phát triển sản xuất và bổ sung vốn lưu động tuỳ theo ngành từ 35% trở lên và không hạn chế mức cao nhất, trong đó dành từ 1% đến 3% để lập quỹ dự trữ tập trung ở cấp liên hiệp các xí nghiệp (nếu có) và cấp Bộ, Sở.
Số còn lại, sau khi đã dành 1% để lập quỹ Bộ trưởng (và Tổng giám đốc liên hiệp các xí nghiệp, nếu có) là để lập quỹ phúc lợi và quỹ khen thưởng. Giám đốc đơn vị cùng với công đoàn quyết định tỷ lệ trích cho mỗi loại quỹ theo hướng dành khoảng 1/3 cho quỹ phúc lợi và 2/3 cho quỹ khen thưởng.
Toàn bộ quỹ phúc lợi để lại cho xí nghiệp do công đoàn cơ sở cùng với giám đốc lập phương án sử dụng, đưa ra hội nghị công nhân viên chức thảo luận và quyết định. Tổng công đoàn và Bộ Tài chính hướng dẫn việc sử dụng quỹ phúc lợi của xí nghiệp.
Nếu quỹ khen thưởng vượt quá 30% của quỹ lương cơ bản thì đơn vị phải nộp tỷ lệ phần trăm theo luỹ tiến từng phần vào ngân sách Nhà nước theo quy định cụ thể của Bộ Tài chính.
Trong tổ chức xây lắp, người giao khoán là giám đốc đơn vị; bên nhận khoán chủ yếu là đội nhận khoán xây lắp.
Bộ Lao động phối hợp với Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước cùng các Bộ chuyên ngành nghiên cứu sửa đổi, bổ sung định mức lao động trong xây dựng cơ bản cho phù hợp với điều kiện hiện nay; khẩn trương xây dựng định mức lao động tổng hợp làm cơ sở lập kế hoạch và dự toán công trình.
Đơn giá tiền lương trong dự toán xây lắp phải bao gồm tiền lương ổn định và tiền lương biến động được bảo đảm bằng phụ cấp đắt đỏ theo chỉ số giá sinh hoạt trong từng thời gian theo khu vực do cơ quan có thẩm quyền xác định.
Bộ Lao động cùng với Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước hướng dẫn xây dựng và duyệt đơn giá tiền lương cho đơn vị sản phẩm hay mức chi phí tiền lương cho 1000 đồng giá trị sản lượng xây lắp phù hợp với từng loại công trình để làm căn cứ lập quỹ lương.
Quỹ tiền lương kế hoạch của đơn vị xây lắp được xây dựng trên cơ sở đơn giá tiền lương và chỉ tiêu kế hoạch giá trị sản lượng xây lắp thực hiện được giao. Trường hợp hoàn thành vượt mức kế hoạch thì đơn vị được nhận thêm tiền lương tương ứng. Trường hợp thực hiện thấp hơn kế hoạch thì bị giảm quỹ lương tương ứng. Nếu vì lý do chủ quan thì đơn vị phải trích từ quỹ khen thưởng của mình hoặc phải vay của ngân hàng để trả ngân hàng số tiền lương đã được ứng trước vượt mức.
Căn cứ vào quỹ lương kế hoạch, hàng tháng ngân hàng ứng trước tiền lương cho đơn vị cơ sở, hàng quý thanh toán và cuối năm quyết toán quỹ lương cả năm theo giá trị sản lượng thực hiện.
Giám đốc xí nghiệp được quyền áp dụng những hình thức trả lương và thưởng thích hợp để gắn tiền lương, tiền thưởng với kết quả sản xuất và lợi nhuận.
Bộ Lao động cùng với Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước nghiên cứu sửa đổi một số khoản phụ cấp đặc biệt đối với lao động xây dựng như lưu động thường xuyên, làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo và ở hai nước Lào và Cămpuchia.
Thực hiện chính sách đầu tư xây dựng nhà ở cố định cho cán bộ, công nhân xây dựng. Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước phối hợp với Bộ Tài chính cùng các Bộ chủ quản xây lắp nghiên cứu tỷ lệ kinh phí xây dựng nhà ở tạm tại công trường để trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành.
Giám đốc đơn vị xây lắp được quyền tuyển dụng lao động theo yêu cầu của sản xuất xây dựng, cho thôi việc đối với công nhân, viên chức không còn phù hợp với yêu cầu sản xuất.
Công nhân, viên chức được quyền xin thôi việc và được hưởng các quyền lợi theo quy định của Nhà nước.
Khuyến khích cơ sở xây lắp sử dụng lao động theo hợp đồng. Giám đốc đơn vị xây lắp được bố trí nhân viên gián tiếp ít hơn định biên và bố trí lại lao động theo yêu cầu hợp lý hoá tổ chức sản xuất.
Giao Bộ Lao động cùng các ngành liên quan và các địa phương nghiên cứu sửa đổi chế độ đăng ký hộ khẩu, cấp phát tem phiếu cho phù hợp với đặc điểm của lao động trong ngành xây dựng.
Các Bộ chuyên ngành xây lắp cần sắp xếp lại cơ cấu tổ chức quản lý xây dựng cơ bản thuộc Bộ để đủ sức quản lý công tác xây dựng của ngành và phục vụ tốt các đơn vị cơ sở.
Ban Tổ chức của Chính phủ phối hợp với các ngành có liên quan phân định chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các Uỷ ban Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Vật tư, Ngân hàng Nhà nước đối với các Bộ chủ quản đầu tư và chủ quản xây lắp.
Ban Tổ chức của Chính phủ phối hợp với Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước và các ngành có liên quan cùng Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố nghiên cứu cụ thể việc phân cấp và tổ chức quản lý xây dựng cơ bản ở cấp huyện.
Thường xuyên bồi dưỡng cho các cán bộ khoa học, kỹ thuật những kiến thức mới về tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong ngành và những hiểu biết phổ thông về kinh tế xây dựng cơ bản.
Chấn chỉnh công tác đào tạo, bồi dưỡng công nhân theo hướng kết hợp việc đào tạo công nhân tại trường với việc kèm cặp, nâng cao tay nghề tại cơ sở sản xuất, đặc biệt chú ý đến những công nhân bậc cao, có tay nghề giỏi.
Nghị quyết này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1985. Những quy định trước đây trái với văn bản này đều bãi bỏ.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem Văn bản gốc.
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây