Thông tư hướng dẫn và quy định chi tiết thi hành Nghị định 8/CP ngày 18/4/1960 của Hội đồng Chính phủ về việc cấp giấy đăng ký cho thợ và người lao động ngoài biên chế Nhà nước
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Thông tư 12/LĐTT
Cơ quan ban hành: | Bộ Lao động | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 12/LĐTT | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Thông tư | Người ký: | Nguyễn Văn Tạo |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 20/05/1960 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Lĩnh vực: |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Thông tư 12/LĐTT
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
THÔNG TƯ
CỦA BỘ LAO ĐỘNG SỐ 12/LĐTT NGÀY 20 THÁNG 5 NĂM 1960
HƯỚNG DẪN VÀ QUY ĐỊNH CHI TIẾT THI HÀNH NGHỊ ĐỊNH
SỐ 8/CP NGÀY 18/4/1960 CỦA HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
VỀ VIỆC CẤP GIẤY ĐĂNG KÝ CHO THỢ VÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG
NGOÀI BIÊN CHẾ NHÀ NƯỚC
BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
Kính gửi : - Các bộ, các ngành, các đoàn thể trung ương
- Uỷ ban hành chính các khu, tỉnh, thành phố
- Các sở, ty, phòng lao động
Đồng kính gửi: - Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam
Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 8/CP ngày 18/4/1960 về việc cấp giấy đăng ký cho thợ và người lao động ngoài biên chế Nhà nước.
Bộ Lao động ra thông tư này để giải thích những điều quy định trong Nghị định của Hội đồng Chính phủ, hướng dẫn thực hiện và quy định chi tiết thi hành.
Việc cấp giấy đăng ký cho công nhân nhằm góp phần quản lý các nguồn lao động, nắm được khả năng nghề nghiệp để phân phối, cung cấp cho các ngành, sắp xếp việc làm cho anh chị em, nghiên cứu kế hoạch đào tạo công nhân mới, bổ túc nghề nghiệp cho công nhân cũ để không ngừng nâng cao năng suất lao động.
Qua việc cấp giấy đăngký, Uỷ ban hành chính các địa phương quản lý chặt chẽ việc tuyển dụng nhân công, phát hiện và ngăn ngừa những phần tử xấu chui vào các cơ sở sản xuất.
Việc cấp giấy đăng ký đáp ứng đúng nguyện vọng của công nhân mong muốn được vinh dự Nhà nước chứng thực khả năng nghề nghiệp, sự đóng góp của mình trong lao động xây dựng đất nước.
Và cuối điều 1 có nói: "từng thời gian, Bộ Lao động sẽ căn cứ vào nhu cầu kế hoạch phát triển kinh tế của Nhà nước, mà ấn định loại thợ và lao động cần đăng ký". Như vậy, việc cấp giấy đăng ký không làm tràn lan để tránh làm giảm tác dụng của giấy đăng ký. Trong đợt này, Bộ ấn định việc cấp giấy đăng ký cho những người sau đây:
Người làm tạm thời quy định trong thông tư này là căn cứ vào tính chất công việc do cơ quan sử dụng xác nhận, hoặc công việc có tính chất tạm thời khi hết việc thì thôi không sử dụng công nhân nữa, hoặc do sự thoả thuận giữa công nhận với đơn vị, chỉ sử dụng công nhân một thời gian nhất định (dù công việc của đơn vị có tính chất lâu dài).
Ngoài các đối tượng quy định trên đây, nếu địa phương cần đăng ký công nhận các nghề khác hoặc lao động không nghề thì phải hỏi ý kiến của Bộ.
Trong đợt này chưa đăng ký những người thợ đang làm trong các hợp tác xã thủ công, tổ hợp tác, tập đoàn sản xuất thủ công và những người lao động ở các thành phố.
Những người sau đây không thuộc diện cấp đăng ký:
Các phần khác thì đã rõ, đây chỉ giải thích phần nói về khen thưởng và kỷ luật ghi trong giấy đăng ký.
Sau khi ghi khen thưởng và kỷ luật vào giấy đăng ký, đơn vị sử dụng phải báo cho cơ quan Lao động địa phương nhất là về các trường hợp thi hành kỷ luật của từng công nhân đã được ghi trong giấy đăng ký.
1. Điều kiện được cấp giấy đăng ký
a. Về điều kiện sức khoẻ: phải xét thích hợp với từng loại nghề để sau này có thể bố trí phù hợp với từng công việc nặng, nhẹ, nhằm đảm bảo được sản xuất và công việc làm ăn của người được cấp giấy đăng ký.
b. Về điều kiện nghề nghiệp theo quy định trong Nghị định, sẽ không cấp giấy đăng ký cho người mới học việc, làm phụ việc và ngăn ngừa có người khai man nghề gây khó khăn cho việc bố trí sắp xếp công việc. Khi cấp giấy đăng ký cần dựa vào các cơ sở sản xuất (hoặc xây dựng) có sự thẩm tra bước đầu đối với những người khai xin đăng ký.
c. Đối với người lao động không nghề, khi cần thiết thì chỉ cấp giấy đăng ký cho người lao động chuyên nghiệp ở thành phố như quy định trong Nghị định, nhằm ngăn ngừa những người nông dân tự động bỏ sản xuất lên thành phố xin đăng ký.
Để đề phòng có thể thất lạc, tránh cho công nhân phải khai đi khai lại nhiều lần, những người đi làm xa (ngoài tỉnh, hoặc thành phố nơi ở chính thức) cần làm 2 phiếu khai xin đăng ký.
Tiền giấy và công in giấy đăng ký sẽ do Uỷ ban hành chính khu, tỉnh, thành phố quy định tuỳ theo mỗi địa phương tốn phí nhiều hay ít. Các chi phí khác về việc cấp giấy đăng ký do quỹ địa phương đài thọ.
Thông tư này giải thích thêm như sau:
1. Tổ chức tại đơn vị mọi việc cần thiết để thực hiện việc cấp giấy đăng ký cho công nhân đang làm việc, nếu Uỷ ban hành chính khu, tỉnh hoặc thành phố xét thấy cần cấp giấy đăng ký tại đơn vị mình.
2. Chứng nhận rõ ràng, đầy đủ, đúng đắn thời gian làm việc, nghề nghiệp, lương bổng của người đang làm việc ở đơn vị mình, giải thích và hướng dẫn cho công nhân khai xin đăng ký đúng sự thật.
3. Giữ giấy trong thời gian công nhân đang làm việc ở đơn vị mình, ghi đầy đủ những điều cần thiết và chứng nhận vào giấy dăng ký, giao trả lại giấy đăng ký cho công nhân khi thôi việc, báo cáo đều đặn hàng tháng tình hình công nhân mới lấy vào và công nhân cho thôi việc của đơn vị cho Uỷ ban hành chính và cơ quan Lao động địa phương.
4. Khi đã tiến hành xong việc cấp giấy đăng ký ở địa phương, nếu cần tuyển nhân công thì trước tiên phải lấy người đã có giấy đăng ký do cơ quan Lao động giới thiệu. Trường hợp cần thiết phải lấy người không có giấy đăng ký thì phải báo cáo với Uỷ ban hành chính và cơ quan Lao động địa phương đồng ý cấp giấy đăng ký để sử dụng thì mới được tuyển.
Ban đăng ký khu, tỉnh hoặc thành phố vạch chương trình kế hoạch cấp giấy đăng ký trong địa phương chỉ đạo cấp kiểm tra đôn đốc sơ kết, tổng kết công tác giấy đăng ký.
Thành phần của Ban đăng ký khu, tỉnh hoặc thành phố gồm có:
- Đại diện Uỷ ban hành chính làm trưởng ban.
- Thủ trưởng cơ quan Lao động (hoặc phó) làm phó ban hoặc uỷ viên thường trực.
- Đại diện có thẩm quyền của cơ quan Công an làm uỷ viên.
- Đại diện có thẩm quyền của cơ quan sử dụng nhân công làm uỷ viên (tuỳ theo tình hình sử dụng nhân công và sự cần thiết mỗi nơi).
Uỷ ban hành chính khu, tỉnh, thành phố cần chú ý mời đại diện Liên hiệp công đoàn và đại diện Ban công tác nông thôn tham gia vào Ban đăng ký để sự phối hợp được chặt chẽ.
Ban đăng ký có một số cán bộ và nhân viên giúp việc thuộc quyền điều khiển trực tiếp của ban. Số cán bộ và nhân viên giúp việc, tuỳ theo yêu cầu từng nơi, do Ban đăng ký đề nghị Uỷ ban hành chính khu, tỉnh hoặc thành phố quyết định.
Ban đăng ký khu, tỉnh hoặc thành phố sẽ hết nhiệm vụ khi việc cấp giấy đăng ký đã hoàn thành trong địa phương. Việc đăng ký lẻ tẻ, thường xuyên sau này sẽ do cơ quan Lao động địa phương đảm nhiệm.
Thành phần tổ đăng ký huyện, quận hoặc châu (nơi nào có tổ đăng ký) gồm có đại diện Uỷ ban hành chính và đại diện cơ quan Công an; số nhân viên giúp việc sẽ do tỉnh quy định hoặc do huyện, quận, châu lựa chọn.
Thành phần tổ đăng ký ở xã, khu phố hoặc thị xã (nếu nơi nào có) gồm đại diện Uỷ ban hành chính và trưởng Công an xã, khu phố hoặc thị xã. Nơi nào có công đoàn (như ở khu phố, thị xã) thì cần có đại biểu công đoàn tham gia vào tổ đăng ký. Tổ đăng ký xã khu phố hoặc thị xã có nhiệm vụ xét và chứng thực rõ ràng, đầy đủ và nhanh chóng các phiếu khai xin đăng ký của những người ở xã, khu phố hoặc thị xã (kể cả người đi làm xa đã khai gửi về).
Uỷ ban hành chính Khu tự trị Thái Mèo và các tỉnh miền núi dựa vào nội dung quy định về tổ chức trên đây để nghiên cứu định tổ chức thực hiện việc cấp giấy đăng ký cho thích hợp với địa phương.
1. Về tổ chức - Nơi nào có xây dựng tổ thợ thì tiến hành hội nghị kiểm điểm rút kinh nghiệm về hoạt động của tổ, bầu lại tổ trưởng, tổ phó (nếu xét cần thiết) Nơi nào chưa có thì ghép những người đã đăng ký thành tổ dựa theo nghề nghiệp, theo chỗ ở hoặc nơi làm việc, chú ý đến tập quán làm ăn của công nhân mỗi vùng. Hướng dẫn giúp các tổ xây dựng nội quy nhằm gắn chặt người thợ với tổ, giáo dục tinh thần tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau và tinh thần trách nhiệm lúc đi làm.
Uỷ ban hành chính khu, tỉnh , thành phố và cơ quan Lao động chú ý hướng dẫn các hợp tác xã giải quyết thoả đáng quyền lợi của xã viên đi làm tạm thời ở các công trường xí nghiệp. Trong lúc giải quyết vấn đề này phải đưa ra thảo luận dân chủ trong hợp tác xã làm cho 2 bên, giữa xã viên và hợp tác xã đều có lợi, phát huy được tính tích cực của xã viên đi làm, đồng thời cũng làm cho người đi làm công trường thấy trách nhiệm của mình phải đóng góp một phần vào việc xây dựng quỹ tích luỹ và quỹ phúc lợi trong hợp tác xã.
Đối với thợ ở thành phố, hướng dẫn giúp đỡ anh chị em xây dựng những cơ sở sản xuất nhỏ, tạm thời có việc làm khi hết việc trên công trường, lập quỹ tương trợ để giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn.
Việc xây dựng và củng cố các tổ thợ, nếu ở xã, khu phố hoặc thị xã thì do chính quyền xã, khu phố hoặc thị xã đảm nhiệm; nếu ở công trường, xí nghiệp thì do công trường, xí nghiệp phụ trách. Cơ quan lao động địa phương theo dõi, giúp đỡ hướng dẫn và chỉ đạo một số nơi điển hình để rút kinh nghiệm.
2.Chế độ báo cáo - Các cấp chính quyền và các đơn vị sử dụng nhân công có trách nhiệm quản lý và báo cáo tình hình nhân công trong phạm vi trách nhiệm của mình.
Người thợ và người lao động có trách nhiệm phải báo với chính quyền xã, khu phố hoặc thị xã nơi ở của mình, khi đi làm, khi hết việc về hoặc khi đổi chỗ ở.
Uỷ ban hành chính các khu, tỉnh , thành phố chỉ thị cho các ban ngành sử dụng nhân công báo cáo đều đặn hàng tháng về Uỷ ban, đồng thời quy định nề nếp để các huyện ,quận, châu, xã, khu phố và thị xã báo cáo về Uỷ ban. Cơ quan Lao động giúp Uỷ ban tập hợp, báo cáo hàng tháng (về số liệu) và 3 tháng (cả tình hình và số liệu) về Bộ tình hình nhân công trong địa phương, số người đã đăng ký có phân loại nghề nghiệp, số người đang làm, số chưa có việc và số người các nơi đến làm ở địa phương mình.
3. đẻ theo dõi tình hình, ngoài giấy đăng ký đã cấp cho người công nhân , việc lưu trữ và di chuyển các giấy tờ khác về đăng ký quy định như sau :
a) Phiếu khai xin đăng ký của người thợ được lưu trữ tại cơ quan Lao động , nơi cấp phát giấy đăng ký
b) Thẻ đăng ký là bản ghi tóm tắt những điều trong giấy đăng ký cả người thợ để theo dõi tình hình công việc làm và đổi chỗ ở . Thẻ làm thành 2 bản , 1bản lưu ở cô quan Lao động , nơi cấp phát giấy đăng ký và 1 bản ở xã ,khu phố hoặc thị xã nơi ở của người thợ . Trường hợp người thợ được cấp giấy đăng ký tại nơi ở thì dù người ấy có được giới thiệu đi làm ở ngơài tỉng hay thành phố , thẻ đăng ký vẫn không chuyền theo . Các nơi chỉ dựa vào giấy đăng ký của người công nhân mà nắm tình hình.
Trường hợp người thợ đi làm xa (ngoài khu, tỉnh, thành phố nơi ở chính thức của mình) đã được cấp giấy đăng kí tại nơi làm việc thì thẻ đăng kí được lưu một bản tại cơ quan lao động, nơi cấp giấy đăng kí và một bản ở đơn vị sử dụng. Khi người thợ hết việc, trở về địa phương hoặc được giới thiệu đến làm việc ở một tỉnh hay một thành phố khác thì đơn vị sử dụng giao thẻ đăng ký để người thợ đem về nộp cho xã ,khu phố hoậc thị xã nơi người ấy ở hoặc đem đến đơn vị mới . Cơ quan Lao động nơi cấp giấy đăng ký chỉ giữ bản báo cáo danh sách cho cơ quan Lao động nơi người công nháan về hoặc nơi đến làm việc .
Công tác cấp giấy đăng ký , quản lí thợ và lao động là một công tác mới , có nhiều khó khăn nhưng rất cần thiết đối với tình hình hiện nay .
Uỷ ban hành chính các khu, tỉnh ,thành phố , các sở , ty, phòng Lao động nghiên cứu chu đáo , đặt kế hoạch thi hành thích hợp với địa phương , thống nhất theo những nguyên tắc đã quy định trong Nghị định của Hội đồng chính phủ và trong thông tư này .Trong lúc tiến hành Uỷ ban cần báo cáo ,phản ánh kịp thời về Bộ những khó khăn mắc mứu nếu có để Bộ theo dõi góp ý kiến . Đề nghị các Bộ Các ngành có liên quan trong việc cấp giấy đăng kí và có sử dụng nhân công chú ý nghiên cứu thực hiện ,đồng thời chỉ thị và đôn đốc các cấp trong ngành mình thực hiện chủ trương của Chính phủ về cấp giấy đăng ký ,quản lý nhân công được tốt.


Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem Văn bản gốc.
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây