- Tổng quan
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
-
Nội dung hợp nhất
Tính năng này chỉ có tại LuatVietnam.vn. Nội dung hợp nhất tổng hợp lại tất cả các quy định còn hiệu lực của văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính... trên một trang. Việc hợp nhất văn bản gốc và những văn bản, Thông tư, Nghị định hướng dẫn khác không làm thay đổi thứ tự điều khoản, nội dung.
Khách hàng chỉ cần xem Nội dung hợp nhất là có thể nắm bắt toàn bộ quy định hiện hành đang áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Thông tư hướng dẫn việc thực hiện bản Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế ban hành kèm theo Nghị định số 54-CP ngày 10-3-1975
| Cơ quan ban hành: | Hội đồng Trọng tài kinh tế Nhà nước |
Số công báo:
Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý.
|
Đang cập nhật |
| Số hiệu: | 525-HĐ | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
| Loại văn bản: | Thông tư | Người ký: | Nguyễn Quang Xá |
|
Ngày ban hành:
Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành.
|
23/06/1975 |
Ngày hết hiệu lực:
Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng).
|
Đã biết
|
|
Áp dụng:
Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng).
|
Đang cập nhật |
Tình trạng hiệu lực:
Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,...
|
Đã biết
|
| Lĩnh vực: |
TÓM TẮT THÔNG TƯ 525-HĐ
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
THÔNG TƯ
CỦA HỘI ĐỒNG TRỌNG TÀI KINH TẾ NHÀ NƯỚC SỐ 525-HĐ
NGÀY 23 THÁNG 6 NĂM 1975 HƯỚNG DẪN ĐIỀU LỆ VỀ
CHẾ ĐỘ HỢP ĐỒNG KINH TẾ BAN HÀNH KÈM THEO
NGHỊ ĐỊNH SỐ 54 /CP NGÀY 10 THÁNG 3 NĂM 1975
I- MỤC ĐÍCH BAN HÀNH CHẾ ĐỘ HỢP ĐỒNG KINH TẾ
Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế được thực hiện ở nước ta từ năm 1960. Từ đó đến nay, công tác này đã dần dần đi vào nề nếp và không ngừng cải tiến. Nó đã góp phần vào việcthúc đẩyhoàn thành kế hoạch Nhà nướcvà cải tiến công tác kế hoạch hoá, cải tiếnquản lý kinh tế. Đến nay cơ cấu nền kinh tế quốc dân đã có những chuyển biến mới, công tácquản lýkinh tế, công tác kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân cần được cải tiến nên cần phải có bản điều lệ chính thức để thay thếbản điều lệ tạm thời.
Nghị quyết lần thứ 20 của Trung ương Đảng đã vạch rõ phương hướng cơ bản của việc cải tiếnquản lý kinh tế là: "Xoá bỏ lốiquản lýhành chínhcung cấp, thực hiệnquản lý theo phương thứckinh doanh xã hộichủ nghĩa, khắc phục cách tổchứcquản lýthủ công phân tán, theo lối sản xuất nhỏ, xây dựng cách tổ chứcquản lý của nền công nghiệp lớn nhằm thúc đẩy quá trìnhđưa nền kinh tế quốc dân từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớnxã hội chủ nghĩa".
Để nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết lần thứ 20 của Trung ương Đảngvà để khắc phục các nhược điểm thiếu sótcủa bản điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế ngày 10-3-1975, Hội đồng Chính phủ đã kýNghị định số 54/CP ban hành bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tếmới. Bản điều lệ này đã đúc kết kinh nghệm trong 15 năm công tác hợp đồng kinh tế, hệ thống lại cácquy địnhđã có, bãi bỏ những cái cũ không còn thích hợp, bổ sung thêm nhiều điểm mới và đây là bản điều lệ chính thức.
Bản điều lệ đã xác định vị trí quan trọng của hợp đồng kinh tế quốc dân, trong việcxây dựngvà thực hiệnkế hoạch, củng cố chế độ hạch toán kinh tế và tăng cường pháp chếxã hội chủ nghĩa, tăng cườngquản lý kinh tế, coi đây là một công cụ pháp lý trong việc xây dựngvàphát triển nền kinh tếquốc dân, mà việc ký kếtvà thực hiện hợp đồng kinh tế là một kỷ luật. Bắt buộc các tổ chức quốc doanh, các tổ chức công tư hợp doanh, các cơ quan quản lý Nhà nước, các đơn vị bộ đội, các tổ chức xã hội, các hợp tác xã được công nhận theo điều lệ hiện hành, các tổ sản xuất tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp được phépkinh doanh và có tài khoản ở ngân hàng đều phải ký kết hợp đồng kinh tếnếu có quan hệ kinh tế với nhau.
Điều lệ cũng đã nêu rõ trách nhiệm của ngườiphụ trách đơn vị kinh tế cơ sở, của ban quản trị của hợp tác xã và của tổ trưởng sản xuất, trách nhiệm của cả tập thể cán bộ, công nhân viên trong đơn vị, của xã viên trong hợp tác xã, của các cơ quanquản lý cấp trên, cơ quan quản lý chức năng và của cơ quan trọng tài kinh tế các ngành, các cấp. Nhà nước sử dụng công cụ pháp lý này để đề cao trách nhiệm và tinh thần hợp tácxã hội chủ nghĩa, tăng cường mốiquan hệkinh tếgiữa các đơn vị, tổ chức, cơ quan nhằm thúc đẩy hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch, đồng thời chấp hành đầy đủ các chính sách, chế độ, thể lệ về quản lý kinh tế của Nhà nước.
II- TRÁCH NHIỆM CỤ THỂ CỦA CÁC NGÀNH, CÁC CẤP
TRONG VIỆC THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HỢP ĐỒNG KINH TẾ
1- Trách nhiệm của đơn vị kinh tế cơ sở và của thủ trưởng đơn vị.
Đơn vị kinh tế cơ sở (danh từ gọi chung các xí nghiệp quốc doanh, các hợp tác xã, các tổ sản xuấtđược ký kết hợp đồng kinh tế) là nơi trực tiếp thực hiện kế hoạch Nhà nước, làmrasản phẩm, tạo ra thu nhập quốc dân, tích luỹ vốn đề tái sản xuất mở rộng, đảm bảosự cân đối trong nền kinh tế quốc dân và phúc lợi cho cán bộ,công nhân, viên trong đơn vị, xã viên trong hợp tác xã. Mọi hoạt động sản xuấtkinh doanh của một đơn vị đều có liên quanđến nhiều đơn vị khác và các cơ quanquản lý của Nhà nước, do đó đơn vị phải ký kết và thực hiện tốt hợp đồng kinh tế.
Đơn vị kinh tế cơ sở chủ thể của hợp đồng mà thủ trưởng, Chủ nhiệm hợp tác xã hoặc tổ trưởng tổ sản xuấtlà người đại diện ký vào hợp đồng. Vì vậy việc thay đổi thủ trưởng, chủ nhiệm, tổ trưởng(do chết, chuyển công tác khác hết nhiệm kỳ ...) sau khi ký kết hợp đồng không hề làm giảm trách nhiệm của đơn vị trong việc thực hiện hợp đồng kinh tếđó. Thủ trưởng một mặt phải nắm vững các chính sách, chế độ, thể lệ vềquản lý kinh tế và hạch toán kinh tế, các chỉ tiêu kế haọch Nhà nước cũng nhưphương hướng sản xuất kinh doanhcủa đơn vị, mặt khác phải tận dụng những phương tiện sẵn có của đơn vị kết hợp việc ký kết hợp đồng kinh tếvới công tác kế hoạch hoá làm sao cho hợp đồng kinh tế phát huy được tác dụngtích cực cả trong khâu xây dựng lẫn khâu thực hiện kế hoạch (phải ký kết hợp đồng kinh tếngay từ khi có sổ kiểm tra, sau khi có kế hoạch chính thức thì điều chỉnh bổ sung lại cho phù hợp).
Nội dung hợp đồng kinh tế phải là kết quả của một công trình nghiên cứu tập thể, thủ trưởng đơn vị, chủ nhiệm hợp tác xãvà tổ trưởng tổ sản xuấtphải cùng các đoàn thể quần chúng đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, động viên toàn thể cán bộ, công nhân, nhân viên, xã viên hợp tác xãtận dụng mọi tiềm lựccủa đơn vị, phát huy sáng kiếnđể khắc phục các khó khăn mắc mứu. Trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế, hai bênký kết phải luôn luôn có tinh thần hợp tácxã hội chủ nghĩa, thông cảm lẫn nhau đè cùng bàn bạc một cách dân chủ, bình đẳng nhằm thống nhất được với nhau về các điều khoản cam kết với tinh thần tự chịu trách nhiệm trướccấp trên của mình. Thủ trưởng đơn vị có thể tạm thời thoả thuận với bên cùng ký kết về những vấn đề chưa cóquy định nhằm đảm bảo việc ký kết hợp đồng kinh tếđược tiến hành đúng thời gianquy địnhvà đúng yêu cầu(trường hợp này phải báo cáo ngay cơ quanquản lý cấp trên để xin ý kiếngiải quyết). Thủ trưởng còn phải tranh thủ sự lãnh đạo của các cơ quanquản lý cấp trên để giải quyếtcác mắc mứu khó khăn về chi tiêu, về cơ sở vật chất, kỹ thuật, về chính sách chế độ vượt quá quyền hạn giải quyết của đơn vị kinh tế cơ sở.
Hợp đồng kinh tếphải được ký kết theo số kiểm tra, phương hướng, nhiệm vụ, chỉ tiêu kế hoạch. phải ký kết hợp đồng kinh tế với tinh thần vượt số kiểm tra và chỉ tiêu pháp lệnhcủa Nhà nước giao. Có thể ký kết hợp đồng ngoài chỉ tiêu kế hoạch của cấp trên giao để tạo thêm sản phẩm cho xã hội nhưng không được làm làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ chính cuả mình. Nội dung hợp đồng kinh tếkhông được trái với các chính sách, chế độ thể lệ hiện hành vềquản lý kinh tế của Nhà nước.
2- Trách nhiệm của các Bộ, Tổng cục, Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phố, các cơ quanquản lý cấp trên.
a) Các Bộ, Tổng cụcquản lý theo ngành, các Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phốquản lý theo lãnh thổ, Bộ, Tổng cục và Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phố chịu trách nhiệmtrước Hội đồng Chính phủ trong việcquản lý các đơn vị kinh tế trong ngành, trong địa phương.
Căn cứ vào tinh thần của các quy địnhtrong điều lệ thì trách nhiệm của các cơ quan nói trên bao gồm:
- Phân bổ kịp thời các số kiểm tra và chỉ tiêu kế hoạch chính thức đến các đơn vị cơ sở trực thuộc (không được giao thấp hơn các chỉ tiêupháp lệnh cuả Nhà nước ban hành);
- Hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các đơn vị cơ sở trực thuộc ký kết hợp đồng kinh tếđúng thời hạnquy định (hoặc điều chỉnh hợp đồng kinh tếkhi có kế hoạch chính thức) và thực hiện nghiêm chỉnh các hợp đồng kinh tế đã ký kết. Hướng dẫn ở đây là hướng dẫn việc thực hiện các chế độ, thểlệ cũng như trong việc xác lập quan hệ ai ký với ai, hướng dẫn nội dung tuỳ theo từng chủng loại hợp đồng, tạo điều kiệncho việc ký kết được tiến hành tốt, nhanh, gọn.
- Kịp thời giải quyết các mắc mứu được phát hiện một cách tích cực và có hiệu quả.
Nhữngquy định về trách nhiệm cuả các cơ quanquản lý cấp trên là vừa đề caonghĩa vụ của cácquy địnhnày đối với các cơ sở trực thuộc trong việc thực hiện thắnglợi kế hoạch Nhà nước, vừa tôn trọngtính tự chịu tráchnhiệm và tính chủ động của đơn vị cơ sở trong sản xuấtkinh doanh của mình. Tính chủ động và tính tự chịu trách nhiệm của đơn vị cơ sở phải được kết hợp chặt chẽ với sự chỉ đạo củacác cơ quanquản lý cấp trên.
b) Trong mọi hoạt động kinh tế nhất là trong việc thực hiện kế hoạch Nhà nước thì giữa ngànhvới ngành, cấp vớicấp và giữa ngành và cấpvới nhau đều có sự quan hệ mật thiếttrên các mặt sản xuất, xây dựng, vận chuyển, cung cáp tiêu thụ ... Mối quan hệ này được thể hiện bằng các loại văn bản chỉ đạo ký kết giữa các cơ quanquản lý với nhau và các văn bản nàyphải bảo đảmđề cao tinh thần trách nhiệmvà tăng cường sự hợp tác giưã các ngành, các cấp. Do đó từ naygiữa các cơ quanquản lý với nhau không ký những hợp đồng nguyên tắc như trước đây, nhưng như thếkhôngcó nghĩa là giảm bớt hoặc làm lỏng lẻo mối quan hệ phải có giữa các cơ quanquản lý mà ngược lại chính là xác định rõ thêm trách nhiệm của các cơ quan này trong việc chấp hành chế độ hợp đồng kinh tếvà trong việc chỉ đạo các đơn vị kinh tế cơ sở.
Chỉ thị số 235-TTg ngày 23-6-1975 của Thủ tướng Chính phủ về việc tổ chức xây dựng kế hoạch Nhà nước năm 1976 đãquy định: "Các Bộ, Tổng cục, Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phố cần thông báo với nhau về những chỉ tiêu có liên quan, phối hợpchỉ đạo các đơn vị cơ sở triển khai việc ký kết các hợp đồng kinh tếngay từ khi nhận được số kiểm tra để làm căn cứ xác định các chỉ tiêu kế hoạch sát với yêu cầuvà khả năng thực tế" Điều 6 của bản điều lệ cũng ghi rõ là khi phân bổ số kiểm tra và chỉ tiêu kế hoạch, các Bộ, Tổng cục, Uỷ ban hành chínhtỉnh, thành phố phải chủ động và kịp thời thông báo những phần cần thiết cho các cơ quan có liên quan biết.
Thông báo phải ghi rõ những đơn vị nào phải ký kết hợp đồng kinh tế, cácquy định làm căn cứ cho các đơn vị đó tiến hành ký kết. Chỉ tiêu phân bố, khi tổng hợp lại, không được thấp hơn chỉ tiêu pháp lệnh cuả Nhà nước giao. Nếu là chỉ tiêu giao chung cho nhiều đơn vị kinh tế cơ sở thì thông báo phải ghi rõ phần của từng đơn vịphải thực hiện.
Khi nhận được thông báo mà thấy có điểm chưa nhát trí hoặc khi các đơn vị cơ sở phát hiện các mắc mưu mà bản thân đơn vị không giải quyết được thì cáccơ quanquản lý đồng cấp phải cùng nhau bàn bạc để thống nhất ý kiếnchỉ đạo các đơn vị cơ sở thực hiện bằng các văn bản chỉ đạo.
Không thông báo kịp thời và đẩy đủ, không bàn bạc đến nơi đến chôn để giải quyết các mắc mứu khó khăn cho đơn vị cơ sởhoặc trong chỉ đạo của mình có điều gì thiếu soát gây thiệt hại cho cơ sở trong việc ký két và thực hiện hợp đồng kinh tế thì các cơ quanquản lý cấp trên phải chịu trách nhiệm.
3- Trách nhiệm của cơ quanquản lýchức năng
Các cơ quanquản lý chức năng (kế hoạch, tài chính, ngân hàng, giá cả0 là những cơ quan tổng hợp có quan hệ rất mật thiết đến việc ký kết và thực hiện hợp đồngkinh tế và xét xử các vụ tranh chấp hoặc vi phạm hợp đồng, vì vậy các cơ quan này đều có đại biểu là thành viên cuả Hội đồng trọng tài kinh tế.
Việc xét duyệt giá, việc giải quyết các mắc mứu về chỉ tiêu kế hoạch, việc cho vay, cấp phát vốn là rất cần thiết để thúc đẩy việc ký kết nhanh gọn, thực hiện đầy đủ và thanh lý sòng phẳng các hợp đồng kinh tế.
Trong khâu ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế nếu các bên ký kết họp bàn về những vấn đề có liên quan đến chỉ tiêu kế hoạch, giá cả, tài chính, ngân hàng thì các cơ quanquản lý chức năng cầncử cán bộ đến dự để hướng dẫn giúp đỡ về mặt nghiệp vụ nhằm kịp thời giải quyết các vấn đề đó, hạn chế các vụ khiếu nại đến cơ quan trọng tài kinh tế. Trường hợp Hội đồng trọng tài kinh tế tiến hành xét xử các vụ tranh chấp hoặc vi phạm hợp đồng kinh tế, các cơ quanquản lý chức năng có trách nhiệmđể xuấtý kiếnđể giải quyếtnhững vấn đề có liên quan đến ngành mình đồng thời hướng dẫn, đôn đốc các đơn vị trong ngành chấp hành các quyết định xét xử của Hội đồng trọngtài kinh tế.
4- Trách nhiệm của cơ quan trọng tài kinh tế các ngành, các cấp.
Trách nhiệm của Hội đồng trọng tài kinh tế các ngành, các cấp đã đượcquy định rõ trongbản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế, điều lệ về tổ chức và hoạt động của Hội đồng trọng tài kinh tếNhà nước (ban hành kèm theo Nghị định số 75/C P của Hội đồng Chính phủngày 14-4-1975) và bản hướng dẫnxây dựng điều lệ về tổ chứcvà hoạt động của Hội đồng trọng tài kinh tếcác ngành, các cấp (công văn số 341-HĐ ngày 7-5-1975 của Hội đồng trọng tài kinh tế.
Tổ chức và hoạt động của Hội đồng trọng tài kinh tế mỗi ngành, mỗi cấp là theo nguyên tắcquản lýtheo ngành và theo cấp, do đó Hội đồng trọng tài kinh tế các Bộ, Tổng cục, tỉnh, thành phốchỉ thanh tra việc trì hoãn ký kết hợp đồng kinh tế và xét xửcác vụ tranh chấphoặc vi phạm hợpkinh tếtrong phạm vi nội bộ, Tổng cục, một địa phương. Thanh tra việc trì hoãn ký kết giữa các đơn vị không thuộc một ngành, một địa phương hay xét xử các vụ tranh chấp hoặc vi phạm hợp đồng giữa các đơn vị không thuộc một ngành, một địa phương đó là thuộc trách nhiệm của Hội đồng trọng tàikinh tế Nhà nước.
Để đảm bảo cho việc xét xử được tiến hành khẩn trương và kịp thờiđối với những vụ tranh chấp hoặc vi phạm hợp đồng kinh tếcó liên quan đến các hợp tác xã, các tổ sản xuất thì hợp đồng kinh tếNhà nước thường xuyênuỷ quyền cho các Hợp đồng kinh tế địa phương xét xử như sau:
a) Các vụ tranh chấp hoặc vi phạm giữa một bên là hợp tác xã, tổ sản xuấtvới một bên là các xí nghiệp quốc doanh cơ quan Nhà nước trực thuộc trung ương, các đơn vị bộ đội đóng cùng trong mộtđịa phương với hợp tác xã, tổ sản xuấtđó hoặc đóng ở một địa phương khác thì hợp đồng kinh tếđịa phương nơi có hợp đồng kinh tế xét xử.
b) Các vụtranh chấp hoặc vi phạm giữa hai hợp tác xã, tổ sản xuấtthuộc hai địa phương khác nhauquản lý thì Hội đồng trọng tài kinh tếđịa phương của bên bị khiếu nại xét xử.
Đối với những vụ tranh chấp hoặc vi phạm không thuộc một ngành,một địa phương hay giữa trung ương và địa phương, thì các đương sự phải gửi đơn khiếu nại đến Hội đồng trọng tài kinh tế Nhà nước, Hội đồng trọng tài kinh tế Nhà nướcnghiên cứu và nếu thấy sự việc không lớn, nội dung không quan trọng sẽ tuỳ tính hình cụ thể của từng vụ mà uỷ quyền cho Hội đồng trọng tài kinh tế một địa phươngxét xử.
Trong các trườnghợpuỷ quyềnxét xử như trên nếu các đương sự không tán thành quyết định xét xử của Hội đồng trọng tài kinh tếđịa phương thìcó quyền kháng cáo lên Chủ tịch Hội đồng trọng tài kinh tếNhà nước xét xử lại.
Khi xét xử, Hội đồng trọng tài kinh tếcác ngành, các cấp chỉ triệu tập các đương sự, các cơ quanquản lý chức năng, các đại diện của cácư cơ quan, tổ chứckhác có liên quan và mời một số cán bộ có năng lựcnắm vữngvấn đề đến tham dự xét xử bằng hình thức liên tịch giữa hai Hội đồng trọng tài kinh tếtừ nay bãi bỏ.
III- MỘT SỐ ĐIỂM CẦN ĐƯỢC CHÚ Ý TRONG BẢN ĐIỀU LỆ
1- Tư cách pháp nhân của các bên ký kết hợp đồng kinh tế
Điều 2 của bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tếđã xác định rõ các đơn vị, tổ chức, cơ quan tham giaký kết hợp đồng kinh tế . Đó là những đơn vị có đủ tư cách pháp nhân được Nhà nước thành lập hoặc thừa nhận, có tài sản riêng và có trách nhiệm độc lập về tài sản đó, có tài khoản ở ngân hàng. Các tổ chức xã hội có đủ tư cách pháp nhân phải là những tổ chức được Nhà nướccông nhận và cũng có tài khoản ở Ngân hàng.
Như thế là những hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các đơn vị có đủ tư cách pháp nhân, khi có tranh chấp đều do Hội đồng trọng tài kinh tế xét xử, trái lại những hợp đồng được ký kếtgiữa các đơn vị không có đủ các điều kiệnnêu trên thì vẫn có gía trị pháp lý nhưng khi có tranh chấp thì không thuộc thẩm quyềnxét xử của Hội đồng trọng tài kinh tế các ngành, các cấp.
2- Miễn ký kết hợp đồng kinh tế
Chỉ được miễn ký kết hợp đồng kinh tế trong các trường hợp sau đây:
a) Khi phải thi hành lệnh đặc biệt và khẩn cấp bằng văn bản như đã nói trong bản điều lệ. Có nghĩalà những lệnh có tính chất khẩn trương, đòi hỏi phải thi hành ngay, nếu để chậm trễ sẽ có ảnh hưởng đến tính mệnh và tài sản cuả nhân dân, gây thiệt hại lớn cho nhiệm vụ quân sự, chính trị và kinh tế của Đảng và Nhà nước . Các lệnh đó phải rất hạn chế và phải có văn bản (nếu ra lệnh bằng miệng thì phải có văn bản xác nhận sau).
Cơ quan có thẩm quyền ra lệnh phải cân nhắc kỹ lưỡng, suy tính lợi hại,quy định những nguyên tắc, điều kiện thi hành, chỉ định những nguyên tắc, điều kiện thi hành, chỉ định những đơn vị thực hiện và thanh toán, đồng thời phải lường trước những mắc mứu, khó khăn có thể gây racho các đơn vị khác do tác động dây chuyền của việc thi hành lệnh để có biện pháp giải quyết.
b) Đối với những hoạt động kinh tế có tính chất đặc biệt được Hội đồng Chính phủcho phép (quan hệ kinh tế có liên quan đến các nhiệm vụ chính trị và quốc phòng hoặc có liên quan đến cácbí mật quốc gia).
c) Đối với những giao dịch nhất thời, đột xuất thực hiện và thanh toán xong trong một lần, tức là những việc không thường xuyên lặp đi lặp lại, khôngcó kế hoạch hoặc dự định trước, giao nhận nhanh gọn, đã có quy tắc rõ ràng, trách nhiệm của các bên hữu quan đã được xác định cụ thể.
Việc miễn ký kết hợp đồng kinh tếchỉ được áp dụng vào 3 trường hợp nói trên, không được lợi dụngcác trường hợp đó để dễ làm ăn tuỳ tiện, lẩn trốn trách nhiệm.
Cả 3 trường hợp được miễnký kết hợp đồng kinh tế, khi có tranh chấp,. vẫn được xét xử theo chế độ, thể lệ hiện hành và bản điều lệvề chế độ hợp đồng kinh tế.
3- Giá trị pháp lý của hợp đồngkinh tếký kết khi có số kiểm tra. phải ký kết hợp đồng kinh tếngay từ khi có số kiểm tra là để gắn liền kếhoạch với thị trường, lấy đó làm căn cứ để xác dịnh các chỉ tiêu kế hoạch sát vớiyêu cầu và khả năng thực tế. Nó còn có tác dụng làm chocác bên ký kết có thể tiến hành sản xuấtkinh doanh ngay từ tháng đầu, quýđầu của năm kế hoạch,khắc phục tình trạng chờ đợi ký kết hợp đồng kinh tếthường xảy ra từ trước đến nay.
Hợp đồng kinh tế được ký kếtt sau khi có số kiểm tra là hợp đồng chính thức. Khi chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước được ban hành, các hợp đồng đó sẽ được điều chỉnh hoặcđược bổ sung theo chỉ tiêu kế hoạch sửa đổi những điểm cụ thể hay cụ thể hoá thêm cho rõ ràng đầy đủ.
Căn cứ vào hợp đồng đã được ký kết, các bên ký kết xúc tiến ngay việc chuản bị thực hiện, không phải chờđến khi có kế hoạch chính thức. Khi bắt đầu năm kế hoạch mà chưa có kế hoạch chính thức thì các hợp đồng được ký kết trước sẽ có giá trị pháp lý cho đến khi có kế hoạch chính thức. Trong phạm vi nông nghiệp phải sản xuất theo đúng thời vụ, nên các hợp đồngkinh tế phảiđược ký kết tước thời vụ sản xuất và có giá trị thực hiện ngay.
4- Từ chối trì hoãn ký kết hợp đồng kinh tế
Ký kết hợp đồng kinh tế là một kỷ luật bắt buộc. Khi một bên đã trực tiếp thương lượng với bên kia mà bên kia chính thức trả lời không ký hoặc để quá kỳ hạnquy định cho việc ký kếthợp đồng đã có đầy đủ điều kiện, kể cảđã có sự chỉ đạo thống nhất của 2 cơ quanquản lý cấp trên mà vẫnkhông chịu tiến hành ký kết hợp đồng thì bị coi là từ chối ký kết hợp đồng kinh tế . Lảng tránh ký kết, giữ im lặngkhông trả lời những đề nghị ký kết, lần lữa, kéo dài kỳ hạn ký kết màkhôngcó lý do chính đáng thì gọi là trì hoãn ký kết.
Từ chối, trì hoãn kýkết hợp đồng kinh tếcũng như ký thấp hơn chỉ tiêu pháp lệnh, ký kéo dài kỳ hạn thực hiện chỉ tiêu kế hoạchvi phạm các hợpđồngkinh tếđược ký kết,đều bị Hội đồng trọng tài kinh tếxét xử.
Khi xảy ra từ chối, trì hoãn ký kết hợp đồng kinh tế, nếu bên đề nghị đã cố gắng thuyết phục, thương lượng với bên kia và các cơ quanquản lý có thẩm quyền đã có quyết định giải quyếtmà không có kết quảthì bên bị từ chối, trì hoãn ký kết phải khiếu nại đến Hội đồng trọng tài kinh tế.
5- Nội dung các hợp đồng kinh tế
Hợp đồng kinh tếlà một văn bản pháp lý nên nội dung hợp đồng phải hết sức rõ ràng, cụ thể, chính xác. Đó là những căn cứ để thực hiện hợp đồng kinh tế đồng thời cũng là cơ sở để xác định trách nhiệm khi xảy ra vụ vi phạm. Cụ thể và chính xác có nghĩa là làm sao để cùng một câu, một ý mà các bên ký kết đều cómột quan điểm thống nhất, tránh được tình trạng mỗi bên giải thích một cách có lợi cho mình nhưng lại làm thiệt hại cho bên cùng ký kết. ngoài ra, nội dung này còn phải được hai bên bàn bạc dân chủ, thành thật trao đổi thông cảm lẫn nhau trên tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa, lường trước các khó khăn để có biện phápgiải quyết, chứ không bên nào được lợi dụng ưu thế của mình để bắt buộcbên cùng ký kết chấpnhận những điều kiện không thoả đáng. Điều 10 của điều lệquy định nội dung hợp đồng không được in sẵn cũng là để đảm bảo tinh thần trên.
Nội dung không được in sẵn nghĩa là không được in sẵn những điều khoản mà hai bên cần có sự bàn bạc chứ không có nghĩa là không được in sẵn các tiêu đề, các mẫu hợp đồng, các công việc giao dịch có tính chất ổn định, các biện pháp thực hiện thường xuyên không có thay đổi.
Những hợp đồng không ghi các điểmquy định ở mục a, b, của Điều 11 bản điều lệ, không ghi số lượng, chất lượng, giá cả (giá đơn vị và tổng giá trị) phương thức thanh toán đều coi là không hợp lệ.
Thủ trưởng đơn vị ký kết có trách nhiệm ký vào bản hợp đồng kinh tế. Thủ trưởng đơn vị có thể uỷ quyền cho người khác ký thay nhưng giấy uỷ quyền phải do thủ trưởng trực tiếp ký, không ai được ký thay thế.
Trong hợp đồng kinh tế, ngoài chữ ký của thủ trưởng của các bên ký kết (hoặc người được uỷ quyền) còn phải có chữ ký của kế toán trưởng với nhiệm vụđảm bảovốn để thanh toán và trả phạt, trả bồi thường. Chữ ký của kế toán trưởngbảo đảm hợp đồng đã được kiểm tra kỹ lưỡng, nó gắn liền kế toán trưởng với thủ trưỏng trong việc chịu trách nhiệm về mặt vật chất và hiệu lực của hợp đồng.
Đối với cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế chưa có kế toán trưởng thì trưởng phòng tài vụ phải ký vàohợp đồng. Những hợp đồng kinh tếcủa các đơn vị bộ đội, đơn vị công an vũ trang cũng phải có chữ ký của người phụ tráchtài vụ cuả đơn vị theo quy định phân cấp của Bộ Quốc phòng và của Bộ tư lệnh công an nhân dân.
6-Phạt và bồi thường
Điều 19 của bản điều lệ đãquy định tiền phạt thì trích ở quỹ phúc lợi và nộp vào ngân sách Nhà nước, còn tiềnbồi thường thì hạch toán vào chi phíquản lý xí nghiệp.
Quy định trên áp dụng đối với các đơn vị hạch toánkinh tế khu vực quốc doanh còn đối với khu vực kinh tế tập thể thì sẽ có văn bản riêng.
Trong khi chờ đợi văn bản này được ban hành, mỗi khi xét xử một vụtranh chấpcó liên quan đến một bên là xí nghiệpquốc doanh, một bên là hợp tác xã hoặc tổ sản xuất, thì đối với xí nghiệp quốc doanh nhất thiết phải áp dụngđiều 19 nói trên còn đối với hợp tác xã, tổ sản xuấtthì Hội đồng trọng tài kinh tế địa phương xin ý kiếnUỷ ban hành chínhtỉnh quyết định trích ở quỹ nào. Hướng giải quyết này cũng áp dụngcả với vụ tranh chấp hoặc vi phạm giữa các hợp tác xãcó ký kết hợp đồng kinh tếvới nhau.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN BẢN ĐIỀU LỆ VỀ
CHẾ ĐỘ HỢP ĐỒNG KINH TẾ
Trên đây là một số điểm hướng dẫn thực hiện bản điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế. Những phần có liên quan đến công tác kế hoạch hoá, tài chính, ngân hàng, giá cả sẽ có các Thông tưliên bộ giải thích thêm. Hội đồng trọng tài kinh tế Nhà nước yêu cầu các Bộ, Tổng cục, các Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phố và Hội đồng trọng tài kinh tế các ngành, các cấp kịp thời phổ biến đến tận cơ sở thuộc mìnhquản lý để mọi người quán triệt đầy đủ tinh thần và nội dung của bản điều lệ. Điều lệ không chỉ đề cập đến những đường lối màxác định nhiều biện pháp thực hiện, góp phầncải tiến công tácquản lýkinh tế, cải tiến công tác kế hoạch hoá, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thiết thực phục vụ cho kế hoạch Nhà nước năm 1975 và kế hoạch dài hạn 5 năm tới.
Việc chấp hành bản điều lệ này đòi hỏi vừa phải kết hợp vận dụng đường lối chính sách một cách sáng tạo trong hoàn cảnh nền kinh tế của ta còn nhiều khó khăn, vừa phải đấu tranh khắc phục phương thứcquản lý hành chính, cung cáp, xoá bỏ tư tưởng cục bộ, bản vị, gia đình chủ nghĩa.
Đây là một bản điều lệ vận dụng cho một thời gian dài màtrước mắt việc chấp hành có thể có những trở ngại nhất định,. Hội đồng trọng tài kinh tếNhà nước đề nghị thủ trưởng các ngành, các cấp và yêu cầu Hội đồng trọng tài kinh tế Bộ, Tổng cục, Tỉnh, thành phố cứ mạnh dạnh vừa làm vừa rút kinh nghiệm, nếu có mắc mứu xin kịp thời phản ánh về Hội đồng trọng tài kinh tế Nhà nước giải quyết hoặc trình Chính phủ bổ sung điều lệ.
Đối với các vụ tranh chấp có liên quan đến các hợp đồng kinh tế được ký kết trong các năm trước thì vẫn phải vận dụng điều lệ này nhưng có chiếu cố đến tình hình cụ thể trước đây. Vì bản điều lệ có hiệu lực thi hành kể từ ngày được ban hành nên trong việc chuẩn bị cho kế hoạch năm 1976 tới đây, nhất thiếtphải chấp hành điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tếnày một cách nghiêm chỉnh.
Bạn chưa Đăng nhập thành viên.
Đây là tiện ích dành cho tài khoản thành viên. Vui lòng Đăng nhập để xem chi tiết. Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
Bạn chưa Đăng nhập thành viên.
Đây là tiện ích dành cho tài khoản thành viên. Vui lòng Đăng nhập để xem chi tiết. Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!