Chỉ thị 03/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý nhà nước đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài

thuộc tính Chỉ thị 03/2005/CT-TTg

Chỉ thị 03/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý nhà nước đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài
Cơ quan ban hành: Thủ tướng Chính phủ
Số công báo:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Số hiệu:03/2005/CT-TTg
Ngày đăng công báo:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Loại văn bản:Chỉ thị
Người ký:Phạm Gia Khiêm
Ngày ban hành:25/02/2005
Ngày hết hiệu lực:Đang cập nhật
Áp dụng:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản để xem Ngày áp dụng. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Tình trạng hiệu lực:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Lĩnh vực: Tư pháp-Hộ tịch

TÓM TẮT VĂN BẢN

* Hôn nhân có yếu tố nước ngoài - Ngày 25/02/2005, Tủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 03/2005/CT-TTg về tăng cường quản lý nhà nước đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Chính phủ yêu cầu tăng cường thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời tổ chức, cá nhân sai phạm, chấm dứt ngay tình trạng môi giới kết hôn bất hợp pháp, làm lành mạnh hoá các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, bảo đảm thực hiện nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững, tôn trọng, giữ gìn những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc VN, bảo vệ uy tín của dân tộc VN và Nhà nước VN trong quan hệ quốc tế... Đối với những trường hợp có dấu hiệu cấu thành tội phạm, kiên quyết khởi tố để xử lý về hình sự. Từ nay đến cuối quý II - 2005, chỉ đạo cơ quan công an một số tỉnh, thành phố trọng điểm mở đợt cao điểm rà soát, xoá bỏ các tụ điểm giới thiệu cho người nước ngoài xem mặt phụ nữ VN muốn kết hôn với người nước ngoài, theo dõi, phát hiện và khẩn trương đưa ra xử lý... những trường hợp môi giới kết hôn bất hợp pháp...

Xem chi tiết Chỉ thị03/2005/CT-TTg tại đây

tải Chỉ thị 03/2005/CT-TTg

LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết

CHỈ THỊ

CỦA THỦ TƯƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 03/2005/CT-TTG
NGÀY 25 THÁNG 02 NĂM 2005 VỀ TĂNG CƯƯỜNG QUẢN LÝ NHÀ NƯƯỚC ĐỐI VỚI QUAN HỆ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI

 

Ngày 10 tháng 7 năm 2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 68/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nưước ngoài. Qua hơn hai năm triển khai thực hiện Nghị định, việc xác lập quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nưước ngoài đã có nhiều chuyển biến tích cực so với trước đây, phù hợp với bối cảnh mở rộng quan hệ giữa nước ta với nước ngoài.

Tuy nhiên, việc kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với ngưười nước ngoài vẫn còn một số tồn tại sau đây:

một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nhiều trưường hợp kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài, đặc biệt với người Đài Loan, đã được tiến hành một cách vội vã, không bảo đảm nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; hoặc, phụ nữ Việt Nam vượt biên trái phép sang chung sống như vợ chồng với công dân nước láng giềng mà không đăng ký kết hôn.

Hoạt động kinh doanh môi giới kết hôn nhằm mục đích trục lợi của một số tổ chức, cá nhân diễn ra dưới nhiều hình thức trá hình, tinh vi, gây mất trật tự xã hội. Nhiều trưường hợp môi giới kết hôn đã làm hạ thấp danh dự, nhân phẩm của phụ nữ Việt Nam, xâm phạm nghiêm trọng thuần phong, mỹ tục của dân tộc, làm ảnh hưởng đến uy tín quốc gia.

Phần lớn phụ nữ Việt Nam trưước khi ra nước ngoài sinh sống cùng chồng chưa được tư vấn đầy đủ để có những hiểu biết cần thiết về pháp luật, ngôn ngữ, phong tục, tập quán của nước sở tại; do đó, đã gặp nhiều khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng và ổn định cuộc sống ở nước ngoài. Một số phụ nữ Việt Nam sau khi ra nước ngoài bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh nhưng chưưa được pháp luật nước sở tại bảo vệ kịp thời.

Thực trạng nêu trên xảy ra do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do công tác quản lý nhà nước đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài chưa được thực hiện tốt, việc xử lý những vi phạm, tiêu cực trong lĩnh vực này chưa nghiêm, chưa kịp thời.

Để khắc phục tình trạng này, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị:

1. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp cần nhận thức sâu sắc rằng tình hình phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài là một vấn đề liên quan đến nhiều mặt của đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, trật tự xã hội, đối ngoại. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan nói trên cần tăng cường thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài; phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan và địa phương có liên quan để có biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời tổ chức, cá nhân sai phạm, chấm dứt ngay tình trạng môi giới kết hôn bất hợp pháp, làm lành mạnh hoá các quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, bảo đảm thực hiện nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững; tôn trọng, giữ gìn những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, góp phần bảo vệ uy tín của dân tộc Việt Nam và của Nhà nước Việt Nam trong quan hệ quốc tế.

2. Bộ Tưư pháp có trách nhiệm:

a) Tăng cường hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra, thanh tra các địa phương trong việc thụ lý, giải quyết các hồ sơ đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; kịp thời chấn chỉnh những lệch lạc, tiêu cực trong công tác này. Chỉ đạo các Sở Tư pháp thực hiện nghiêm túc quy định không chấp nhận việc nộp hồ sơ đăng ký kết hôn qua người thứ ba; quy định xác minh, phỏng vấn các bên đương sự trong trường hợp nghi vấn hoặc có khiếu nại, tố cáo đương sự kết hôn giả tạo, lợi dụng việc kết hôn nhằm mục đích mua bán phụ nữ, kết hôn vì mục đích trục lợi khác hoặc xét thấy có vấn đề cần làm rõ về nhân thân của đương sự hoặc giấy tờ trong hồ sơ đăng ký kết hôn, góp phần loại trừ những trường hợp kết hôn không bảo đảm nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.

b) Chủ trì, phối hợp với Bộ Ngoại giao và các cơ quan có liên quan xác lập cơ chế thông tin về tình hình sinh sống của công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và đang sinh sống ở nước ngoài; khẩn trương nghiên cứu, đề xuất việc đàm phán, ký kết thỏa thuận với các nước hữu quan để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và đang sinh sống ở nước ngoài trên các phương diện quốc tịch, cư trú, hôn nhân và gia đình, tài sản... phù hợp với pháp luật của Việt Nam, pháp luật nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế.

c) Chỉ đạo việc đăng ký khai sinh và tháo gỡ những vướng mắc về hộ tịch cho trẻ em là con chung của phụ nữ Việt Nam và người nước ngoài khi theo mẹ về cư trú ở trong nước.

d) Tổ chức biên soạn các tài liệu tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, tài liệu hướng dẫn, tư vấn các vấn đề về hộ tịch, quốc tịch của Việt Nam và nước ngoài nhằm giúp cho các bên kết hôn nhận thức đúng và thực hiện đúng quy định của pháp luật.

đ) Chủ trì, phối hợp với Bộ Văn hoá - Thông tin, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam chỉ đạo việc tuyên truyền, phổ biến sâu rộng pháp luật về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, góp phần tạo chuyển biến cơ bản trong nhận thức của nhân dân về vấn đề này.

e) Tăng cường năng lực của đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác quốc tịch, bảo đảm điều kiện cần thiết để giải quyết kịp thời các yêu cầu xin thôi quốc tịch Việt Nam của công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài.

3. Bộ Công an có trách nhiệm:

Chỉ đạo cơ quan công an các cấp tiến hành các biện pháp nghiệp vụ cần thiết và thông qua quan hệ hợp tác, phối hợp với cảnh sát quốc tế để phát hiện và xử lý nghiêm khắc các tổ chức, cá nhân có hoạt động môi giới kết hôn bất hợp pháp. Đối với những trường hợp có dấu hiệu cấu thành tội phạm, kiên quyết khởi tố để xử lý về hình sự.

Từ nay đến cuối quý II năm 2005, chỉ đạo cơ quan công an một số tỉnh, thành phố trọng điểm mở đợt cao điểm rà soát, xóa bỏ các tụ điểm giới thiệu cho người nước ngoài xem mặt phụ nữ Việt Nam muốn kết hôn với người nước ngoài; theo dõi, phát hiện và khẩn trương đưa ra xử lý những trường hợp môi giới kết hôn bất hợp pháp.

4. Bộ Ngoại giao có trách nhiệm:

 

a) Chỉ đạo các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài nắm chắc tình hình về cuộc sống mọi mặt của cộng đồng phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và đang sinh sống ở nước ngoài; phối hợp với các cơ quan, tổ chức hữu quan của nước sở tại hướng dẫn những phụ nữ này thành lập các tổ chức, hiệp hội thích hợp nhằm giúp đỡ họ trong việc hòa nhập với cộng đồng nơi họ đang sinh sống, đồng thời giúp họ giữ mối liên hệ thường xuyên với Tổ quốc, với gia đình ở Việt Nam.

b) Tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài tăng cường thực hiện các biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật nước sở tại và điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập; kịp thời có biện pháp bảo vệ và hỗ trợ những phụ nữ này nếu bị rơi vào hoàn cảnh bất hạnh.

5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư có trách nhiệm:

Chỉ đạo các địa phương tiến hành việc kiểm tra, phát hiện, xử lý những doanh nghiệp vi phạm quy định cấm kinh doanh dịch vụ môi giới hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo quy định tại Nghị định số 125/2004/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2004 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 03/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2000 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp.

6. Bộ Văn hoá - Thông tin có trách nhiệm:

Chỉ đạo định hưướng thông tin báo chí về tình hình phụ nữ Việt Nam kết hôn với ngưười nước ngoài, nhất là với người Đài Loan và người Hàn Quốc, nhằm bảo đảm thông tin chính xác, khách quan, toàn diện, không nên đăng tải thông tin một chiều; đồng thời, phát huy hơn nữa vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc đấu tranh chống tiêu cực, tham gia phát hiện kịp thời những vi phạm trong công tác giải quyết việc đăng ký kết hôn giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài.

7. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm:

a) Tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trên địa bàn tỉnh, thành phố; kiên quyết xóa bỏ các hoạt động môi giới kết hôn bất hợp pháp, chấm dứt tình trạng kết hôn vi phạm nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, vi phạm truyền thống văn hoá và phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh phải chịu trách nhiệm nếu để xảy ra hoạt động môi giới kết hôn bất hợp pháp tại địa phương.

b) Uỷ ban nhân dân các tỉnh khu vực biên giới có trách nhiệm chỉ đạo các cơ quan hữu quan tại địa phương tăng cường kiểm soát khu vực biên giới, đẩy mạnh công tác quản lý dân cư để ngăn ngừa, chấm dứt tình trạng công dân Việt Nam vượt biên trái phép qua biên giới để chung sống như vợ chồng với công dân nước láng giềng mà không đăng ký kết hôn; đẩy mạnh tuyên truyền và thực hiện việc đăng ký kết hôn ở các xã biên giới theo quy định tại Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nưước ngoài.

c) Rà soát đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác giải quyết việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, trên cơ sở đó tăng cường bố trí cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất và trình độ chuyên môn làm công tác này; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm khắc những cán bộ có hành vi tiêu cực trong việc giải quyết việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài.

d) Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình tới từng làng, xóm, thôn, bản, ấp, phum, sóc.

đ) Hỗ trợ Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh trong việc thành lập Trung tâm Hỗ trợ kết hôn theo quy định tại Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nưước ngoài.

8. Đề nghị Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam:

a) Chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em hướng dẫn về tổ chức và hoạt động của các Trung tâm Hỗ trợ kết hôn, hỗ trợ các Trung tâm này hoạt động có hiệu quả, góp phần bảo đảm việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài đúng pháp luật và lành mạnh.

b) Chỉ đạo, hướng dẫn Hội Liên hiệp Phụ nữ cấp tỉnh trong việc thành lập Trung tâm Hỗ trợ kết hôn tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo quy định của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nưước ngoài. Trước mắt, tập trung chỉ đạo việc thành lập và đưa vào hoạt động Trung tâm Hỗ trợ kết hôn tại một số tỉnh có số lượng lớn phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài.

9. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Chỉ thị này.

Bộ Tư pháp có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện Chỉ thị này, kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết

THE PRIME MINISTER OF GOVERNMENT
-------

SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM
Independence - Freedom - Happiness
----------

No. 03/2005/CT-TTg

Hanoi, February 25, 2005

 

DIRECTIVE

ON ENHANCING THE STATE MANAGEMENT OVER MARRIAGE AND FAMILY RELATIONS INVOLVING FOREIGN ELEMENTS

On July 10, 2002, the Government issued Decree No. 68/2002/ND-CP detailing the implementation of a number of articles of the Marriage and Family Law on marriage and family relations involving foreign elements. After more than two years' implementation of the Decree, the establishment of marriage and family relations between Vietnamese citizens and foreigners has seen many positive changes as compared with the past, which suited the context of expanding ties between Vietnam and foreign countries.

However, marriages between Vietnamese women and foreigners still see some problems as follows:

In some provinces or centrally-run cities, many cases of marriage between Vietnamese women and foreigners, especially Taiwanese, have been conducted hastily, ignoring the principle of voluntary and progressive marriage; or Vietnamese women have illegally crossed borders to live like husbands and wives with citizens of neighboring countries without making marriage registrations.

Marriage intermediation activities for self-seeking purposes by some organizations and individuals have occurred in various disguised and sophisticated forms, thus causing social disorder. In many cases, marriages through brokerage have damaged the honor and dignity of Vietnamese women, seriously disrupted the nation's fine traditions and customs, and badly affected the national reputation.

Most Vietnamese women, before going abroad to live with their husbands, had not been adequately advised to acquire necessary knowledge about laws, languages, traditions and customs of host countries, and have, therefore, met with numerous difficulties in integrating themselves into community and stabilizing their life in foreign countries.

The above-said situation is attributable to many reasons, including poor State management over marriage and family relations involving foreign elements and instrict and untimely handling of violations and negative acts in this domain.

To address this situation and raise the effectiveness of State management over marriage and family relations involving foreign elements, the Prime Minister hereby instructs:

1. The ministries, the ministerial-level agencies, the Government-attached agencies and the People's Committees of all levels should be aware that the situation of marriages between Vietnamese women and foreigners constitutes an issue related to many aspects of the economic, cultural and social life, as well as social security and order and external relations. Within the ambit of their respective functions and tasks, the said agencies should enhance the performance of their function of State management over marriage and family relations involving foreign elements, closely and effectively coordinate with concerned agencies and localities in taking measures to prevent and promptly handle violating organizations and individuals, put an end to the illegal marriage brokerage, make healthy the marriage and family relations involving foreign elements, and ensure the observance of the principle of voluntary and progressive marriage, thus contributing to building happy and stable families, observing and preserving the fine traditions and customs of the Vietnamese nation, and contributing to protecting the reputation of the Vietnamese nation and the Vietnamese State in international relations.

2. The Ministry of Justice has the responsibilities:

a) To enhance the guidance, direction, examination and inspection of localities in the work of accepting and handling dossiers for registration of marriages between Vietnamese citizens and foreigners; and promptly redress deviations and negative phenomena in this work. To direct provincial/municipal Justice Services in seriously observing regulations on non-acceptance of marriage registration dossiers filed through third parties; to promulgate regulations on verification and interviewing of involved parties in case of suspicion or complaint or denunciation about sham marriages, or taking advantage of marriages for women trafficking or marriages for other self-seeking purposes, or in cases where they deem it necessary to further clarify personal identifications of involved parties or papers in marriage registration dossiers, thus contributing to precluding cases where marriage fails to comply with the principle of voluntary and progressive marriage.

b) To assume the prime responsibility for, and coordinate with the Ministry of Foreign Affairs and the concerned agencies in formulating a mechanism of information on the current life of Vietnamese citizens who have married foreigners and are living in foreign countries; expeditiously studying and proposing the negotiation and conclusion of agreements with concerned countries to protect the legitimate rights and interests of Vietnamese citizens, who have married foreigners and are living in foreign countries, in terms of nationality, residence, marriage and family, property, etc., in accordance with Vietnamese law, laws of host countries, international laws and practices.

c) To direct the registration of births and resolution of problems related to civil status of children of Vietnamese women and foreigners when they, together with their mothers, return to reside in Vietnam.

d) To organize the compilation of documents for propagation and dissemination of law provisions on marriage and family relations involving foreign elements, documents providing guidance and consultations on nationality and civil status of Vietnam and foreign countries so as to help the marital parties correctly understand and implement provisions of law.

e) To assume the prime responsibility for, and coordinate with the Ministry of Culture and Information, the Central Committee of Vietnam Women Union, the Central Committee of Ho Chi Minh Communist Youth Union and the Central Committee of Vietnam Peasants' Association in directing the dissemination and popularization of law provisions on marriage and family relations involving foreign elements, thus contributing to creating a substantial improvement in people's awareness about this domain.

f) To raise the capability of the contingent of full-time officials in charge of nationality work, and ensure necessary conditions for promptly settling applications for relinquishment of Vietnamese nationality by Vietnamese citizens who wish to marry foreigners.

3. The Ministry of Public Security has the responsibilities:

To direct the police offices of all levels in taking necessary professional measures and cooperate and coordinate with the International Criminal Police (Interpol) in detecting and severely punishing organizations and individuals engaged in illegal marriage brokerage activities. Cases showing signs of crimes should be criminally instituted and handled.

From now till the end of the second quarter of 2005, to direct the police offices in some key provinces and centrally-run cities in launching intensive campaigns to scrutinize and eliminate rendezvous places where Vietnamese women who wish to marry foreigners are recommended to foreigners; to watch for, detect and promptly handle cases of illegal marriage brokerage.

4. The Ministry of Foreign Affairs has the responsibilities:

a) To direct foreign-based Vietnamese representations in firmly grasping all aspects of life of the community of Vietnamese women married to foreigners and currently living in foreign countries; to coordinate with the concerned agencies and organizations of host countries in guiding these women in setting up appropriate organizations or societies to help themselves integrate into the communities where they live, and maintain their regular contacts with their home country and families.

b) To continue directing and guiding the foreign-based Vietnamese representations in intensifying the application of measures to protect the legitimate rights and interests of Vietnamese women in foreign countries in marriage and family relations in compliance with laws of host countries and international agreements which Vietnam has signed or acceded to; to promptly take measures to protect and assist these women when they fall into miserable plights.

5. The Ministry of Planning and Investment has the responsibilities:

To direct localities in conducting the inspection, detection and handling of enterprises which violate the provisions on prohibition of provision of brokerage services of marriage involving foreign elements of the Government's Decree No. 125/2004/ND-CP dated May 19, 2004 amending and supplementing a number of articles of Decree No.03/2000/ND-CP dated February 3, 2000 guiding the implementation of a number of articles of the Enterprise Law.

6. The Ministry of Culture and Information has the responsibilities:

To direct press information on the situation of Vietnamese women who have married foreigners, especially Taiwanese and South Koreans, in order to ensure accurate, objective and comprehensive information, and to avoid the publication of one-way information; and at the same time, to further promote the role of the mass media in fighting negative acts and promptly detecting violations in the registration of marriages between Vietnamese women and foreigners.

7. The People's Committees of the provinces or centrally-run cities have the responsibilities:

a) To enhance the State management in the domain of marriage and family relations involving foreign elements in their respective provinces or centrally-run cities; to resolutely do away with illegal

marriage brokerage activities, thus putting an end to the situation of marriages violating the principle of voluntary and progressive marriage, fine traditions and customs of the Vietnamese nation. The presidents of provincial-level People's Committees must bear responsibility for the occurrence of illegal marriage brokerage activities in their respective localities.

b) The People's Committees of the border provinces shall have to direct concerned agencies in their localities in enhancing the control in border areas and stepping up the management of population in order to prevent and put an end to the situation that Vietnamese citizens illegally cross borders to live with citizens of neighboring countries as spouses without marriage registrations; step up the propagation about and making of marriage registrations in border communes according to the provisions of the Government's Decree No. 68/2002/ND-CP dated July 10, 2002 detailing the implementation of a number of articles of the Marriage and Family Law on marriage and family relations involving foreign elements.

c) To rearrange the contingent of officials personally engaged in the work of registration of marriages between Vietnamese citizens and foreigners, thereby to arrange fully capable and professionally qualified officials for this work; to promptly detect and stringently handle officials who commit negative acts in the registration of marriages between Vietnamese citizens and foreigners.

d) To elaborate and direct the implementation of the plans to step up propagation, dissemination and education of laws and fine cultural traditions of the Vietnamese nation in marriage and family to each village or hamlet.

e) To support the provincial-level Women Union chapters in establishing marriage assistance centers under the Government's Decree No. 68/2002/ND-CP dated July 10, 2002 detailing the implementation of a number of articles of the Marriage and Family Law on marriage and family relations involving foreign elements.

8. The Central Committee of Vietnam Women Union is requested to:

a) Assume the prime responsibility for, and coordinate with the Ministry of Justice, the Ministry of Home Affairs, the Ministry of Finance and the Population, Family and Children Committee in guiding the organization and operation of the marriage assistance centers and supporting them to efficiently operate, thus contributing to guaranteeing that marriages between Vietnamese citizens and foreigners are compliant with law and healthy.

b) Direct and guide the provincial-level Women Union chapters in establishing marriage assistance centers in the provinces or centrally-run cities under the Government's Decree No. 68/2002/ND-CP dated July 10, 2002 detailing the implementation of a number of articles of the Marriage and Family Law on marriage and family relations involving foreign elements. In the immediate future, direction should focus on the establishment and putting into operation of marriage assistance centers in some provinces where Vietnamese women wishing to marry foreigners are in large numbers.

9. The ministers, the heads of the ministerial-level agencies, the heads of the Government-attached agencies and the presidents of the People's Committees of the provinces or centrally-run cities shall have to implement this Directive.

The Ministry of Justice shall have to monitor, inspect, urge, preliminarily and finally review the implementation of this Directive, and then promptly report thereon to the Prime Minister.

  

FOR THE PRIME MINISTER
DEPUTY PRIME MINISTER




Pham Gia Khiem

 

Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Nâng cao để xem đầy đủ bản dịch.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

Lược đồ

Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

Văn bản này chưa có chỉ dẫn thay đổi
văn bản TIẾNG ANH
Bản dịch tham khảo
Directive 03/2005/CT-TTg DOC (Word)
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiếng Anh hoặc Nâng cao để tải file.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

* Lưu ý: Để đọc được văn bản tải trên Luatvietnam.vn, bạn cần cài phần mềm đọc file DOC, DOCX và phần mềm đọc file PDF.

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên

TẠI ĐÂY

văn bản cùng lĩnh vực

Quyết định 2134/QĐ-BTP của Bộ Tư pháp về việc ban hành Kế hoạch phát động phong trào thi đua đặc biệt “Đẩy nhanh tiến độ, về đích sớm, hoàn thành thắng lợi chỉ tiêu, nhiệm vụ các phong trào thi đua của Bộ, ngành Tư pháp giai đoạn 2021 – 2025, lập thành tích xuất sắc chào mừng Kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống ngành Tư pháp (28/8/1945- 28/8/2025) và Đại hội thi đua yêu nước ngành Tư pháp lần thứ VI”

Thi đua-Khen thưởng-Kỷ luật, Tư pháp-Hộ tịch

văn bản mới nhất