Chỉ thị về tăng cường công tác quản lý, bảo vệ than
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- Tiếng Anh
- Hiệu lực
- VB liên quan
- Lược đồ
- Nội dung MIX
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
- Tải về
Đây là tiện ích dành cho thành viên đăng ký phần mềm.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản LuatVietnam và đăng ký sử dụng Phần mềm tra cứu văn bản.
thuộc tính Chỉ thị 262-CT
Cơ quan ban hành: | Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng | Số công báo: Số công báo là mã số ấn phẩm được đăng chính thức trên ấn phẩm thông tin của Nhà nước. Mã số này do Chính phủ thống nhất quản lý. | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 262-CT | Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Chỉ thị | Người ký: | Nguyễn Khánh |
Ngày ban hành: Ngày ban hành là ngày, tháng, năm văn bản được thông qua hoặc ký ban hành. | 10/10/1988 | Ngày hết hiệu lực: Ngày hết hiệu lực là ngày, tháng, năm văn bản chính thức không còn hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật |
Áp dụng: Ngày áp dụng là ngày, tháng, năm văn bản chính thức có hiệu lực (áp dụng). | Đang cập nhật | Tình trạng hiệu lực: Cho biết trạng thái hiệu lực của văn bản đang tra cứu: Chưa áp dụng, Còn hiệu lực, Hết hiệu lực, Hết hiệu lực 1 phần; Đã sửa đổi, Đính chính hay Không còn phù hợp,... | Đã biết Văn bản này đã biết Tình trạng hiệu lực. Chỉ có thành viên đăng ký gói dịch vụ mới có thể xem các thông tin này. Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Lĩnh vực: |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Chỉ thị 262-CT
Nếu chưa có tài khoản, vui lòng Đăng ký tại đây!
CHỈ THỊ
CỦA CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 262-CT
NGÀY 10-10-1988 VỀ TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ,
BẢO VỆ THAN
Than của nước ta không nhiều, nhưng trong thời gian vừa qua, việc quản lý, lưu thông và sử dụng chưa hợp lý nên không phát huy được tối đa hiệu quả của số than đựơc sản xuất ra. Bên cạnh đó, một lượng than khá lớn bị tổn thất khá lớn do tình trạng ăn cắp phổ biến dưới nhiều hình thức như than bị ăn cắp trong quá trình vận chuyển, tại các nhà ga, cảng rót than và gần đây có tình trạng kẻ cắp ngang nhiên vào các kho than để lấy than nhưng không được ngăn chặn kịp thời. ở một số địa phương, nhất là trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, nhiều tổ chức không có chức năng kinh doanh than và một số cá nhân dưới danh nghĩa đại lý cho các xã, phường, thị trấn, thị xã cũng đứng ra thu mua than để buôn bán kiếm lời, giá cả thu mua không thống nhất gây nên tình trạng tranh mua, tranh bán và phát sinh hiện tượng ăn cắp than của Nhà nước để bán.
Để dần dần lập lại trật tự trong việc quản lý, lưu thông và tiêu thụ than, trước hết trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, Bắc Thái, nhằm sử dụng hợp lý và bảo vệ tốt nguồn than, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng yêu cầu các ngành, địa phương tổ chức thực hiện một số việc sau đây:
1. Về khai thác. Bộ Năng lượng, Tổng Cục mỏ và Địa chất, Uỷ ban nhân dân các tỉnh có liên quan phải báo cáo kiểm điểm việc thực hiện Chỉ thị số 233-CT ngày 6-8-1987 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Báo cáo và các kiến nghị về việc này phải gửi về Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng trước ngày 15 tháng 10 năm 1988. Bộ Năng lượng khẩn chương xây dựng Điều lệ quản lý và khai thác các mỏ than nhỏ, lộ vỉa trong phạm vi cả nước để trình Hội đồng Bộ trưởng duyệt và ban hành.
2. Từ nay trở đi, tất cả các nguồn than khai thác ra hoặc thu hồi (kể cả nguồn do Bộ Năng lượng và các ngành, địa phương khai thác) đều phải được Nhà nước thống nhất quản lý để cân đối theo kế hoạch. Tổng Công ty cung ứng than thuộc Bộ Năng lượng có trách nhiệm bao tiêu toàn bộ số than này để cung ứng theo kế hoạch của Nhà nước và nhu cầu xã hội.
Trên phạm vi toàn quốc, nhất là ở các tỉnh Quảng Ninh và Bắc Thái, ngoài Bộ Năng lượng, chỉ các đơn vị có đăng ký và được giao kế hoạch khai thác than mới được phép tiêu thụ than nhưng phải bảo đảm nhiệm vụ cung ứng than theo kế hoạch được giao, theo đúng giá cả và địa chỉ quy định của Nhà nước và Bộ Năng lượng. Đơn vị khai thác nào cần giữ lại sản phẩm để sử dụng (kể cả theo kế hoạch hoặc thêm ngoài kế hoạch) cần phải đăng ký trước; các ngành không có chức năng kinh doanh than tuyệt đối không được mua bán than trái phép.
Giao Bộ Năng lượng thay mặt Hội đồng Bộ trưởng xem xét và duyệt các nhu cầu này.
3. Bộ Năng lượng, các ngành, các địa phương có liên quan kiểm tra và tổ chức lại toàn bộ lực lượng khai thác than của mình cho hợp lý và chấn chỉnh việc tiêu thụ than theo đúng quy định ở điểm 2. Đình chỉ ngay việc tổ chức đại lý thu mua than ở các xã, phường, thị trấn, thị xã...
4. Bộ Năng lượng chỉ đạo củng cố lực lượng bảo vệ ở từng công ty, xí nghiệp để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ than và vật tư. Bàn với Bộ Nội vụ để hỗ trợ cho những nơi thiếu lực lượng bảo vệ. Quy hoạch và sắp xếp lại hệ thống kho tàng, bến bãi để tạo thuận lợi cho công tác bảo vệ.
5. Bộ Giao thông vận tải chỉ đạo Tổng Cục đường sắt, các đơn vị vận tải sông, vận tải biển tìm biện pháp bảo đảm an toàn trong vận chuyển than, không được để mất than trên phương tiện của mình cũng như ở các ga, bến cảng.
Bộ Năng lượng phối hợp với Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước và các cơ quan liên quan định kỳ kiểm tra để bảo đảm độ chính xác của các phương tiện đo lường trong giao nhận than. Quy định tỷ lệ hao hụt cho phép trong quá trình giao nhận, vận chuyển than.
6. Bộ Năng lượng phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng và các Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Bắc Thái và các tỉnh từ Thanh Hoá trở ra có biện pháp tăng cường khẩn cấp công tác bảo vệ vận chuyển than, kiên quyết truy quét bọn tội phạm ăn cắp than trên các tuyến đường vận chuyển, tổ chức kiểm tra, truy quét các tụ điểm mua bán than trái phép, tịch thu toàn bộ số than ăn cắp hoặc tiêu thụ trái phép. Cần khen thưởng thích đáng những tập thể và cá nhân có nhiều thành tích trong việc bảo vệ than; mức độ khen thưởng do Bộ Năng lượng cùng các cơ quan liên quan quyết định.
Bảo vệ than là công việc rất cấp bách hiện nay và lâu dài, Hội đồng Bộ trưởng yêu cầu các Bộ, Tổng Cục và Uỷ ban nhân dân các địa phương khẩn trương tổ chức thực hiện các nhiệm vụ nêu trên. Cuối tháng 11 năm 1988 phải báo cáo với Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kết quả triển khai công việc theo nội dung Chỉ thị này.