Quyết định 01/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược ứng dụng năng lượng nguyên tử vì mục đích hòa bình đến năm 2020
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Quyết định 01/2006/QĐ-TTg
Cơ quan ban hành: | Thủ tướng Chính phủ | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 01/2006/QĐ-TTg | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Quyết định | Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 03/01/2006 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Khoa học-Công nghệ |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Quyết định 01/2006/QĐ-TTg
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
QUYẾT
ĐỊNH
CỦA THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 01/2006/QĐ-TTG
NGÀY 03 THÁNG 01 NĂM 2006 VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT
"CHIẾN LƯỢC ỨNG DỤNG NĂNG
LƯỢNG NGUYÊN TỬ
VÌ MỤC ĐÍCH HÒA BÌNH ĐỀN NẮM 2020"
THỦ
TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ
Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ
Luật Khoa học và Công nghệ ngày 09 tháng 6 năm 2000;
Căn cứ
Luật Điện lực ngày 03 tháng 12 năm 2004;
Theo đề
nghị của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công
nghệ,
QUYẾT
ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt
"Chiến lược ứng dụng năng lượng
nguyên tử vì mục đích hoà bình đến năm 2020"
ban hành kèm theo Quyết định này.
Điều
2. Tổ chức thực hiện
chiến lược
Bộ Khoa học và Công nghệ thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về năng lượng
nguyên tử, an toàn bức xạ và hạt nhân, chịu trách
nhiệm quản lý và hướng dẫn thực hiện
"Chiến lược ứng dụng năng
lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình đến
năm 2020"; chủ trì, phối hợp với các cơ
quan có liên quan triển khai thực hiện các vấn
đề có tính liên ngành trong nội dung Chiến
lược, định kỳ hàng năm báo cáo Thủ
tướng Chính phủ.
Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương có trách nhiệm chủ trì, phối
hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ,
ngành, địa phương có liên quan thực hiện các
nhiệm vụ cụ thể được giao trong
Chiến lược,
định kỳ hàng năm báo cáo Thủ tướng Chính
phủ và gửi báo cáo cho Bộ Khoa học và Công nghệ
để tổng hợp.
Điều 3. Quyết
định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể
từ ngày đăng Công báo.
Điều 4. Các Bộ
trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,
Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ
tịch ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành
Quyết định này.
Thủ
tướng
Phan Văn
Khải đã ký
CHIẾN LƯỢC ỨNG DỤNG
NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ
VÌ MỤC ĐÍCH HÒA BÌNH ĐẾN NĂM 2020
(Ban hành kèm theo
Quyết định số 01/2006/QĐ-TTg
ngày 03 tháng 01 năm 2006 của
Thủ tướng Chính phủ)
Năng lượng nguyên tử (NLNT)
được tạo ra do các biến đổi trạng
thái của nguyên tử và hạt nhân có hai dạng là năng
lượng bức xạ và năng lượng phân
hạch, các dạng năng lượng này đã
được ứng dụng trong đời sống kinh
tế - xã hội.
Ở Việt Nam, năng lượng
bức xạ đã được ứng dụng trong y
tế, nông nghiệp, công nghiệp, địa chất,
khoáng sản, khí tượng, thuỷ văn, giao thông, xây
dựng, dầu khí,... Tuy nhiên, phạm vi và hiệu quả
ứng dụng còn hạn chế, chưa tương
xứng với tiềm năng và nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội. Nguyên nhân chính là do trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của nước ta còn
thấp và nhận thức của xã hội về vai trò
của năng lượng bức xạ còn chưa
đầy đủ.
Hiện nay, ở nước ta
năng lượng phân hạch chưa được
ứng dụng để phát điện. Việc nghiên
cứu phát triển điện hạt nhân (ĐHN) đã
được các cơ quan có liên quan thực hiện trong
nhiều năm, kết quả nghiên cứu đã khẳng
định sự cần thiết và tính khả thi của
việc xây dựng nhà máy ĐHN ở Việt Nam.
Lịch sử phát triển kinh tế
thế giới hiện đại cho thấy, để
thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá (CNH - HĐH), nhiều quốc gia đã
sớm xác định việc ứng dụng NLNT là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm. Chính vì vậy,
họ sớm xây dựng và thực hiện chiến
lược nghiên cứu, ứng dụng và phát triển
NLNT. Nhờ đó, NLNT đã phát huy và có đóng góp hiệu
quả cho phát triển kinh tế - xã hội, thúc
đẩy các ngành công nghiệp phát triển, nâng cao
tiềm lực khoa học và công nghệ (KH&CN) của
quốc gia, góp phần tích cực vào việc giữ gìn,
bảo vệ môi trường và phát triển bền
vững.
Việt Nam đang tiến hành công
cuộc CNH - HĐH, việc phát triển các ngành công
nghiệp công nghệ cao, đặc biệt là công
nghiệp công nghệ hạt nhân, là cơ hội, điều
kiện để thúc đẩy phát triển công nghiệp
công nghệ truyền thống, góp phần tạo ra sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của
đất nước, thúc đẩy tăng trưởng
GDP và hội nhập quốc tế. Việc phát triển
ĐHN sẽ góp phần đáp ứng về cơ bản
nhu cầu sử dụng điện năng ngày càng
tăng, bảo đảm an ninh năng lượng và
dự trữ nguồn tài nguyên của đất
nước.
Nhận thức được
tầm quan trọng của việc ứng dụng NLNT
phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, Đảng và Chính
phủ đã sớm quan tâm, chỉ đạo lĩnh
vực này. Nghị quyết Trung ương lần 2 khoá
VIII đã yêu cầu: "Chuẩn bị tiền đề
khoa học cho việc sử dụng năng lượng
nguyên tử sau năm 2000". Văn kiện Đại
hội Đảng khoá IX đã đề ra nhiệm
vụ: "Nghiên cứu phương án sử dụng
năng lượng nguyên tử". Để cụ
thể hoá chủ trương này, Chính phủ ban hành Chiến
lược ứng dụng năng lượng nguyên tử
vì mục đích hoà bình đến năm 2020.
Nội dung
của Chiến lược gồm 3 chương:
Chương
I: Tình hình và triển vọng ứng dụng NLNT.
Chương
II: Quan điểm, mục tiêu và nhiệm vụ ứng dụng NLNT ở Việt Nam.
Chương III : Giải pháp thực hiện
Chiến lược.
Chương
I
TÌNH HÌNH VÀ TRIỂN VỌNG ỨNG DỤNG NĂNG LƯỢNG
NGUYÊN TỬ
I. TÌNH HÌNH ỨNG DỤNG NĂNG LƯỢNG
NGUYÊN TỬ TRÊN THẾ GIỚI
1. Ứng dụng năng lượng bức
xạ
Từ lâu, năng lượng bức
xạ đã được ứng dụng rộng rãi,
đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Lợi
nhuận thu được từ ứng dụng năng
lượng bức xạ so với vốn đầu
tư cho nó trung bình gấp 7 lần, có những lĩnh vực
gấp tới 40 lần. Cho nên tất cả các nước
đều đầu tư cho ứng dụng năng
lượng bức xạ phục vụ phát triển kinh tế
- xã hội, tuy nhiên phạm vi và hiệu quả ứng dụng
giữa các nước rất khác nhau, tuỳ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế - xã hội và đội
ngũ cán bộ khoa học công nghệ hạt nhân của từng
nước.
Trong năm 1997, về góc độ
kinh tế, việc ứng dụng năng lượng bức
xạ trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội ở Hoa
Kỳ đã đóng góp 1,5% GDP, ở Nhật Bản 1,7% GDP
và ở Trung Quốc 1% GDP.
Ở các nước phát triển,
trên 30% bệnh nhân được chẩn đoán và điều
trị bằng kỹ thuật
bức xạ. Đây là kỹ thuật hiện đại
nhất hiện nay trong chẩn đoán và điều trị
nhiều bệnh nan y như ung thư, tim mạch,...
Điện hạt nhân đã chiếm
một tỷ lệ đáng kể trong cơ cấu điện
năng ở nhiều quốc gia. Theo Cơ quan Năng
lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), tính đến
tháng 02 năm 2005, đã có 441 tổ máy ĐHN tại 32 quốc
gia và vùng lãnh thổ với tổng dân số gần 4 tỷ
người, tổng công suất ĐHN đạt 367.197 MW
và cung cấp 16,1% sản lượng điện năng
toàn cầu. Tỷ lệ này duy trì liên tục trong suốt
20 năm qua, có nghĩa là sản lượng ĐHN đã
tăng trưởng với cùng tốc độ tăng
trưởng của tổng sản lượng điện
năng toàn cầu. Tính chung cho giai đoạn 33 năm từ
1970 đến 2003 thì tốc độ tăng trưởng
của ĐHN là 9,4%/năm. Đây là tốc độ
tăng trưởng khá cao của một ngành công nghiệp
trong một thời gian dài. Hiện có 25 tổ máy ĐHN
đang được xây dựng (trong đó 60% thuộc
các nước đang phát triển), khi hoàn thành sẽ nâng tổng
công suất ĐHN thế giới lên 387.399 MW.
Các dự báo dài hạn đều
khẳng định sự phát triển mạnh mẽ của
ĐHN trên phạm vi toàn cầu trong thế kỷ 21. Theo kết
quả nghiên cứu năm 2003 của Viện công nghệ
Massachusetts (Hoa Kỳ), đến năm 2050 công suất
ĐHN sẽ tăng lên 1.000.000 MW và cung cấp 19% tổng
nhu cầu điện năng của thế giới.
Mặc dù ĐHN hiện nay tập
trung chủ yếu ở các nước công nghiệp tiên tiến
(các nước OECD và Nga), tuy nhiên, khi bắt đầu xây
dựng và phát triển ĐHN, đa số các nước
này cũng ở trong điều kiện kinh tế phát triển
chưa cao, có nước thu nhập GDP bình quân trên đầu
người còn thấp hơn Việt Nam hiện nay. ở
các nước này, chương trình phát triển ĐHN chính
là động lực quan trọng cho quá trình CNH - HĐH. Lúc
bắt đầu chương trình ĐHN, GDP bình quân đầu
người của Nhật Bản là 292 USD/năm (1956), của
Hàn Quốc là 60 USD/năm (1969) và của Trung Quốc thấp
hơn 70 USD/năm (1970). Hiện nay một số nước
đang phát triển như ấn Độ và Trung Quốc
đang triển khai mạnh mẽ chương trình phát triển
ĐHN. Theo kế hoạch đến năm 2020 Trung Quốc
sẽ có 40 tổ máy ĐHN hoạt động. ấn
Độ có kế hoạch tăng 10 lần công suất
điện hạt nhân vào năm 2022 và 100 lần vào giữa
thế kỷ so với mức hiện nay. Trong khu vực
Đông Nam á, Indonesia đã quyết định bắt đầu
xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên vào năm 2010 gồm
4 tổ máy với tổng công suất 4.000 MW và đưa
vào vận hành vào năm 2016.
Về công nghệ lò phản ứng,
hiện nay trên thế giới có ba loại chủ yếu,
đó là công nghệ lò nước áp lực (PWR) chiếm
59,5%, công nghệ lò nước sôi (BWR) chiếm 20,8% và công
nghệ lò nước nặng (PHWR) chiếm 7,7%. Các lò
đang vận hành trên thế giới chủ yếu thuộc
loại thế hệ thứ II. Một số nước
đã xây dựng hoặc đang có kế hoạch thay thế
các lò hết hạn sử dụng bằng loại lò thế
hệ thứ III (độ an toàn được nâng cao,
thiết kế gọn hơn, công nghệ xử lý tín hiệu
số được đưa vào hệ điều khiển)
và đang tập trung nghiên cứu để cho ra đời
loại lò thế hệ thứ IV với nhiều ưu việt
(an toàn hơn, lượng chất thải phóng xạ ít
hơn, kinh tế hơn, giảm thiểu nguy cơ phổ
biến vũ khí hạt nhân).
Nhiên liệu cho các nhà máy ĐHN hiện
nay là urani, được cung cấp khá ổn định
trên thị trường thế giới. Công tác chuẩn bị
cho sản xuất nhiên liệu hạt nhân kể từ
bước thăm dò tài nguyên cho đến khi sản xuất
được nhiên liệu phải kéo dài 15 đến 20
năm. Chi phí cho nhiên liệu, vận hành và bảo dưỡng
nhà máy ĐHN chỉ chiếm 20 - 25% trong cơ cấu giá
điện. Cho nên nếu giá nhiên liệu tăng gấp
đôi thì giá thành sản xuất ĐHN chỉ tăng thêm 2
- 4%, trong khi giá nhiệt điện khí sẽ tăng đến
60 - 70%.
Về mặt an toàn hạt nhân,
hai sự cố nhà máy ĐHN tại Hoa Kỳ và Liên Xô
(cũ) đã gây lo ngại cho công chúng đối với
phát triển ĐHN. Sau hai sự cố này, các nước
đã có những cải tiến đáng kể về công
nghệ và quản lý, bảo đảm an toàn gần
như tuyệt đối cho các nhà máy ĐHN.
Ngoài mục tiêu phát điện,
các lò phản ứng hạt nhân còn được sử dụng
để cung cấp nhiệt cho các quá trình công nghiệp
như sản xuất nước ngọt từ nước
biển, sản xuất hyđro từ nước...
II. TÌNH HÌNH ỨNG DỤNG NĂNG
LƯỢNG NGUYÊN TỬ Ở VIỆT NAM
Ở Việt Nam, ngay từ những
năm 20 của thế kỷ trước, việc ứng
dụng năng lượng bức xạ đã được
triển khai trong lĩnh vực y tế, trong những
năm gần đây, kỹ thuật bức xạ, hạt
nhân đã được triển khai nhanh và rộng trong
nhiều ngành và lĩnh vực khác nhau. Cụ thể, ngành y
tế có khoảng 2.000 máy X - quang, 14 máy xạ trị
Cobalt-60, 4 máy gia tốc, 524 nguồn xạ trị áp sát (phần
lớn là nguồn Radium); ngành công nghiệp có khoảng 300
nguồn được dùng trong kiểm tra mẫu không phá
huỷ và thăm dò đầu khí, riêng số lượng
thiết bị bức xạ dùng trong chiếu xạ thực
phẩm tăng lên một cách đáng kể, hiện đã
có 5 thiết bị hoàn thành việc lắp đặt và
đi vào hoạt động. Tính đến hết năm
2004, cả nước có 1.465 cơ sở bức xạ
đang hoạt động, trong đó ngành y tế chiếm
88.8% (1301 cơ sở), ngành công nghiệp chiếm 5,9% và các
ngành, lĩnh vực khác như nghiên cứu đào tạo...
chiếm 3,8%. Có 1.173 nguồn phóng xạ, trong đó số
nguồn được sử dụng trong y tế chiếm
46,9 %, công nghiệp chiếm 36,2% và trong các ngành ứng dụng
khác chiếm 17%; có 1983 máy phát tia X, trong đó máy X- quang y tế
chẩn đoán bệnh chiếm 96,97% (1823 máy). Theo thống
kê của Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt,
trong số 157 máy X - quang được kiểm tra chất
lượng trong thời gian vừa qua thì có 40% máy chưa
đạt yêu cầu về chất lượng, 50% ở
mức trung bình, 10 % đạt chất lượng tốt,
nhiều máy được sản xuất từ những
năm 60 - 70 của thế kỷ trước. Ngày nay, các
cơ sở y tế từ cấp huyện đều sử
dụng máy X - quang trong chẩn đoán, tuy nhiên phần lớn
là thiết bị cũ. Trong lĩnh vực y học hạt
nhân, mặc dù toàn quốc đã có trên 20 cơ sở,
nhưng về thiết bị chẩn đoán chỉ có 10
máy gamma camera hoạt động được. Sản xuất
dược chất phóng xạ trong nước mới chỉ
đáp ứng được khoảng 1/2 nhu cầu đối
với các loại đồng vị tạo ra trên lò phản
ứng, còn lại phải nhập khẩu.
Kỹ thuật đột biến
phóng xạ tạo giống cây trồng đã được
triển khai ở Việt Nam từ những năm 1970, tuy
nhiên cho đến nay cả nước mới chỉ có
được một số loại giống lúa, đậu
tương được tạo ra bằng kỹ thuật
đột biến phóng xạ.
Kỹ thuật kiểm tra không phá
huỷ được ứng dụng phổ biến và
đã trở thành yêu cầu bắt buộc trong việc kiểm
tra chất lượng một số loại công trình của
ngành giao thông và xây dựng. Gần đây ứng dụng kỹ
thuật đánh dấu đồng vị phóng xạ trong
lĩnh vực dầu khí để nghiên cứu bài toán tối
ưu trong khai thác nhằm tăng cường hiệu suất
thu hồi dầu đã được thực hiện. Kỹ
thuật thủy văn đồng vị rất có ưu
thế trong nghiên cứu nước ngầm, nhưng chúng
ta cũng chỉ mới triển khai ứng dụng bước
đầu ở thành phố Hồ Chí Minh và một số
tỉnh xung quanh. Các loại sản phẩm và vật liệu
phục vụ cho sản xuất và đời sống
được tạo ra bằng công nghệ bức xạ
gần như chưa có gì, trong khi đây là một ưu thế
lớn của nhiều nước.
Nhìn chung, việc ứng dụng
năng lượng bức xạ ở Việt Nam còn hạn
chế, chưa tương xứng với tiềm năng
và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, công nghệ
còn ở trình độ thấp, chủ yếu vẫn phụ
thuộc vào việc nhập khẩu trang thiết bị kỹ
thuật và nguồn phóng xạ. Việc đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật và
đào tạo đội ngũ cán bộ chưa được
chú ý đúng mức. Việc ứng dụng năng lượng
bức xạ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội
chưa có định hướng rõ ràng. Phần lớn
người dân chưa được hưởng lợi
từ việc ứng dụng năng lượng bức xạ
trong chẩn đoán và điều trị bệnh.
2. Nghiên cứu phát triển
điện hạt nhân
a) Các kết quả
đạt được
Các vấn đề quan trọng
liên quan đến phát triển ĐHN như sự cần
thiết, công nghệ, nhiên liệu, an toàn, địa điểm,
nhân lực, quản lý chất thải phóng xạ, kinh tế,
đầu tư,... đã được tổ chức
nghiên cứu một cách hệ thống trong nhiều
năm. Thông qua hoạt động
nghiên cứu triển khai về NLNT trong gần 30 năm, Việt
Nam đã có được những cán bộ có khả
năng đảm nhận một số nhiệm vụ
trong chương trình phát triển ĐHN. Công tác điều
tra, thăm dò, khảo sát đã khẳng định Việt
Nam là một quốc gia có tài nguyên urani với trữ lượng
dự báo 218.000 tấn U3O8. Để chuẩn bị cho
phát triển ĐHN, Việt Nam đã thiết lập
được mối quan hệ hợp tác quốc tế
rộng rãi với các nước và các tổ chức quốc
tế, đặc biệt là với Cơ quan năng lượng
nguyên tử quốc tế (IAEA). Để tạo sự ủng
hộ của công chúng cho chủ trương phát triển
ĐHN, công tác thông tin tuyên truyền về ĐHN đã
được tổ chức thường xuyên và
tương đối có hiệu quả.
b) Sự cần thiết của
điện hạt nhân ở Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay, nguồn
điện năng chính là nhiệt điện than, nhiệt
điện khí và thuỷ điện. Năng lượng mới
và tái tạo như gió, mặt trời, thủy triều,
địa nhiệt do giá thành sản xuất điện
cao, tính phân tán và không ổn định, chỉ có thể tạo
ra những nguồn năng lượng nhỏ, chưa thể
chiếm tỷ trọng đáng kể trong cân bằng
năng lượng. Các nguồn tài nguyên năng lượng
của nước ta đa dạng nhưng không phải dồi
dào. Do đó việc khai thác và sử dụng có hiệu quả,
bảo vệ nguồn tài nguyên năng lượng, gìn giữ
cho các thế hệ mai sau là một trong những
phương hướng quan trọng của chính sách
năng lượng quốc gia trong thời gian tới.
Theo dự báo, nhu cầu điện
sản xuất theo phương án cơ sở
(phương án giả thiết tốc độ tăng
trưởng GDP là 7,1 - 7,2%/năm cho giai đọan 2001 -
2020) là 201 tỷ kWh vào năm 2020 và 327 tỷ kWh vào năm
2030. Trong khi đó, khả năng huy động tối
đa các nguồn năng lượng nội địa của
nước ta tương ứng là 165 tỷ kWh vào năm
2020 và 208 tỷ kWh vào năm 2030. Như vậy, đến
năm 2020, theo phương án cơ sở, nước ta sẽ
thiếu tới 36 tỷ kWh và đến năm 2030 thiếu
gần 119 tỷ kWh. Xu hướng gia tăng sự thiếu
hụt nguồn điện trong nước sẽ ngày càng
gay gắt hơn và tiếp tục kéo dài trong những giai
đoạn sau.
Để giải quyết cán cân
cung cầu này, trong Chiến lược phát triển ngành
điện Việt Nam giai đoạn 2004 - 2010, định
hướng đến năm 2020, một trong các
phương án cung ứng điện năng mà Bộ Công
nghiệp đã đề xuất là xây dựng nhà máy
ĐHN. Với những ưu điểm về công nghệ
cao, vận hành an toàn, ổn định, chi phí và khối
lượng dự trữ nhiên liệu nhỏ, ít phát thải
ô nhiễm môi trường và giá thành cạnh tranh với các
loại nhiệt điện khác, ĐHN là một lựa chọn
khả thi đã được xem xét trong cân đối nhu
cầu điện của nước ta vào năm 2020. Theo
phương án đó, nhà máy ĐHN đầu tiên sẽ
được xây dựng với quy mô công suất từ
2.000 MW - 4.000 MW chiếm 5% - 9% tổng công suất phát điện
của quốc gia.
c) Thuận lợi và khó khăn đối với phát triển điện
hạt nhân
Thuận lợi cơ bản là sự
nhất quán về chủ trương nghiên cứu và phát
triển ĐHN của Đảng và Nhà nước,
được thể hiện trong các văn kiện, nghị
quyết của Đảng, trong Chiến lược phát
triển KH&CN đến năm 2010, Chiến lược
phát triển ngành điện đến năm 2010 và trong
các quyết định của Chính phủ.
Thuận lợi tiếp theo là sự
phát triển kinh tế - xã hội đặt ra nhu cầu cấp
bách và khách quan khả năng lựa chọn ĐHN làm một
nguồn năng lượng quan trọng trong cơ cấu
nguồn quốc gia như đã đặt ra với nhiều
quốc gia khác trong giai đoạn CNH - HĐH. Ngoài ra, công
nghệ ĐHN trên thế giới đã phát triển rất
cao, nhiều công ty, tập đoàn lớn trên thế giới
hoạt động trong lĩnh vực này đã tích lũy
được nhiều kinh nghiệm, đã và đang trở
thành các đối tác, bạn hàng lớn của các nước
có nhu cầu phát triển ĐHN. Với quan điểm hội
nhập quốc tế rộng rãi, chúng ta có thể tranh thủ
tối đa sự hợp tác và giúp đỡ của các
đối tác trong nghiên cứu lựa chọn công nghệ,
đào tạo nhân lực, đặc biệt là trong lĩnh
vực bảo đảm an toàn hạt nhân và xử lý chất
thải phóng xạ. Việc quyết định phát triển
ĐHN ở nước ta hiện nay phù hợp với xu
thế phát triển ĐHN trên thế giới nói chung, đặc
biệt là ở khu vực châu á. Chúng ta đã đào tạo
được những cán bộ ban đầu có khả
năng đảm nhận một số nhiệm vụ
trong chương trình phát triển ĐHNốhng trong
chương trình phát triển NLNT, chuyên môn, kỹ thu. Việc
thực hiện thành công các dự án công nghiệp và điện
lực lớn ở Việt Nam trong những năm qua
đã nâng cao năng lực của các ngành công nghiệp
trong nước, góp phần thực hiện hiệu quả
các dự án ĐHN trong tương lai.
Khó khăn chung trên thế giới
đối với phát triển ĐHN bao gồm: vốn
đầu tư ban đầu lớn; tâm lý lo ngại của
công chúng về an toàn nhà máy ĐHN; xử lý chất thải
phóng xạ hoạt độ cao; nguy cơ phổ biến
vũ khí hạt nhân và việc đảm bảo an ninh cho
các cơ sở hạt nhân.
Nguồn nhân lực có trình độ
và kinh nghiệm, nhất là chuyên gia quản lý và kỹ thuật
nhà máy ĐHN là một trong những thách thức hàng đầu
đối với chương trình phát triển ĐHN của
các nước đang phát triển nói chung, đặc biệt
là những nước chuẩn bị xây dựng nhà máy
ĐHN đầu tiên như Việt Nam.
Ngoài ra, cơ sở hạ tầng
kỹ thuật, hệ thống pháp luật phục vụ
phát triển ĐHN còn ở mức sơ khai; năng lực
tài chính còn yếu; chưa có các cơ chế, chính sách dài hạn
và ưu đãi đầu tư cần thiết cho ứng
dụng và phát triển NLNT, đặc biệt là ĐHN;
chưa có chính sách năng lượng quốc gia làm cơ sở
cho phát triển ĐHN; nhận thức của xã hội về
vai trò của NLNT chưa đầy đủ; các vấn
đề xã hội như ý thức chấp hành kỷ
cương, kỷ luật hành chính, văn hoá an toàn, văn
minh công nghiệp còn thấp.
Tuy vậy so với xuất phát
điểm của Hàn Quốc khi phát triển điện hạt
nhân có thu nhập bình quân đầu người trên 60
đô la thì hiện nay thu nhập bình quân trên đầu
người của chúng ta là khoảng 400 đô la.
3. Thực trạng về hạ
tầng kỹ thuật, cơ sở pháp lý và nhân lực
a) Hạ tầng kỹ thuật
Nhà nước đã đầu
tư một số thiết bị chủ yếu như lò
phản ứng hạt nhân Đà Lạt, máy gia tốc nhỏ,
các thiết bị chiếu xạ, một số phòng thí
nghiệm chuyên đề về hạt nhân, 2 phòng thí nghiệm
an toàn bức xạ, 1 phòng chuẩn liều bức xạ
quốc gia, 3 trạm quan trắc phóng xạ thuộc mạng
lưới quan trắc môi trường quốc gia và 1
cơ sở xử lý chất thải phóng xạ của lò
phản ứng.
b) Cơ sở pháp lý
Pháp lệnh An toàn và Kiểm soát bức
xạ (1996) là công cụ pháp lý cao nhất điều chỉnh
về an toàn bức xạ. Hiện nay, Luật Năng
lượng nguyên tử đang được soạn thảo
và dự kiến trình Quốc hội trong năm 2007.
Việt Nam đã tham gia một số
điều ước quốc tế liên quan đến
NLNT như Hiệp ước cấm phổ biến vũ
khí hạt nhân (1982), Hiệp định thanh sát hạt nhân
(1989), Hiệp ước khu vực Đông Nam á phi vũ khí
hạt nhân (1996) và Hiệp ước cấm thử hạt
nhân toàn diện (1996).
Việt Nam hiện là thành viên của
một số tổ chức quốc tế và khu vực về
NLNT như Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc
tế (IAEA), Tổ chức hợp tác vùng châu á - Thái Bình
Dương (RCA) và Diễn đàn hợp tác hạt nhân châu
á (FNCA).
Việt Nam đã ký 5 hiệp định
hợp tác sử dụng NLNT vì mục đích hoà bình với
Nga, Trung Quốc, ấn Độ, Hàn Quốc và ác-hen-ti-na,
đã thiết lập quan hệ hợp tác với các tổ
chức hạt nhân của một số nước như
Nhật Bản, Pháp, Canada.
c) Nguồn nhân lực
Cho đến nay, đội
ngũ cán bộ chuyên ngành hạt nhân đã bước
đầu được hình thành và có những đóng góp
nhất định trong việc sử dụng năng
lượng bức xạ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Thông qua việc
xây dựng, vận hành an toàn
và khai thác hiệu quả lò phản ứng hạt nhân
Đà Lạt cũng như các hoạt động nghiên cứu
và chuẩn bị cho chương trình phát triển ĐHN
trong những năm vừa qua, chúng ta đã có được
một số cán bộ ban đầu về các chuyên ngành
liên quan đến ĐHN.
Nhìn chung, cơ sở hạ tầng
kỹ thuật còn thấp kém, các trang thiết bị phục
vụ nghiên cứu, ứng dụng và giảng dạy còn rất
thiếu thốn và lạc hậu. Hệ thống các quy
định pháp luật về ứng dụng NLNT và an toàn bức
xạ hạt nhân chưa đầy đủ và thiếu
đồng bộ. Đội ngũ cán bộ chuyên ngành hạt
nhân bước đầu được hình thành nhưng
tuổi trung bình cao và chưa đáp ứng yêu cầu về
số lượng, trình độ và cơ cấu ngành nghề.
Mặt khác, do chưa có chiến lược và chính sách ứng
dụng và phát triển NLNT nên không thu hút được các
sinh viên giỏi và các chuyên gia giỏi vào ngành hạt nhân, thậm
chí có nhiều chuyên gia giỏi đã và đang xin chuyển
ra khỏi ngành, một số cơ sở đào tạo đã
không duy trì được việc đào tạo chuyên ngành hạt
nhân.
4. Tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước và cơ chế chính sách
Để bảo đảm tính
độc lập của quản lý nhà nước về ứng
dụng NLNT với quản lý nhà nước an toàn bức xạ
hạt nhân, Bộ Khoa học và Công nghệ đã thành lập
Cục Kiểm soát và An toàn bức xạ, hạt nhân là
cơ quan giúp Bộ thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về an toàn bức xạ, hạt nhân. Một
trong những nhiệm vụ trọng tâm của việc thực
hiện chiến lược là hoàn thiện cơ chế,
chính sách và cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh
vực này để đáp ứng nhu cầu ứng dụng
và phát triển NLNT trong các ngành kinh tế - xã hội.
III. TRIỂN
VỌNG ỨNG DỤNG NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ
Ở VIỆT NAM
1. Thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và
chăm sóc sức khoẻ con người
Ứng dụng năng lượng bức xạ
là một lĩnh vực có nhiều ưu việt, đóng
góp tích cực cho tăng trưởng GDP thông qua việc
nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành
sản phẩm trong các ngành kinh tế. ứng dụng
năng lượng bức xạ sẽ được triển
khai rộng rãi trong chẩn đoán và điều trị bệnh
góp phần phục vụ tốt hơn công tác chăm sóc sức
khoẻ nhân dân.
2. Đáp ứng nhu cầu điện năng và góp
phần đảm bảo an ninh năng lượng
Với các ưu thế về cạnh tranh
kinh tế, khả năng cung cấp điện với số
lượng lớn và ổn định, chi phí nhiên liệu
và chi phí vận hành bảo dưỡng thấp, lượng
nhiên liệu cần ít, có thể làm chủ được
công nghệ, việc phát triển ĐHN sẽ đáp ứng
nhu cầu điện năng, đa dạng hoá nguồn
cung cấp điện và góp phần đảm bảo an
ninh năng lượng cho đất nước. Trong giai
đoạn đầu phát triển ĐHN, do lượng
nhiên liệu tiêu thụ hàng năm không lớn, nên chúng ta có
thể nhập và dự trữ trong nhiều năm, trong
khi các dạng năng lượng khác thì không thể dự
trữ dài hạn được. Trong tương lai xa
hơn, Việt Nam cần và có thể từng bước
tiến tới làm chủ việc sản xuất nhiên liệu
và sử dụng nguồn tài nguyên urani trong nước. Các
ngành công nghiệp trong nước sẽ được
phát triển, hiện đại hoá và từng bước
tiến tới làm chủ công nghệ ĐHN như kinh nghiệm
của nhiều nước.
3. Góp phần nâng cao tiềm lực khoa học và công
nghệ và tiềm lực công nghiệp quốc gia
Phát triển ĐHN và ứng dụng
năng lượng bức xạ sẽ thúc đẩy phát
triển nghiên cứu cơ bản về NLNT và một số
lĩnh vực khoa học có liên quan khác như khoa học sự
sống, tế bào học, sinh học, vật liệu học.
Phát triển ĐHN sẽ tạo điều
kiện phát triển các lĩnh vực công nghệ như quản
lý dự án, thiết bị điều khiển tự
động, kiểm tra không phá huỷ, thiết kế chịu
động đất, công nghệ vật liệu, công nghệ
thông tin hiện đại, phân tích an toàn, quản lý chất
lượng và đảm bảo chất lượng.
Phát triển ĐHN sẽ thúc đẩy
các lĩnh vực công nghiệp khác như cơ khí, chế
tạo máy, tự động hoá, hoá chất, xây dựng,
điện, điện tử, công nghệ thông tin, viễn
thông phát triển và hiện đại hoá.
Việc phát triển công nghiệp công nghệ
hạt nhân sẽ góp phần nâng cao tiềm lực khoa học
và công nghệ và tiềm lực công nghiệp của quốc
gia phục vụ cho sự nghiệp CNH - HĐH đất
nước như kinh nghiệm của một số nước
trong phát triển ĐHN.
Chiến lược phát triển năng
lượng bền vững ở mỗi quốc gia luôn gắn
chặt với chiến lược bảo vệ môi
trường. Cùng với các dạng năng lượng mới
và tái tạo khác, ĐHN được xem là một nguồn
năng lượng sạch, không phát thải khí CO2 và các khí
gây hiệu ứng nhà kính, đóng vai trò quan trọng góp phần
bảo vệ môi trường. Các kỹ thuật bức xạ
được sử dụng để khử trùng dụng
cụ y tế, phòng trừ sâu bệnh, lưu hoá cao su, xử
lý chất thải, chế tạo các chế phẩm sinh học,
chế tạo vật liệu mới,... sẽ góp phần
giải quyết vấn đề môi trường trong phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Các chất thải phóng xạ của ĐHN nhỏ về
thể tích và khối lượng và hoàn toàn có thể kiểm
soát được bằng các công nghệ và thiết bị
hiện đại.
CHƯƠNG II
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ ỨNG DỤNG
NĂNG LƯỢNG NGUYÊN TỬ Ở VIỆT NAM
1. Ứng dụng và phát triển năng lượng nguyên
tử vì mục đích hoà bình và phát triển kinh tế - xã
hội.
Đây là chính sách nhất quán của Việt
Nam về việc sử dụng năng lượng nguyên tử
vì mục đích hoà bình và phát triển kinh tế - xã hội.
Về ứng dụng năng lượng
bức xạ: đẩy mạnh, mở rộng và nâng cao
hiệu quả ứng dụng năng lượng bức
xạ phục vụ sự nghiệp CNH - HĐH. Đây là
lĩnh vực có phạm vi ứng dụng rất rộng
và có ảnh hưởng lớn đến việc phát triển
KH&CN cũng như kinh tế - xã hội. Do đó cần
phải thúc đẩy công tác nghiên cứu, ứng dụng
và chuyển giao công nghệ trên cơ sở huy động
mọi nguồn lực của xã hội.
Về phát triển ĐHN: nhập các công
nghệ hiện đại đã được
thương mại hoá trên thế giới đối với
việc xây dựng những nhà máy ĐHN đầu tiên
để đảm bảo yêu cầu về an toàn và kinh tế,
đồng thời tập trung nghiên cứu lợi thế
của các công nghệ điện hạt nhân thế hệ
mới để chuẩn bị cho giai đoạn phát triển
tiếp theo. Cần huy động mọi nguồn lực
trong nước và thông qua hợp tác quốc tế để
phát triển ĐHN. Nhà máy ĐHN đầu tiên sẽ
được xây dựng theo phương thức hợp
đồng chìa khoá trao tay.
2. Ứng dụng và phát triển năng
lượng nguyên tử phải bảo đảm an toàn
tuyệt đối cho con người và môi trường và trên cơ
sở đẩy mạnh hợp tác quốc tế nhằm
tranh thủ tri thức, công nghệ và đầu tư.
Để bảo đảm an toàn trong mọi
hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và phát triển
NLNT phải xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ
thuật và hoàn thiện luật pháp về an toàn bức xạ,
hạt nhân, đào tạo và xây dựng đội ngũ
cán bộ, xây dựng và phát triển văn hoá an toàn. Thực
hiện các biện pháp cần thiết để bảo vệ
an ninh, an toàn cho các lò phản ứng, nhà máy ĐHN và các
cơ sở nghiên cứu, ứng dụng NLNT.
Năng lượng nguyên tử, đặc
biệt ĐHN không chỉ là một lĩnh vực công nghệ
cao mà còn là lĩnh vực rất nhạy cảm về chính
trị quốc tế. Do đó, hợp tác quốc tế phải
tạo được sự tin cậy của cộng
đồng quốc tế về chính sách phát triển NLNT của
Việt Nam và là một trong những điều kiện bảo
đảm sự thành công trong chuyển giao tri thức, công
nghệ và đầu tư. Trong hợp tác quốc tế về
ĐHN, hướng vào các đối tác có nhiều kinh nghiệm,
có công nghệ tiên tiến nhất.
3. Quyết
tâm của lãnh đạo các cấp, các ngành cùng với
việc huy động được sức mạnh
của toàn xã hội là điều kiện quyết
định sự thành công của chiến lược
ứng dụng NLNT.
Ứng dụng NLNT, đặc biệt là phát triển
ĐHN, là lĩnh vực công nghệ cao, liên ngành, dài hạn,
cần đầu tư lớn và có tác động sâu rộng
đến phát triển kinh tế - xã hội, KH&CN và công
nghiệp của đất nước. Do đó, việc
xây dựng và thực hiện Chiến lược đòi hỏi
phải có ý chí, quyết tâm cao của lãnh đạo các cấp,
các ngành từ trung ương đến địa
phương, sự chỉ đạo tập trung, đầu
tư của Nhà nước và huy động được
sức mạnh của toàn xã hội.
II. MỤC TIÊU
1. Mục tiêu:
Từng bước xây dựng và phát triển
ngành công nghiệp công nghệ hạt nhân có đóng góp hiệu
quả trực tiếp cho phát triển kinh tế - xã hội
và tăng cường tiềm lực khoa học và công nghệ
của đất nước.
b) Mục tiêu cụ thể
- Ứng dụng rộng rãi, hiệu quả
năng lượng bức xạ trong các ngành kinh tế - kỹ
thuật có đóng góp tích cực cho tăng trưởng
kinh tế, phục vụ nhu cầu xã hội như chăm sóc sức khoẻ cộng
đồng, bảo vệ môi trường và phát triển bền
vững. Từng bước chế tạo các trang thiết
bị sử dụng năng lượng bức xạ, tiến
tới làm chủ một số công nghệ năng lượng
bức xạ hiện đại.
- Xây dựng và đưa nhà máy điện
hạt nhân đầu tiên vào vận hành an toàn, khai thác hiệu
quả. Đồng thời, xây dựng hạ tầng
cơ sở vững chắc cho chương trình dài hạn
về phát triển điện hạt nhân, từng bước
nâng tỷ lệ điện hạt nhân đạt mức
cân bằng trong tổng sản lượng điện
năng quốc gia (khoảng 11% vào năm 2025 và 25 - 30% vào
năm 2040 - 2050).
- Bảo đảm an toàn, an ninh cho cơ sở
hạt nhân và sự ủng hộ của công chúng cho phát triển
điện hạt nhân. Thực hiện các biện pháp quản
lý và các giải pháp kỹ thuật để đảm bảo
an toàn trong xây dựng và vận hành nhà máy điện hạt
nhân và lò phản ứng nghiên cứu. Thực hiện các biện
pháp đảm bảo an ninh cho các cơ sở hạt nhân.
Kiện toàn cơ quan quản lý nhà nước về kiểm
soát an toàn hạt nhân và an toàn bức xạ.
- Xây dựng và thực hiện kế hoạch
quốc gia ứng phó khẩn cấp khi có sự cố, tai
nạn bức xạ và hạt nhân. Xây dựng mạng
lưới quan trắc phóng xạ môi trường quốc
gia. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về
ứng dụng năng lượng nguyên tử phục vụ
kinh tế - xã hội.
- Xây dựng hạ tầng kỹ thuật
cho công tác nghiên cứu ứng dụng năng lượng hạt
nhân, tập hợp, liên kết các nhà khoa học, các ngành
công nghiệp hoạt động theo định hướng
cụ thể nhằm phát triển tiềm lực khoa học
và công nghệ hạt nhân quốc gia đạt trình độ
các nước tiên tiến trong khu vực cả về
cơ sở vật chất kỹ thuật và đội
ngũ cán bộ. Xây dựng Viện Năng lượng
nguyên tử Việt Nam thành trung tâm nghiên cứu - triển
khai công nghệ kỹ thuật cao ứng dụng năng
lượng nguyên tử ngang tầm các nước tiên tiến
trong khu vực
2. Một số chỉ tiêu chủ yếu
a) Đến
năm 2010
- Về
điện hạt nhân: hoàn thành việc phê duyệt báo cáo
đầu tư dự án xây dựng nhà máy điện
hạt nhân đầu tiên; đào tạo đủ chuyên gia
về điện hạt nhân cho công đoạn tiền
dự án; quy hoạch đội ngũ kỹ thuật viên
và công nhân lành nghề để chuẩn bị cho việc
thực hiện dự án sau năm 2010.
- Về ứng
dụng năng lượng bức xạ: bảo
đảm tự sản xuất để cung cấp 50%
nhu cầu về đồng vị và dược chất
phóng xạ; 50% các tỉnh có các cơ sở y học
hạt nhân và xạ trị; quy hoạch và xây dựng
năng lực sản xuất, lắp ráp, chế tạo
thiết bị ghi đo hạt nhân, thiết bị X -
quang, thiết bị laser và máy gia tốc; đầu tư
xây dựng một số trung tâm ứng dụng bức
xạ phục vụ y tế, nông nghiệp và các ngành công
nghiệp.
- Về xây
dựng và phát triển tiềm lực: hoàn thành việc phê
duyệt báo cáo đầu tư xây dựng lò phản
ứng hạt nhân mới phục vụ cho nghiên cứu;
quy hoạch và từng bước hoàn thiện hệ
thống cơ sở nghiên cứu triển khai về khoa
học và công nghệ hạt nhân; xây dựng cơ sở
kỹ thuật phục vụ công tác quản lý nhà
nước về an toàn bức xạ và an toàn hạt nhân;
xây dựng mới từ 02 đến 03 trung tâm gia tốc
sản xuất đồng vị và dược chất
phóng xạ; quy hoạch xây dựng Trung tâm quốc gia
về y học hạt nhân và xạ trị trên cơ sở
Trung tâm máy gia tốc hạt nhân Cyclotron sử dụng trong
y tế và các ngành kỹ thuật đặt tại Quân y
viện 108. Từng bước nâng cấp tiềm lực ứng
dụng khoa học và công nghệ hạt nhân của
Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.
- Về quy
phạm pháp luât: hoàn thành cơ bản hệ thống pháp
luật về ứng dụng năng lượng nguyên
tử và an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân; xây dựng
các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật và an toàn cho
nhà máy điện hạt nhân; ban hành đầy đủ
các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật và an toàn
về sử dụng bức xạ; từng bước
kiện toàn về tổ chức, cơ sở vật
chất kỹ thuật và năng lực chuyên môn của các
cơ quan quản lý nhà nước về năng
lượng nguyên tử và về an toàn bức xạ,
hạt nhân.
b) Đến
năm 2015
- Về
điện hạt nhân: triển khai xây dựng nhà máy
điện hạt nhân đầu tiên; đào tạo
đủ chuyên gia về điện hạt nhân và huy
động đủ đội ngũ kỹ thuật viên
và công nhân lành nghề cho thực hiện dự án xây dựng nhà máy điện hạt
nhân đầu tiên; huy động tối đa mọi
nguồn lực và khả năng tham gia của công
nghiệp trong nước thực hiện dự án xây
dựng nhà máy điện hạt nhân.
- Về ứng
dụng năng lượng bức xạ: bảo
đảm tự sản
xuất để cung cấp 70% nhu cầu về
đồng vị và dược chất phóng xạ; 80% các
tỉnh có các cơ sở y học hạt nhân và xạ
trị; có năng lực lắp ráp, chế tạo một
số chủng loại thiết bị ghi đo hạt
nhân, thiết bị X - quang, thiết bị laser và máy gia
tốc; có một số công nghệ và sản phẩm
ứng dụng năng lượng bức xạ mang
lại hiệu quả tích cực trong các ngành kinh tế -
xã hội.
- Về xây
dựng và phát triển tiềm lực: hoàn thành xây dựng
và đưa vào hoạt động lò phản ứng
hạt nhân nghiên cứu mới phục vụ công tác nghiên
cứu triển khai về khoa học và công nghệ hạt
nhân; nâng cao năng lực cho các cơ sở hỗ trợ
kỹ thuật phục vụ công tác quản lý nhà
nước về an toàn bức xạ và an toàn hạt nhân;
tiếp tục xây dựng thêm một số trung tâm gia
tốc sản xuất đồng vị và dược
chất phóng xạ; củng cố và từng bước
hoàn thiện việc xây dựng Trung tâm quốc gia về y
học hạt nhân và xạ trị trên cơ sở trung tâm
máy gia tôc hạt nhân Cyclotron đặt tại Quân y viện
108; tiếp tục việc củng cố và nâng cấp tiềm lực của Viện
Năng lượng nguyên tử Việt Nam để có
đủ khả năng làm công tác nghiên cứu - triển
khai công nghệ kỹ thuật cao ứng dụng năng
lượng nguyên tử phục vụ nhu cầu phát
triển các ngành kinh tế - kỹ thuật và nhu cầu xã
hội.
- Về xây
dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật,
kiện toàn hệ thống thực thi pháp luật: hoàn
thiện hệ thống pháp luật về năng
lượng nguyên tử và an toàn bức xạ, hạt nhân;
ban hành đầy đủ các tiêu chuẩn kỹ thuật
và an toàn cho nhà máy điện hạt nhân; kiện toàn về
cơ sở vật chất, năng lực chuyên môn và
đội ngũ cán bộ của cơ quan quản lý nhà
nước về năng lượng nguyên tử và về
an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân.
c) Đến
năm 2020
- Về
điện hạt nhân: đưa nhà máy điện hạt
nhân đầu tiên vào vận hành an toàn và khai thác hiệu
quả; đào tạo đủ chuyên gia về điện
hạt nhân và huy động đủ đội ngũ
kỹ thuật viên và công nhân lành nghề cho việc thực
hiện dự án xây dựng các nhà
máy điện hạt nhân tiếp theo; xây dựng năng
lực về thiết kế, chế tạo thiết
bị và sản xuất vật liệu nhằm tăng cường
khả năng tham gia của các ngành công nghiệp trong
nước vào việc thực hiện dự án xây dựng
các nhà máy điện hạt nhân tiếp theo.
- Về ứng
dụng năng lượng bức xạ: bảo
đảm tự sản xuất để cung cấp 100%
nhu cầu về đồng vị và dược chất
phóng xạ; 100% các tỉnh có các cơ sở y học
hạt nhân và xạ trị; có một số chủng
loại thiết bị ghi đo hạt nhân, thiết
bị X - quang, thiết bị laser và máy gia tốc mang
thương hiệu Việt Nam; có một số công
nghệ và sản phẩm của kỹ thuật bức
xạ được ứng dụng rộng rãi và hiệu
quả trong các ngành kinh tế - xã hội.
- Về xây
dựng và phát triển tiềm lực: hoàn thành cơ
bản việc xây dựng hạ tầng cơ sở
kỹ thuật nghiên cứu triển khai hiện
đại tầm cỡ khu vực về khoa học và công
nghệ hạt nhân; có cơ sở hỗ trợ kỹ
thuật đồng bộ, hiện đại phục
vụ công tác quản lý nhà nước về năng
lượng nguyên tử và về an toàn bức xạ, an
toàn hạt nhân; tiếp tục xây dựng thêm một số
trung tâm gia tốc sản xuất đồng vị và
dược chất phóng xạ; hoàn thành cơ bản
việc xây dựng Trung tâm quốc gia về y học
hạt nhân và xạ trị; hoàn thiện việc nâng
cấp tiềm lực nghiên cứu triển khai ứng
dụng năng lượng nguyên tử phục vụ phát triển kinh tế
- xã hội của Viện Năng lượng nguyên tử
Việt Nam.
- Về quy
phạm pháp luật: hoàn thiện đồng bộ hệ
thống pháp luật và hệ thống cơ quan quản lý
nhà nước về năng lượng nguyên tử và về
an toàn bức xạ, an toàn hạt nhân.
III. NHIỆM VỤ
1. Ứng dụng năng lượng bức
xạ
a) Trong y tế
Xây dựng và thực hiện kế
hoạch phát triển các kỹ thuật chẩn đoán và
điều trị bệnh sử dụng năng lượng
bức xạ nhằm đáp ứng nhu cầu của
nước ta với dân số khoảng 100 triệu dân vào
năm 2020. Đầu tư phát triển kỹ thuật chụp
hình bức xạ đến bệnh viện tỉnh, mỗi
bệnh viện tỉnh có ít nhất 01 máy chụp hình cắt
lớp đơn quang tử (SPECT), cả nước có một
số máy chụp hình cắt lớp sử dụng đồng
vị phát positron (PET). Tăng cường đầu tư
thiết bị điều trị bệnh ung thư bằng
kỹ thuật chiếu xạ dùng nguồn phóng xạ và bằng
máy gia tốc, đạt tỷ lệ ít nhất 01 thiết
bị chiếu xạ trên 1 triệu dân. Lập và triển
khai kế hoạch xây dựng tại mỗi tỉnh có ít
nhất một cơ sở y học hạt nhân và xạ trị.
Xây dựng năng lực quốc gia về bảo dưỡng,
sửa chữa và chế tạo một số chủng loại
thiết bị sử dụng năng lượng bức xạ
trong y tế có nhu cầu cao (thiết bị đo đếm
bức xạ, đo liều phóng xạ, X - quang chẩn
đoán, cộng hưởng từ, máy xạ trị dùng
nguồn phóng xạ và dùng chùm hạt gia tốc). Lập kế
hoạch từng bước bảo đảm sản xuất
các loại đồng vị và dược chất phóng xạ
trong nước đủ phục vụ cho chẩn
đoán và điều trị. Đẩy mạnh sử dụng
công nghệ khử trùng các dụng cụ y tế, mô ghép,
huyết thanh bằng chiếu xạ, thay thế cho các công
nghệ có hại cho sức khỏe và môi trường.
Đánh giá sức khoẻ và dinh dưỡng cộng đồng
và sàng lọc một số dị tật bẩm sinh bằng
kỹ thuật đồng vị phóng xạ.
Xây dựng một trung tâm quốc
gia về y học hạt nhân, xạ trị và điều
trị các bệnh về phóng xạ.
b) Trong công nghiệp và các ngành kinh tế - kỹ thuật khác
Sử dụng và phát triển công
nghệ bức xạ trực tiếp phục vụ nhu cầu
sản xuất trong công nghiệp và các ngành kinh tế - kỹ
thuật quan trọng như dầu khí, hoá chất, giao
thông, xây dựng, thăm dò và khai thác khoáng sản, năng
lượng, xử lý chất thải trên cơ sở các kỹ
thuật truyền thống như: kỹ thuật kiểm
tra không phá huỷ, xử lý bức xạ, đánh dấu
đồng vị phóng xạ và nguồn kín, hệ điều
khiển hạt nhân tự động và các kỹ thuật
phân tích hạt nhân. Xây dựng một số trung tâm công nghệ
cao trong lĩnh vực kiểm tra không phá huỷ, hệ
điều khiển hạt nhân tự động, đánh
dấu đồng vị phóng xạ và nguồn kín, xử
lý bức xạ và phân tích hạt nhân làm đầu mối
chuyển giao công nghệ cho các ngành kinh tế - kỹ thuật
và công nghiệp. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng
NLNT trong khoa học vật liệu, đặc biệt là vật
liệu nano.
c) Trong khí tượng - thuỷ văn và địa chất
- khoáng sản
Sử dụng và phát triển công
nghệ ứng dụng năng lượng bức xạ
phục vụ cho công tác điều tra, đánh giá, thăm
dò tài nguyên khoáng sản, tài nguyên nước, quản lý nguồn
nước ngầm, nghiên cứu sa bồi cửa sông, bến
cảng, lòng hồ và đánh giá an toàn đê, đập, dự
báo và phòng ngừa thiên tai.
d) Trong nông nghiệp và công nghệ
sinh học
Đẩy mạnh hướng
nghiên cứu về đột biến phóng xạ để
tạo giống cây trồng, ứng dụng đồng vị
đánh dấu để nghiên cứu dinh dưỡng cây trồng,
thổ nhưỡng và vật nuôi. Sản xuất các chế
phẩm phục vụ nông nghiệp bằng công nghệ bức
xạ. Bảo vệ rau quả, bảo vệ sức khoẻ
và sinh sản động vật sử dụng công nghệ
tiệt sinh sâu bệnh, côn trùng bằng bức xạ (SIT).
Mở rộng ứng dụng công nghệ chiếu xạ
và các kỹ thuật phân tích hạt nhân để bảo
đảm chất lượng, vệ sinh, an toàn thực
phẩm. Xây dựng một số trung tâm nông nghiệp hạt
nhân theo vùng. Nghiên cứu và ứng dụng năng lượng
bức xạ trong sinh học phân tử, công nghệ gen, tế
bào học và khoa học sự sống.
đ) Trong bảo vệ môi trường
Sử dụng các kỹ thuật
phân tích hạt nhân và liên quan trong nghiên cứu đánh giá ô
nhiễm môi trường (biển, đất, nước,
không khí). Xử lý các loại chất thải bằng công
nghệ chiếu xạ gamma và công nghệ chùm điện tử
gia tốc. Dò phá bom, mìn bằng kỹ thuật hạt nhân.
e) Một số công nghệ và sản
phẩm cần tập trung nội địa hoá
- Sản xuất và sử dụng các thiết
bị ghi đo hạt nhân phục vụ sản xuất,
đời sống, nghiên cứu khoa học và an ninh quốc
phòng: các thiết bị đo độ dày, mật độ,
độ ẩm, đo mức, ghi nhận rò rỉ, theo dõi
ăn mòn, đo dòng chảy, phân tích đa thành phần, dò
phá bom, mìn,....
- Công nghệ máy gia tốc phục vụ
nghiên cứu khoa học, y tế và công nghiệp: các thiết
bị X - quang chẩn đoán, máy gia tốc LINAC điều
trị ung thư, máy gia tốc chùm điện tử có biến
đổi sang tia X, các loại máy gia tốc khác.
- Chế tạo các thiết bị cộng
hưởng từ hạt nhân dùng trong y tế, nghiên cứu
cấu trúc protein và đánh giá chất lượng sản
phẩm trong công nghiệp dược liệu.
- Công nghệ laser: phát triển các công nghệ
laser rắn, hoàn thiện và mở rộng việc chế tạo
và ứng dụng các sản phẩm laser đặc chủng,
chiếm lĩnh thị trường trong nước và sớm
mở thị trường sang các nước trong khu vực
và quốc tế.
- Các sản phẩm đồng vị và
dược chất phóng xạ được sản xuất
trên lò phản ứng và máy gia tốc đủ đáp ứng
nhu cầu thị trường trong nước và một số
nước trong khu vực.
- Các giống cây trồng có giá trị kinh tế
cao, các chế phẩm từ công nghệ bức xạ phục
vụ nông nghiệp và y tế, các công nghệ trồng trọt
và chăn nuôi.
- Các vật liệu mới phục vụ
cho ngành công nghiệp và tiêu dùng được tạo ra bằng
công nghệ bức xạ trên chùm gamma, nơtron và chùm hạt
gia tốc.
a) Thực hiện chương
trình dài hạn về phát triển điện hạt nhân
Để phát huy hiệu quả
kinh tế cao của ĐHN và phát triển ngành công nghiệp
công nghệ hạt nhân cần phải xây dựng
Chương trình dài hạn về phát triển ĐHN.
Đây là một nội dung quan trọng để thực
hiện chính sách năng lượng quốc gia.
Chương trình dài hạn về phát triển ĐHN bao gồm
các nội dung sau đây:
- Quy hoạch và kế hoạch
phát triển các nhà máy ĐHN
Quy hoạch phát triển nguồn
điện, trong đó có việc lập kế hoạch xây
dựng các nhà máy ĐHN đảm bảo đến 2025
ĐHN chiếm tỷ lệ 11% và đến 2040 - 2050
ĐHN chiếm tỷ lệ 25 - 30% tổng sản lượng
điện quốc gia; quy hoạch và lựa chọn địa
điểm xây dựng các nhà máy ĐHN và cơ sở quốc
gia lưu giữ chất thải phóng xạ.
- Phát triển nguồn nhân lực
Thành lập Ban Chỉ đạo
quốc gia về đào tạo phát triển nguồn nhân lực
cho ĐHN. Trong nhiệm vụ đào tạo phát triển
nguồn nhân lực cần làm rõ kế hoạch, chỉ
tiêu, phương thức đào tạo để đảm
bảo nhu cầu cán bộ cho các cơ quan khác nhau tham gia
trong Chương trình dài hạn về phát triển ĐHN
(cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức nghiên
cứu và triển khai, hỗ trợ kỹ thuật,
đào tạo, cơ sở công nghiệp và cơ quan chủ
quản nhà máy ĐHN). Tăng cường năng lực
cho các cơ sở đào tạo cán bộ về ĐHN.
- Nghiên cứu và triển khai về công nghệ và nhiên
liệu cho nhà máy ĐHN
Về công nghệ, cần tập
trung nghiên cứu các loại công nghệ ĐHN hiện
đại đã được thương mại hóa và xu
thế phát triển các công nghệ mới trong lĩnh vực
này, lựa chọn công nghệ cho chương trình ĐHN của
nước ta và xây dựng chính sách phát triển công nghệ.
Việc lựa chọn công nghệ cần hướng vào
các đối tác có bản quyền và có nhiều kinh nghiệm
trong việc xây dựng, vận hành nhà máy ĐHN với công
nghệ tiên tiến nhất.
Xây dựng năng lực nghiên cứu
và làm chủ việc thiết kế kỹ thuật nhà máy
ĐHN là nhiệm vụ quan trọng nhất trong nghiên cứu
về công nghệ. Nhiệm vụ này sẽ được
thực hiện qua 3 giai đoạn sau đây: giai đoạn
học tập, tích lũy công nghệ, giai đoạn chuyển
giao công nghệ và giai đoạn phát triển công nghệ.
Giai đoạn tích lũy công nghệ
sẽ được hoàn thành trước khi khởi công
xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên (vào khoảng năm
2015). Trong giai đoạn này, ưu tiên cao nhất dành cho việc
xây dựng đội ngũ chuyên gia thông qua các khóa huấn
luyện riêng với sự trợ giúp quốc tế và
đào tạo thông qua các dự án công nghiệp lớn của
quốc gia. Do đó, một mặt cần khai thác triệt
để các dự án công nghiệp lớn đang triển
khai như các dự án nhiệt điện, thuỷ điện,
dầu khí, giao thông, xây dựng để đào tạo các
chuyên gia công nghệ có liên quan, mặt khác phải sớm
xác định đối tác về ĐHN để có các kế
hoạch hợp tác trong đào tạo chuyên gia về
ĐHN.
Giai đoạn chuyển giao công
nghệ được bắt đầu từ khi khởi
công xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên và kéo dài trong một
số dự án tiếp theo.
Giai đoạn phát triển công
nghệ được bắt đầu khoảng 10
năm sau khi vận hành nhà máy ĐHN đầu tiên.
Về nhiên liệu, tiến hành
đồng thời 2 nhiệm vụ: chuẩn bị
chương trình nội địa hóa sản xuất thanh
nhiên liệu từ urani nhập khẩu và nghiên cứu sử
dụng thương mại tài nguyên urani trong nước.
Việc tiến hành các hoạt
động nghiên cứu và triển khai về công nghệ sản
xuất nhiên liệu từ urani nhập khẩu bao gồm
thiết kế hạt nhân, tính toán thủy nhiệt, thiết
kế bó nhiên liệu, phân tích an toàn, công nghệ gốm
nhiên liệu, công nghệ vỏ thanh nhiên liệu, thử
nghiệm thanh nhiên liệu làm cơ sở cho việc thực
hiện dự án chuyển giao công nghệ chế tạo
thanh nhiên liệu cho nhà máy ĐHN và lò phản ứng nghiên cứu
ở trong nước.
Để sử dụng
thương mại tài nguyên urani của Việt Nam, cần
tiếp tục tổ chức các nghiên cứu thăm dò và
đánh giá trữ lượng tài nguyên urani. Xây dựng hệ
thống phòng thí nghiệm về xử lý quặng, chế
tạo các sản phẩm urani có độ sạch hạt
nhân, chế tạo viên gốm nhiên liệu, chế tạo
các sản phẩm zirconi tinh khiết, sản xuất thử
nghiệm urani kỹ thuật cho khu vực tài nguyên cấp
C1. Trên cơ sở đánh giá hiệu quả kinh tế - xã
hội của việc khai thác và chế biến tài nguyên
urani, xây dựng chính sách sử dụng tài nguyên urani trong
nước cho chương trình dài hạn về phát triển
ĐHN.
- Đảm bảo an toàn hạt nhân
Tăng cường năng lực
cho cơ quan quản lý nhà nước về an toàn bức xạ,
hạt nhân.
Xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật về ứng dụng NLNT và an toàn bức
xạ, hạt nhân bao gồm Luật Năng lượng
nguyên tử và các văn bản hướng dẫn thi hành.
Ban hành đầy đủ các quy định, tiêu chuẩn
kỹ thuật và an toàn phục vụ cho việc xây dựng,
vận hành nhà máy ĐHN và quản lý an toàn bức xạ, hạt
nhân.
Hình thành và phát triển tổ chức
nghiên cứu và hỗ trợ kỹ thuật về an toàn bức
xạ, hạt nhân có đủ năng lực về cán bộ
và phương tiện kỹ thuật để thực hiện
phân tích, đánh giá và thanh tra chuyên ngành về an toàn hạt
nhân.
Xây dựng hệ thống ứng
phó khẩn cấp quốc gia để giải quyết các
sự cố tai nạn bức xạ và hạt nhân.
- Nâng cao năng lực của các ngành công nghiệp trong
nước vào việc tham gia thực hiện hiệu
quả dự án xây dựng nhà máy điện hạt nhân.
Để đạt được sự tham gia
tối đa của các ngành công nghiệp trong nước
vào việc thực hiện Dự án xây dựng nhà máy
ĐHN đầu tiên, phải xây dựng chương trình
nâng cao năng lực của các ngành công nghiệp trong
nước.
Từ nay đến năm 2015
Chương trình tập trung vào việc xây dựng cơ chế,
chính sách thúc đẩy sự tham gia của các ngành công nghiệp
trong nước và nâng cao năng lực thiết kế, chế
tạo thiết bị, vật tư và sản xuất vật
liệu xây dựng. Trên cơ sở đó, huy động
các ngành công nghiệp trong nước tham gia cung cấp thép
xây dựng, thép cấu trúc, các vật liệu xây dựng, hệ
thiết bị trao đổi nhiệt, các bình chứa,
đường ống, cáp điện, hệ thống chiếu
sáng cho Dự án xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên.
Đồng thời, tham gia các hoạt động quản
lý dự án, thẩm định thiết kế kỹ thuật,
bảo đảm và kiểm tra chất lượng, vận
chuyển các thiết bị siêu trường siêu trọng,
xây lắp, kiểm tra thiết bị,....
- Hợp tác quốc tế
Nhiệm vụ của công tác hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực NLNT trước hết
là phải làm cho cộng đồng quốc tế tin
tưởng vào chính sách nhất quán của Chính phủ Việt
Nam về ứng dụng và phát triển NLNT vì mục
đích hoà bình để tạo điều kiện cho việc
chuyển giao tri thức, công nghệ và đầu tư vào
Việt Nam. Tổ chức thực hiện đầy đủ
các Công ước và Điều ước quốc tế
đã ký kết, tích cực nghiên cứu tham gia các Công ước
và Điều ước quốc tế khác có liên quan đến
NLNT. Hợp tác chặt chẽ và toàn diện với Cơ
quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA).
Đẩy mạnh các hợp tác đa phương và song
phương với các nước và các tổ chức quốc
tế, tạo môi trường thuận lợi nhất
để khai thác tối đa kinh nghiệm và sự trợ
giúp của các nước tiên tiến.
b) Thực hiện dự án xây dựng
nhà máy điện hạt nhân đầu tiên
- Lập và phê duyệt Báo cáo đầu
tư xây dựng nhà máy ĐHN đầu tiên bao gồm những
nội dung chính là quy mô, địa điểm, công nghệ,
an toàn, quản lý chất thải phóng xạ, đánh giá tác
động môi trường, đảm bảo nguồn nhân
lực, phương án tài chính và lộ trình xây dựng nhà
máy.
- Xây dựng hồ sơ mời
thầu, tổ chức đấu thầu và ký kết hợp
đồng chuyển giao công nghệ và xây dựng nhà máy.
- Đào tạo cán bộ vận
hành nhà máy theo hợp đồng với nhà thầu.
- Thực hiện đầy đủ
các quy trình, thủ tục xây dựng theo quy định của
pháp luật.
- Xây dựng, vận hành thử và
vận hành thương mại bảo đảm chất
lượng, tiến độ, an toàn và hiệu quả.
3. Xây dựng
và phát triển tiềm lực
a) Cơ sở vật chất - kỹ
thuật
Phát triển đồng bộ các
cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ
công tác bảo đảm an toàn bức xạ, hạt nhân,
quản lý chất thải phóng xạ, nghiên cứu - triển
khai, đào tạo nhân lực là một trong các nhiệm vụ
và đồng thời cũng là giải pháp quan trọng
để thực hiện thành công Chiến lược ứng
dụng NLNT vì mục đích hoà bình, cụ thể là:
- Tăng cường cơ sở
vật chất kỹ thuật để bảo đảm
an toàn bức xạ, hạt nhân trong các hoạt động
nghiên cứu, phát triển và ứng dụng NLNT và cho công tác
đảm bảo an ninh các lò phản ứng. Quy hoạch
và xây dựng mạng lưới quan trắc phóng xạ môi
trường quốc gia. Xây dựng năng lực kỹ
thuật để thực hiện Kế hoạch quốc
gia về ứng phó khẩn cấp sự cố bức xạ
và hạt nhân. Đầu tư cơ sở vật chất
kỹ thuật đầy đủ cho tổ chức hỗ
trợ kỹ thuật phục vụ quản lý nhà nước
về an toàn bức xạ, hạt nhân.
- Tăng cường năng lực
cơ sở hạ tầng kỹ thuật về quản
lý chất thải phóng xạ trong phạm vi toàn quốc bao
gồm các tổ chức nghiên cứu và triển khai, xử
lý và lưu giữ chất thải phóng xạ. Quy hoạch
địa điểm cho cơ sở quốc gia về
lưu giữ chất thải phóng xạ và lập
phương án xử lý lò phản ứng hạt nhân Đà
Lạt sau khi kết thúc hoạt động.
- Tăng cường năng lực
các tổ chức nghiên cứu và triển khai trong lĩnh vực
khoa học và công nghệ hạt nhân và các lĩnh vực có
liên quan với việc trang bị các thiết bị tiên tiến
như lò phản ứng nghiên cứu công suất lớn
đa mục tiêu, máy gia tốc, thiết bị cộng
hưởng từ, thiết bị laser, thiết bị
nghiên cứu về nhiên vật liệu hạt nhân và các thiết
bị nghiên cứu khác.
- Tăng cường đầu
tư trang thiết bị và hiện đại hoá
phương tiện, chương trình đào tạo cho các
cơ sở đào tạo về khoa học và công nghệ
hạt nhân.
b) Phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực
phải được quan tâm đi trước một
bước. Cùng với chương trình đào tạo phát
triển nguồn nhân lực cho ĐHN như đã nêu ở
trên, phải xây dựng kế hoạch đào tạo phát
triển nguồn nhân lực cho ứng dụng năng
lượng bức xạ trong các ngành kinh tế - xã hội.
Ngoài việc đào tạo cán bộ khoa học và công nghệ,
cần chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, hoạch
định chính sách và luật pháp trong lĩnh vực ứng
dụng NLNT và đảm bảo an toàn bức xạ, hạt
nhân.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC
1. Hoàn thiện hệ thống tổ
chức và quản lý
Hoàn thiện
hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước
về năng lượng nguyên tử và an toàn bức
xạ, hạt nhân theo nguyên
tắc bảo đảm tính độc lập giữa các
cơ quan này trong quá trình thực thi nhiệm vụ của
mình. Quy hoạch và xây dựng các tổ chức nghiên
cứu - triển khai, hỗ trợ kỹ thuật
phục vụ quản lý nhà nước, sản xuất và
dịch vụ trong lĩnh vực ứng dụng năng
lượng nguyên tử và an toàn bức xạ, hạt nhân.
2. Xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ
chế, chính sách
Xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật về năng
lượng nguyên tử bao gồm ban hành Luật Năng
lượng nguyên tử, các nghị định, thông tư
hướng dẫn thi hành, các quy định, quy chế,
tiêu chuẩn kỹ thuật và các cơ chế, chính sách phù
hợp với tính chất đặc thù có yêu cầu cao
về tính an toàn, kỷ luật hành chính, sự phức
tạp về kỹ thuật và nhạy cảm về chính
trị.
3. Phát
triển nguồn nhân lực
Tạo
bước chuyển mạnh về phát triển nguồn
nhân lực, trọng tâm là xây dựng các cơ sở giáo
dục và đào tạo, các tổ chức nghiên cứu
triển khai về khoa học và công nghệ hạt nhân. Xây
dựng kế hoạch quốc gia về phát triển
nguồn nhân lực bao gồm đội ngũ chuyên gia,
kỹ thuật viên và công nhân lành nghề đáp ứng yêu
cầu ứng dụng năng
lượng nguyên tử, đặc biệt là phát triển
điện hạt nhân. Tập trung đào tạo, nâng cao
trình độ chuyên môn cho cán bộ quản lý, cán bộ kỹ
thuật và công nhân lành nghề trong lĩnh vực năng
lượng nguyên tử. Củng cố, từng
bước đổi mới trang thiết bị và nâng cao
trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ
giảng dạy bộ môn vật lý hạt nhân để
đào tạo cán bộ khoa học và công nghệ hạt
nhân tại các trường đại học, có chính sách
thu hút học sinh giỏi, phát huy tài năng của các chuyên
gia trong nước và thu hút các chuyên gia giỏi người
Việt Nam định cư ở nước ngoài trong
lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
4. Xây
dựng và thực hiện chương trình mục tiêu
quốc gia
Chương
trình mục tiêu quốc gia nhằm từng bước hình
thành và phát triển ngành công nghiệp công nghệ hạt
nhân. Nội dung chủ yếu của chương trình bao
gồm các nội dung sau:
- Triển khai một cách rộng rãi và hiệu
quả việc ứng dụng năng lượng bức
xạ phục vụ các lĩnh vực kinh tế - xã hội
và an ninh quốc phòng, từng bước sản xuất và
phát triển các sản phẩm và công nghệ ứng dụng
năng lượng bức xạ mang thương hiệu
Việt Nam.
- Triển khai thực hiện Dự án xây
dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên và huy
động tối đa năng lực của các ngành công
nghiệp trong nước tham gia thực hiện dự án.
- Xây dựng và thực hiện
Chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ về
năng lượng nguyên tử, cụ thể là tăng
cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho
các tổ chức nghiên cứu và triển khai công nghệ kỹ
thuật cao ứng dụng năng lượng nguyên tử
phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
các cơ sở đào tạo
chuyên gia khoa học - công nghệ hạt nhân, các cơ
sở dịch vụ và hỗ trợ kỹ thuật phục
vụ công tác quản lý nhà nước về năng lượng
nguyên tử, an toàn bức xạ và an toàn bức xạ, hạt
nhân. Xây dựng lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu mới
công suất lớn đa mục tiêu, trang bị các máy gia tốc
và các thiết bị nghiên cứu hiện đại khác.
- Quy hoạch địa điểm cho các
nhà máy điện hạt nhân và cơ sở lưu giữ
chất thải phóng xạ. Điều tra tài nguyên xạ
hiếm.
5. Thực hiện các biện pháp bảo
đảm an toàn, an ninh cho cơ sở hạt nhân và sự
ủng hộ của công chúng cho phát triển điện hạt
nhân.
Thực hiện các biện pháp quản lý
và các giải pháp kỹ thuật để đảm bảo
an toàn, an ninh trong xây dựng và vận hành nhà máy điện
hạt nhân, lò phản ứng nghiên cứu. Xây dựng các
đơn vị có khả năng ứng phó khẩn cấp
khi có sự cố, tai nạn bức xạ và hạt nhân.
Xây dựng và bảo đảm việc hoạt động
của mạng lưới quan trắc phóng xạ môi
trường quốc gia. Thường xuyên cập nhật
các thông tin về ứng dụng năng lượng nguyên tử
phục vụ kinh tế - xã hội.
6. Đẩy mạnh hợp tác và hội nhập
quốc tế
Đẩy
mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế phục
vụ cho việc đào tạo, chuyển giao công nghệ
về ứng dụng năng lượng bức xạ và
phát triển điện hạt nhân, gắn hợp tác
quốc tế về năng lượng nguyên tử
với hợp tác quốc tế về khoa học và công
nghệ và hợp tác quốc tế về kinh tế,
tạo sự tin cậy và hợp tác của cộng
đồng quốc tế đối với chương
trình phát triển điện hạt nhân của Việt Nam,
hướng vào các đối tác có công nghệ tiên tiến
và nhiều kinh nghiệm trong việc xây dựng và phát
triển điện hạt nhân.
7.
Đầu tư, tài chính và huy động vốn
Cần
đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư cho
ứng dụng năng lượng bức xạ phục
vụ cho các ngành kinh tế - xã hội. Để bảo
đảm ngân sách cho thực hiện Chiến lược,
cần huy động và sử dụng hiệu quả các
nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, các nguồn
vốn hợp tác song phương và đa phương
của các tổ chức quốc tế, vốn đầu
tư nước ngoài, vốn của các doanh nghiệp trong
nước và của cộng đồng. Nguồn vốn
ngân sách nhà nước tập trung cho nhu cầu nghiên
cứu khoa học, đào tạo nguồn nhân lực, xây
dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kỹ
thuật và luật pháp, nâng cao năng lực cho cơ quan
quản lý nhà nước và các cơ quan hỗ trợ
kỹ thuật cho quản lý nhà nước. Nhà nước
bảo đảm việc huy động vốn từ
nguồn vay nước ngoài và nguồn lực của xã
hội để phát triển điện hạt nhân.
- Thực hiện quản lý nhà
nước về ứng dụng NLNT và an toàn bức xạ,
hạt nhân.
- Chủ trì, phối hợp với
các Bộ, ngành liên quan xây dựng và trình Chính phủ ban hành
hoặc ban hành theo thẩm quyền hệ thống tổ
chức quản lý nhà nước, các văn bản quy phạm
pháp luật và các cơ chế, chính sách về ứng dụng
năng lượng nguyên tử và an toàn bức xạ, hạt
nhân.
- Xây dựng và phối hợp tổ
chức thực hiện chương trình, kế hoạch
nghiên cứu và triển khai trong lĩnh vực NLNT, tăng
cường cơ sở vật chất kỹ thuật phục
vụ nghiên cứu - triển khai về khoa học và công
nghệ hạt nhân và hỗ trợ kỹ thuật về
an toàn bức xạ, hạt nhân.
- Chủ trì, phối hợp với
Bộ Công nghiệp và các Bộ, ngành liên quan tổ chức
nghiên cứu về công nghệ và nhiên liệu cho nhà máy
ĐHN.
- Chủ trì, phối hợp với
các Bộ, ngành liên quan xây dựng và thực hiện kế
hoạch triển khai ứng dụng công nghệ năng
lượng bức xạ phục vụ các lĩnh vực
kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng, hình thành và phát
triển các sản phẩm và công nghệ mang thương
hiệu Việt Nam.
- Chủ trì, phối hợp với
các Bộ, ngành liên quan đánh giá, cấp phép an toàn bức xạ,
hạt nhân.
- Thẩm định và xác nhận
đăng ký các hợp đồng chuyển giao công nghệ,
dự án xây dựng nhà máy ĐHN.
- Lập quy hoạch và kế hoạch
phát triển các nhà máy ĐHN, lựa chọn địa
điểm, tổ chức xây dựng, quản lý và vận
hành các nhà máy ĐHN.
- Chủ trì, phối hợp với
Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành liên quan xây
dựng và thực hiện kế hoạch tổng thể về
nâng cao năng lực các ngành công nghiệp trong nước
nhằm tham gia hiệu quả vào việc thực hiện
các dự án xây dựng nhà máy ĐHN.
- Chủ trì, phối hợp với
các Bộ, ngành liên quan đào tạo cán bộ quản lý dự
án, cán bộ và công nhân kỹ thuật, cán bộ vận hành
cho các dự án ĐHN.
- Chủ trì, phối hợp với
Bộ Khoa học và Công nghệ triển khai ứng dụng
kỹ thuật bức xạ trong các ngành công nghiệp và
đảm bảo an toàn trong các hoạt động này.
- Chủ trì, phối hợp với
các cơ quan liên quan xây dựng các cân đối lớn về
tài chính, tiền tệ; các nguồn vốn (trong đó có nguồn
vốn ngân sách) để thực hiện Chiến lược
ứng dụng NLNT vì mục đích hoà bình, xây dựng nhà
máy ĐHN trình Chính phủ phê duyệt.
- Chủ trì, phối hợp với
các Bộ, ngành liên quan thẩm định xét duyệt thầu
xây dựng các hạng mục và toàn bộ nhà máy ĐHN.
- Phối hợp với Bộ
Khoa học và Công nghệ, Bộ Công nghiệp và các Bộ,
ngành liên quan xây dựng kế hoạch ứng dụng
năng lượng bức xạ trong các ngành kinh tế -
xã hội, kế hoạch xây dựng các nhà máy ĐHN, xây dựng
cơ chế, chính sách ưu đãi về đầu tư,
đa dạng hoá phương thức đầu tư, danh
mục các dự án đầu tư khuyến khích các thành
phần kinh tế tham gia trình Chính phủ phê duyệt.
- Chủ trì, phối hợp với
Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các cơ quan
liên quan xây dựng kế hoạch cân đối các nguồn
vốn để tập trung ngân sách hàng năm cho ứng dụng
NLNT và đảm bảo an toàn bức xạ, hạt nhân.
- Bố trí vốn tín dụng
ưu đãi từ quỹ hỗ trợ phát triển, vốn
ODA và các nguồn vay song phương của các nước
cho các dự án xây dựng nhà máy ĐHN, ứng dụng
năng lượng bức xạ và xây dựng cơ sở
hạ tầng kỹ thuật ngành NLNT. Huy động thị
trường tài chính trong và ngoài nước để thu
hút các nguồn vốn cho phát triển ngành NLNT.
- Chủ trì, phối hợp với
Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành liên quan xây
dựng quy hoạch, kế hoạch triển khai nghiên cứu,
ứng dụng năng lượng bức xạ trong việc
chăm sóc sức khoẻ nhân dân phù hợp với Chiến
lược ứng dụng NLNT vì mục đích hoà bình.
- Tổ chức nghiên cứu y học
phóng xạ và hạt nhân, thực hiện các biện pháp
đảm bảo an toàn bức xạ trong y tế.
- Cấp phép sản xuất và
lưu hành các dược chất phóng xạ dùng trong y tế;
cấp phép cho các sản phẩm thực phẩm đã qua
chiếu xạ theo quy định của pháp luật.
e) Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
- Chủ trì, phối hợp với
Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành liên quan xây
dựng quy hoạch, kế hoạch triển khai nghiên cứu
ứng dụng năng lượng bức xạ trong tạo
giống cây trồng, quản lý và cải tạo đất,
quản lý nước tưới, sản xuất phân bón và
các chế phẩm bức xạ phục vụ nông nghiệp,
kiểm soát sâu bệnh, sức khoẻ sinh sản động
vật, bảo quản lương thực, thực phẩm
phù hợp với Chiến lược ứng dụng NLNT
vì mục đích hoà bình.
- Thực hiện các biện pháp
đảm bảo an toàn bức xạ trong các hoạt động
ứng dụng NLNT trong ngành nông nghiệp.
- Chủ trì, phối hợp với
Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công nghiệp và các Bộ,
ngành liên quan xây dựng kế hoạch quốc gia về
đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho
chương trình NLNT, xây dựng chương trình đào tạo,
mạng lưới các cơ sở đào tạo đại
học, trên đại học và tổ chức công tác
đào tạo để đáp ứng nhu cầu nhân lực
cho chương trình phát triển ĐHN và ứng dụng
năng lượng bức xạ.
- Tiến hành các nghiên cứu
cơ bản trong lĩnh vực KH&CN hạt nhân.
h) Bộ Tài nguyên và Môi trường
- Chủ trì, phối hợp với
Bộ Công nghiệp, Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ,
ngành, địa phương liên quan tổ chức điều
tra, đánh giá tài nguyên khoáng sản urani, thori phục vụ
cho chương trình phát triển ĐHN của Việt Nam.
- Chủ trì, phối hợp với
Bộ Công nghiệp, Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ,
ngành, địa phương liên quan lập quy hoạch
địa điểm xây dựng các nhà máy ĐHN và cơ sở
quốc gia lưu giữ chất thải phóng xạ.
- Chủ trì, phối hợp với
Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ, ngành và địa
phương liên quan triển khai ứng dụng năng
lượng bức xạ trong địa chất, khoáng sản,
khí tượng, thủy văn, đặc biệt trong
đánh giá và quản lý tài nguyên nước, dự báo thời
tiết và thiên tai.
- Thẩm định và phê duyệt
báo cáo đánh giá tác động môi trường các dự án
hạt nhân.
- Chủ trì, phối hợp với
Bộ Công nghiệp, Bộ Khoa học và Công nghệ và các Bộ,
ngành liên quan triển khai lập quy hoạch và đầu
tư cho các Tổng công ty xây dựng lớn về năng
lực xây lắp, đào tạo cán bộ và công nhân kỹ
thuật lành nghề để có thể tham gia thực hiện
dự án xây dựng nhà máy ĐHN.
- Chủ trì, phối hợp với
Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Công nghiệp và các Bộ,
ngành liên quan triển khai soạn thảo và trình ban hành tiêu
chuẩn Việt Nam về xây dựng các cơ sở bức
xạ và cơ sở hạt nhân.
- Phối hợp với các cơ
quan liên quan trong lập quy hoạch địa điểm
xây dựng các nhà máy ĐHN và cơ sở quốc gia lưu
giữ chất thải phóng xạ.
Phối hợp với Bộ Khoa
học và Công nghệ, Bộ Công nghiệp và các Bộ, ngành
liên quan trong hợp tác quốc tế về NLNT, bao gồm
cả việc tham gia và thực hiện các điều
ước quốc tế về NLNT.
Chủ trì, phối hợp với
các cơ quan liên quan đảm bảo an toàn, an ninh cho các
cơ sở hạt nhân. Xây dựng và tổ chức thực
hiện kế hoạch quốc gia ứng phó khẩn cấp
các sự cố bức xạ và hạt nhân.
Chủ trì, phối hợp với
các cơ quan liên quan quản lý, chỉ đạo, hướng
dẫn và triển khai các biện pháp đảm bảo an
ninh trong lĩnh vực NLNT. Tham gia giám sát và ứng phó khẩn
cấp các sự cố bức xạ và hạt nhân.
Phối hợp với Bộ Khoa
học và Công nghệ xây dựng và trình ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật về ứng dụng NLNT và an toàn bức
xạ, hạt nhân.
Tổ chức tuyên truyền, nâng
cao nhận thức cho nhân dân về vai trò của NLNT đối
với phát triển kinh tế - xã hội; chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
ứng dụng NLNT và đảm bảo an toàn bức xạ,
hạt nhân.
p) Viện Khoa học và Công nghệ Việt
Nam
Tham gia thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng và
phát triển ngành công nghiệp công nghệ hạt nhân. Thực
hiện các nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng
NLNT và tham gia đào tạo chuyên gia về KH&CN hạt
nhân.
q) Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ
Theo chức năng và nhiệm vụ
của mình, phối hợp với Bộ Khoa học và Công
nghệ và các Bộ, ngành liên quan triển khai thực hiện
các nhiệm vụ ứng dụng NLNT và đảm bảo
an toàn bức xạ, hạt nhân trên phạm vi toàn quốc.
r) Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương
Theo chức năng, nhiệm vụ
của mình, phối hợp với Bộ Khoa học và Công
nghệ và các Bộ, ngành liên quan triển khai thực hiện
các nhiệm vụ ứng dụng NLNT, đảm bảo an
toàn bức xạ, hạt nhân, đảm bảo an ninh và
tham gia ứng phó các sự cố bức xạ và hạt
nhân tại địa phương.
Thủ
tướng
Phan Văn
Khải đã ký