Chỉ thị 79/2008/CT-BVHTTDL của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch về tăng cướng công tác pháp chế ngành văn hoá, thể thao và du lịch
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Chỉ thị 79/2008/CT-BVHTTDL
Cơ quan ban hành: | Bộ Khoa học và Công nghệ; Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 79/2008/CT-BVHTTDL | Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Chỉ thị | Người ký: | Hoàng Tuấn Anh |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 08/09/2008 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! | |
Lĩnh vực: | Văn hóa-Thể thao-Du lịch |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Chỉ thị 79/2008/CT-BVHTTDL
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
CHỈ THỊ
CỦA BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH SỐ
79/2008/CT-BVHTTDL
NGÀY 8 THÁNG 9 NĂM 2008 VỀ TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC
PHÁP CHẾ NGÀNH VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
Thời gian qua, công tác pháp chế ngành văn hoá, thể thao và
du lịch đã có những đóng góp tích cực trong việc duy trì và nâng cao hiệu lực
quản lý nhà nước của toàn ngành. Các hoạt động xây dựng và ban hành văn bản quy
phạm pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, kiểm tra việc thực hiện
pháp luật, công tác rà soát, hệ thống hoá và kiểm tra văn bản quy phạm pháp
luật đã được tổ chức, triển khai tương đối toàn diện. Đến nay, đã có sáu luật,
hai pháp lệnh và hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật khác về các lĩnh vực văn
hoá, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch được các cơ quan có thẩm quyền ban
hành. Hệ thống pháp luật về quản lý ngành ngày càng được hoàn thiện. Công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật đã được triển khai bằng nhiều hình thức thích hợp
để đưa các văn bản vào cuộc sống.
Tuy nhiên, công tác pháp chế của ngành vẫn còn có những hạn
chế. Một số văn bản chậm được ban hành; sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị
trong việc soạn thảo văn bản chưa chặt chẽ; công tác rà soát, kiểm tra và đánh
giá việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật chưa được thực hiện thường
xuyên; đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác pháp chế còn thiếu những cán bộ,
công chức có trình độ chuyên môn cao. Sự quan tâm đến công tác pháp chế trong
một số cán bộ lãnh đạo và sự hiểu biết về pháp luật của một số cán bộ, công
chức trong các cơ quan thuộc Bộ và các Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch chưa
tương xứng với yêu cầu không ngừng tăng cường pháp chế trong quản lý Nhà nước.
Những hạn chế nêu trên, nếu không được khắc phục kịp thời sẽ ảnh hưởng đến việc
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của toàn ngành.
Để phát huy những kết quả đã đạt được, kịp thời khắc phục
những hạn chế trong công tác pháp chế nhằm phát huy tốt vai trò giúp Bộ trưởng
thực hiện quản lý các hoạt động văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch
bằng pháp luật trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Bộ trưởng
Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch chỉ thị:
1. Về nhận thức:
Cán bộ, công chức, viên chức trong toàn ngành cần nâng cao
nhận thức về việc Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, từ đó thấy rõ vị trí,
tầm quan trọng của công tác pháp chế trong việc triển khai nhiệm vụ quản lý Nhà
nước của ngành.
Tiếp tục củng cố các tổ chức pháp chế, bồi dưỡng nghiệp vụ
cho cán bộ, công chức làm công tác pháp chế hiện có tại các cơ quan, đơn vị.
Đối với các cơ quan, đơn vị chưa có tổ chức pháp chế hoặc chưa bố trí cán bộ,
công chức làm công tác pháp chế chuyên trách hoặc kiêm nhiệm phải bố trí, phân
công cán bộ, công chức làm công tác pháp chế theo quy định của Nghị định số
122/2004/NĐ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2004 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức pháp chế các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
và doanh nghiệp nhà nước phù hợp với thực tế tại cơ quan, đơn vị mình.
2. Về công tác xây dựng pháp luật:
a. Cơ quan, đơn vị được giao chủ trì tổ chức soạn thảo văn
bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm
tiến độ soạn thảo; tuân thủ các quy định về trình tự, thủ tục soạn thảo, thẩm
định và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Trường hợp đặc biệt không thể thực
hiện đúng chương trình xây dựng pháp luật hàng năm thì phải thông báo cho Vụ
Pháp chế và Văn phòng biết rõ lý do để báo cáo Bộ trưởng;
b. Khi lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập phải có thành viên của
Vụ Pháp chế; đối với các dự thảo có nội dung liên quan đến cải cách hành chính
thì phải có thành viên của Bộ phận tham mưu chuyên trách giúp việc về cải cách
hành chính tham gia; phải tổ chức khảo sát, đánh giá tình hình thực tiễn, tham
khảo, nghiên cứu các quy định có liên quan cũng như thông lệ quốc tế về lĩnh
vực văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch, bảo đảm tính thống nhất
với các quy định pháp luật hiện hành;
c. Văn bản quy phạm pháp
luật do các cơ quan, đơn vị soạn thảo, khi trình Lãnh đạo Bộ ký ban hành
hoặc ký trình Thủ tướng Chính phủ phải kèm theo văn bản góp ý kiến hoặc văn bản
thẩm định của Vụ Pháp chế;
d. Vụ Pháp chế là đầu mối tham mưu giúp Bộ trưởng tham gia
góp ý kiến các dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật do các Bộ, ngành, địa phương gửi lấy ý kiến. Các cơ quan, đơn vị có
trách nhiệm phối hợp với Vụ Pháp chế trong việc tham gia góp ý kiến dự thảo văn
bản quy phạm pháp luật có liên quan
đến chức năng, nhiệm vụ của mình.
3. Về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật:
a. Cơ quan, đơn vị được giao chủ trì soạn thảo văn bản chủ
động chủ trì, phối hợp với Vụ Pháp chế tổ chức phổ biến khi văn bản đó được ban
hành nhằm nâng cao sự hiểu biết pháp luật của cán bộ, công chức và đối tượng
điều chỉnh của văn bản, tạo cơ sở cho việc tuân thủ các quy định của pháp luật
trong hoạt động quản lý ngành. Việc phổ biến văn bản trong các cơ quan, đơn vị
phải được thực hiện thường xuyên bằng nhiều hình thức, biện pháp thích hợp với
các đối tượng khác nhau, trong đó, chú trọng bồi dưỡng để nâng cao kiến thức
pháp luật cho cán bộ, công chức làm công tác tham mưu quản lý nhà nước. Cơ
quan, đơn vị chưa có tủ sách pháp luật cần phải xây dựng tủ sách; cơ quan, đơn
vị đã có tủ sách pháp luật phải kịp thời bổ sung sách mới để đáp ứng nhu cầu
tìm hiểu, tra cứu và áp dụng pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức và
người lao động trong cơ quan, đơn vị;
b. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật
của Bộ có trách nhiệm tổ chức phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị trong việc phổ
biến, giáo dục pháp luật;
c. Báo Văn hoá và các cơ quan báo chí khác của ngành mở
chuyên mục phổ biến, giáo dục pháp luật; kịp thời đưa tin, đăng tải các văn bản
quy phạm pháp luật mới ban hành, kể cả
các điều ước quốc tế về văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch mà Việt
Nam là thành viên để tuyên truyền sâu rộng các văn bản đó;
d. Vụ Pháp chế có trách nhiệm:
- Chủ trì, tổ chức xây dựng chương trình phổ biến,
giáo dục pháp luật cho từng giai đoạn và kế hoạch phổ biến, giáo dục pháp luật
hàng năm của Bộ văn hoá, Thể thao và Du lịch; phối hợp với Vụ Đào tạo đưa kế
hoạch phổ biến giáo dục pháp luật vào trong chương trình đào tạo của các trường
đại học, cao đẳng về văn hoá, thể thao và du lịch;
- Theo dõi việc phổ biến, giáo dục pháp luật trong các
cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; tham mưu giúp
Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục pháp luật của Bộ tổ chức điều phối
việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ và các Sở
Văn hoá, Thể thao và Du lịch; chủ trì phối hợp với các cơ quan trong việc giải
đáp pháp luật cho các cơ quan, đơn vị trong ngành và các doanh nghiệp.
4. Về công tác rà soát, hệ thống hoá và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật:
a. Cơ quan, đơn vị có chức năng tham mưu quản lý phải xác
định công tác rà soát, hệ thống hoá các quy định của pháp luật liên quan đến
việc tham mưu quản lý của đơn vị mình và công tác kiểm tra việc thực thi các
văn bản quy phạm pháp luật ngành, lĩnh vực mình phụ trách là việc làm thường
xuyên. Hàng năm phải có kế hoạch tổ chức, rà soát hệ thống hoá, kiểm tra văn
bản theo kế hoạch hoặc theo yêu cầu đột xuất của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du
lịch và Bộ Tư pháp;
b. Vụ Pháp chế chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị
thuộc Bộ và các Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch triển khai việc kiểm tra văn
bản quy phạm pháp luật do các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương ban hành về văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch
nhằm phát hiện và kiến nghị xử lý văn bản có sai sót hoặc không còn phù hợp với
thực tế để đảm bảo tính khả thi, tính thống nhất trong hệ thống pháp luật về
văn hoá, gia đình, thể dục, thể thao và du lịch;
c. Văn phòng phối hợp với Trung tâm Công nghệ thông tin xây
dựng và cập nhật cơ sở dữ liệu văn bản quy
phạm pháp luật của ngành lên trang thông tin điện tử (Website) của Bộ
Văn hoá, Thể thao và Du lịch để đáp ứng nhu cầu tra cứu văn bản của mọi đối
tượng.
5. Vụ Kế hoạch, Tài
chính và Văn phòng Bộ có trách nhiệm bố trí kinh phí cho hoạt động pháp chế của
các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ trong ngân sách hàng năm của Bộ theo quy
định.
6. Vụ Tổ chức cán bộ và
Vụ Đào tạo có trách nhiệm phối hợp với Vụ Pháp chế xây dựng và trình Bộ trưởng
phương án kiện toàn và tăng cường cán bộ pháp chế, có kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ pháp chế trong toàn ngành; lựa chọn, bồi dưỡng cán bộ có phẩm chất
đạo đức tốt và nghiệp vụ pháp lý giỏi để đáp ứng nhiệm vụ công tác pháp chế
trước mắt và lâu dài.
7. Yêu cầu các cơ quan,
đơn vị thuộc Bộ, các Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch nghiêm túc thực hiện Chỉ
thị này. Vụ Pháp chế có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện
Chỉ thị và hàng năm báo cáo Bộ trưởng.
Chỉ thị này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công
báo./.
BỘ TRƯỞNG
Hoàng Tuấn Anh