Nghị định 67/1999/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại, tố cáo

thuộc tính Nghị định 67/1999/NĐ-CP

Nghị định 67/1999/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại, tố cáo
Cơ quan ban hành: Chính phủ
Số công báo:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Số hiệu:67/1999/NĐ-CP
Ngày đăng công báo:Đang cập nhật
Loại văn bản:Nghị định
Người ký:Phan Văn Khải
Ngày ban hành:07/08/1999
Ngày hết hiệu lực:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày hết hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Áp dụng:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản để xem Ngày áp dụng. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Tình trạng hiệu lực:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Lĩnh vực: Khiếu nại-Tố cáo, Tư pháp-Hộ tịch

TÓM TẮT VĂN BẢN

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

tải Nghị định 67/1999/NĐ-CP

LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết

NGHỊ ĐỊNH

CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 67/1999/NĐ-CP NGÀY 07 THÁNG 8 NĂM 1999
QUY ĐỊNH CHI TIẾT VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH
LUẬT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO

 

CHÍNH PHỦ

 

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992;

Căn cứ Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 02 tháng 12 năm 1998;

Theo đề nghị của Tổng Thanh tra Nhà nước,

NGHỊ ĐỊNH:

 

CHƯƠNG I
KHIẾU NẠI, GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI QUYẾT ĐỊNH
HÀNH CHÍNH, HÀNH VI HÀNH CHÍNH

 

MỤC 1
KHIẾU NẠI VÀ VIỆC XỬ LÝ ĐƠN KHIẾU NẠI

 

Điều 1. Khiếu nại được cơ quan Nhà nước thụ lý để giải quyết khi có đủ các điều kiện sau đây:

1. Người khiếu nại phải là người có quyền, lợi ích hợp pháp chịu tác động trực tiếp bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính mà mình khiếu nại;

2. Người khiếu nại phải là người có năng lực hành vi đầy đủ theo quy định của Bộ Luật Dân sự hoặc là người chưa có năng lực hành vi đầy đủ nhưng theo quy định của pháp luật có quyền khiếu nại; trong trường hợp thông qua người đại diện để thực hiện việc khiếu nại thì người đại diện phải theo quy định tại Điều 2 của Nghị định này;

3. Người khiếu nại phải làm đơn khiếu nại và gửi đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết trong thời hiệu, thời hạn theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo;

4. Việc khiếu nại chưa có quyết định giải quyết cuối cùng;

5. Việc khiếu nại chưa được Toà án thụ lý để giải quyết.

 

Điều 2.

1. Công dân là người chưa thành niên, người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì thông qua người đại diện theo pháp luật để thực hiện quyền khiếu nại; khi thực hiện việc khiếu nại, người đại diện phải có giấy tờ để chứng minh với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc đại diện hợp pháp của mình.

Người ốm đau, già yếu, có nhược điểm về thể chất hoặc vì lý do khách quan khác mà không thể tự mình khiếu nại thì có thể uỷ quyền cho người đại diện là cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột đã thành niên để thực hiện việc khiếu nại; việc uỷ quyền khiếu nại phải lập thành văn bản có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người uỷ quyền hoặc nơi người được ủy quyền cư trú.

2. Cơ quan thực hiện quyền khiếu nại thông qua người đại diện là Thủ trưởng cơ quan đó.

3. Tổ chức thực hiện quyền khiếu nại thông qua người đại diện là người đứng đầu tổ chức đó được quy định trong quyết định thành lập tổ chức hoặc trong Điều lệ của tổ chức.

 

Điều 3. Trong trường hợp người khiếu nại không thực hiện được việc khiếu nại theo đúng thời hiệu vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại; người khiếu nại phải chứng minh với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về trở ngại khách quan đó.

 

Điều 4. Trong quá trình thực hiện việc khiếu nại, người khiếu nại vẫn phải chấp hành quyết định hành chính mà mình khiếu nại, trừ trường hợp quyết định đó bị tạm đình chỉ thi hành theo quy định tại Điều 35, Điều 42 của Luật Khiếu nại, tố cáo.

 

Điều 5. Cơ quan Nhà nước khi nhận được đơn khiếu nại thì xử lý như sau:

1. Đối với đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của mình và đủ các điều kiện quy định tại Điều 1 của Nghị định này thì cơ quan nhận được phải thụ lý để giải quyết; trong trường hợp đơn khiếu nại có chữ ký của nhiều người thì có trách nhiệm hướng dẫn người khiếu nại viết thành đơn riêng để thực hiện việc khiếu nại;

2. Đối với đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của mình nhưng không đủ các điều kiện thụ lý để giải quyết theo quy định tại Điều 1 của Nghị định này thì có trách nhiệm trả lời bằng văn bản cho người khiếu nại biết rõ lý do;

3. Đối với đơn vừa có nội dung khiếu nại, vừa có nội dung tố cáo thì cơ quan nhận được có trách nhiệm xử lý nội dung khiếu nại theo quy định tại điểm 1, điểm 2 và điểm 5 Điều này, còn nội dung tố cáo thì xử lý theo quy định tại Điều 43 của Nghị định này;

4. Đối với đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp dưới nhưng quá thời hạn quy định mà chưa được giải quyết thì cơ quan cấp trên trực tiếp nhận được có trách nhiệm thụ lý để giải quyết;

5. Đối với đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, đơn khiếu nại về vụ việc đã có quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng thì cơ quan nhận được đơn không có trách nhiệm thụ lý mà thông báo và chỉ dẫn cho người khiếu nại bằng văn bản. Việc thông báo chỉ thực hiện một lần đối với một vụ việc khiếu nại; trong trường hợp người khiếu nại gửi kèm các giấy tờ, tài liệu là bản gốc liên quan đến vụ việc khiếu nại thì cơ quan nhận được đơn trả lại các giấy tờ, tài liệu đó cho người khiếu nại.

Điều 6. Cơ quan Nhà nước nhận được đơn khiếu nại do Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận hoặc các cơ quan báo chí chuyển đến, nếu thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì thụ lý giải quyết và thông báo cho cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân đã chuyển đơn đến biết; nếu đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì gửi trả lại và thông báo cho cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân đã chuyển đơn đến biết.

 

Điều 7. Các cơ quan Thanh tra Nhà nước khi nhận được đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan hành chính Nhà nước cùng cấp có trách nhiệm xem xét và báo cáo để Thủ trưởng cơ quan hành chính Nhà nước cùng cấp quyết định việc thụ lý giải quyết khiếu nại đó.

 

MỤC 2
TRÁCH NHIỆM CỦA THỦ TRƯỞNG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

 

Điều 8.

1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.

Nếu thấy vụ việc khiếu nại có nội dung rõ ràng, có đủ căn cứ để giải quyết thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ra quyết định giải quyết ngay.

Nếu thấy vụ việc khiếu nại có nội dung chưa rõ ràng, chưa đủ căn cứ để giải quyết thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã phải tiến hành thẩm tra, xác minh, gặp gỡ người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại trước khi ra quyết định giải quyết khiếu nại. Căn cứ vào kết quả thẩm tra, xác minh và quy định của pháp luật, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã ra quyết định giải quyết khiếu nại trong thời hạn quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.

2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan và Uỷ ban nhân dân cấp huyện; khi cần thiết thì công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại.

3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm thi hành, tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật trong phạm vi trách nhiệm của mình.

 

Điều 9. Thủ trưởng cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Thủ trưởng cơ quan thuộc Sở, Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền. Việc giải quyết theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo và được tiến hành như quy định tại Điều 8 của Nghị định này.

 

Điều 10.

1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.

a) Đối với khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện giao cho Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện hoặc Chánh thanh tra cấp huyện xem xét, kết luận và kiến nghị việc giải quyết;

b) Đối với khiếu nại mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, trưởng phòng, ban chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại thì giao cho Chánh Thanh tra cấp huyện tiến hành xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết;

c) Căn cứ vào báo cáo xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện ra quyết định giải quyết hoặc uỷ quyền cho Chánh thanh tra cùng cấp ra quyết định giải quyết theo quy định tại khoản 1, Điều 20 Nghị định này và theo thời hạn quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.

2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện hoặc Chánh thanh tra cấp huyện được uỷ quyền ra quyết định giải quyết có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; khi cần thiết thì công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại.

3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm thi hành, tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật trong phạm vi trách nhiệm của mình; kiểm tra, đôn đốc cơ quan, đơn vị cấp dưới trong việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.

 

Điều 11.

1. Giám đốc Sở và cấp tương đương thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (gọi chung là Giám đốc Sở) có trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.

 

a) Đối với khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ công chức do mình quản lý trực tiếp thì Giám đốc Sở giao cho Thủ trưởng phòng, ban chuyên môn thuộc Sở hoặc Chánh thanh tra Sở xem xét, kết luận và kiến nghị việc giải quyết;

b) Đối với khiếu nại mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Sở đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại thì giao cho Chánh thanh tra cấp Sở tiến hành xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết;

c) Căn cứ vào báo cáo xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, Giám đốc Sở ra quyết định giải quyết trong thời hạn quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.

2. Giám đốc Sở có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan và người có thẩm quyền giải quyết tiếp theo; khi cần thiết thì công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại.

3. Giám đốc Sở có trách nhiệm thi hành, tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật trong phạm vi trách nhiệm của mình; kiểm tra, đôn đốc cơ quan, đơn vị cấp dưới trong việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.

 

Điều 12.

1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo;

a) Đối với khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giao cho Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Chánh thanh tra cấp tỉnh xem xét, kết luận và kiến nghị việc giải quyết;

b) Đối với khiếu nại mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại, khiếu nại mà Giám đốc Sở đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại mà nội dung thuộc phạm vi quản lý của mình thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh giao cho Chánh thanh tra cấp tỉnh tiến hành xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết;

c) Căn cứ vào báo cáo xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định giải quyết hoặc ủy quyền cho Chánh thanh tra cấp tỉnh ra quyết định giải quyết theo quy định tại khoản 2, Điều 20 Nghị định này và theo thời hạn quy định tại Luật khiếu nại tố cáo. Quyết định giải quyết đối với khiếu nại nêu tại điểm a, khoản 1 Điều này là quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu; quyết định giải quyết đối với khiếu nại nêu tại điểm b, khoản 1 Điều này là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng.

2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hoặc Chánh thanh tra cấp tỉnh được uỷ quyền ra quyết định giải quyết có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan; nếu là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng thì gửi Tổng Thanh tra Nhà nước; nếu là quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu thì gửi Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền giải quyết tiếp theo đối với vụ việc khiếu nại đó; khi cần thiết thì công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại.

3. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thi hành, tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật trong phạm vi trách nhiệm của mình; kiểm tra, đôn đốc cơ quan, đơn vị cấp dưới trong việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.

 

Điều 13.

1. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.

a) Đối với khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của cán bộ, công chức do mình quản lý trực tiếp thì Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ giao cho Thủ trưởng Cục, Vụ, đơn vị chức năng hoặc Chánh thanh tra cùng cấp xem xét, kết luận và kiến nghị việc giải quyết;

b) Đối với khiếu nại mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Giám đốc Sở đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại mà thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì giao cho Chánh thanh tra cùng cấp tiến hành xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết;

c) Căn cứ vào báo cáo xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ ra quyết định giải quyết trong thời hạn quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo. Quyết định giải quyết khiếu nại nêu tại điểm a, khoản 1 Điều này là quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu; quyết định giải quyết khiếu nại nêu tại điểm b, khoản 1 Điều này của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng.

2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích liên quan và Tổng Thanh tra Nhà nước; khi cần thiết thì công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại.

3. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có trách nhiệm thi hành, tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật trong phạm vi trách nhiệm của mình; kiểm tra, đôn đốc cơ quan, đơn vị thuộc thẩm quyền quản lý của mình trong việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại đã có hiệu lực pháp luật.

 

Điều 14.

1. Tổng Thanh tra Nhà nước có trách nhiệm giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền theo trình tự, thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.

2. Tổng Thanh tra Nhà nước được uỷ quyền để giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ tướng Chính phủ; trong trường hợp có ý kiến khác nhau giữa Tổng Thanh tra Nhà nước với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ về việc giải quyết thì Tổng Thanh tra Nhà nước báo cáo để Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc giải quyết hoặc kiến nghị Thủ tướng Chính phủ ra quyết định giải quyết.

 

Điều 15.

1. Người đã ra quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng khi phát hiện quyết định đó có vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức thì phải tự xem xét lại để việc giải quyết khiếu nại đúng quy định của pháp luật.

2. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ trong quá trình thực hiện chức năng quản lý Nhà nước của mình, nếu phát hiện quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức thì yêu cầu người đã ra quyết định xem xét lại quyết định giải quyết đó; trong thời hạn 15 ngày, nếu yêu cầu không được thực hiện thì áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để yêu cầu đó được thực hiện hoặc báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

3. Tổng Thanh tra Nhà nước, trong quá trình thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo, nếu phát hiện quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng có vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức thì yêu cầu người đã ra quyết định xem xét lại quyết định giải quyết đó; trong thời hạn 15 ngày, nếu yêu cầu không được thực hiện thì áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để yêu cầu đó được thực hiện hoặc kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

4. Thời hiệu yêu cầu xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng quy định tại khoản 2, khoản 3 của Điều này là 12 tháng, kể từ ngày quyết định đó có hiệu lực thi hành.

 

Điều 16. Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc giải quyết hoặc ra quyết định giải quyết khiếu nại khi có kiến nghị của Tổng Thanh tra Nhà nước theo quy định tại khoản 2, Điều 14 của Nghị định này.

Khi phát hiện quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng có vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức thì Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo người đã ra quyết định giải quyết đó hoặc giao cho Tổng Thanh tra Nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ xem xét, báo cáo để Thủ tướng Chính phủ quyết định.

 

Điều 17.

1. Thủ trưởng cơ quan Nhà nước có trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc các cơ quan, đơn vị cấp dưới giải quyết kịp thời các khiếu nại thuộc thẩm quyền.

2. Thủ trưởng cơ quan Nhà nước khi nhận được khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp dưới trực tiếp nhưng quá thời hạn quy định mà chưa được giải quyết thì có trách nhiệm thụ lý để giải quyết, đồng thời phải áp dụng biện pháp xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý đối với người thiếu trách nhiệm hoặc cố tình trì hoãn việc giải quyết khiếu nại đó.

 

Điều 18. Người giải quyết khiếu nại phải ra quyết định giải quyết khiếu nại với các nội dung như quy định tại Điều 38, Điều 45 của Luật Khiếu nại, tố cáo; không dùng thông báo, biên bản cuộc họp hoặc các hình thức văn bản khác để thay thế quyết định giải quyết khiếu nại.

 

Điều 19.

1. Trong quá trình giải quyết khiếu nại nếu thấy vụ việc phức tạp, việc thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có thể sẽ có khó khăn thì người giải quyết khiếu nại triệu tập người khiếu nại, người bị khiếu nại và trong trường hợp cần thiết thì mời người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan và đại diện các cơ quan hữu quan để công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại.

2. Khi công bố công khai quyết định giải quyết khiếu nại, người giải quyết khiếu nại thông báo nội dung khiếu nại, kết quả thẩm tra, xác minh, căn cứ pháp luật để giải quyết khiếu nại, việc giải quyết các vấn đề cụ thể trong nội dung khiếu nại; nêu rõ trách nhiệm của người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan trong việc chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại.

 

MỤC 3
VIỆC UỶ QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

Điều 20.

1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện ra quyết định giải quyết hoặc uỷ quyền cho Chánh thanh tra cấp huyện ra quyết định giải quyết đối với khiếu nại mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại trừ những vụ việc khiếu nại phức tạp tồn động, kéo dài.

2. Chủ tịch Uỷ ban nhân cấp tỉnh ra quyết định giải quyết hoặc uỷ quyền cho Chánh thanh tra cấp tỉnh ra quyết định giải quyết đối với khiếu nại mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại trừ những vụ việc khiếu nại phức tạp tồn động, kéo dài.

3. Việc uỷ quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại như quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này phải bằng văn bản. Văn bản uỷ quyền được lưu giữ trong hồ sơ giải quyết khiếu nại.

 

Điều 21. Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền cho Tổng Thanh tra Nhà nước giải quyết khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ tướng Chính phủ. Trong trường hợp có ý kiến khác nhau giữa Tổng Thanh tra Nhà nước và Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ về việc giải quyết khiếu nại thì Tổng Thanh tra Nhà nước báo cáo để Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc giải quyết hoặc ra quyết định giải quyết.

 

Điều 22.

1. Người uỷ quyền có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra việc giải quyết khiếu nại của người được uỷ quyền và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định giải quyết khiếu nại của người được uỷ quyền.

2. Người được uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của người giải quyết khiếu nại các lần tiếp theo quy định tại Điều 42, Điều 44 của Luật Khiếu nại, tố cáo và chịu trách nhiệm trước pháp luật, trước người uỷ quyền về việc giải quyết khiếu nại của mình.

3. Quyết định giải quyết khiếu nại của người được uỷ quyền đóng dấu cơ quan của người được uỷ quyền và có giá trị pháp lý như quyết định giải quyết khiếu nại của người uỷ quyền; quyết định giải quyết khiếu nại của Tổng Thanh tra Nhà nước, Chánh thanh tra cấp tỉnh khi được ủy quyền là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng.

 

MỤC 4
VIỆC THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI

 

Điều 23. Quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật phải được cá nhân, cơ quan, tổ chức nghiêm chỉnh chấp hành; người đã ra quyết định giải quyết khiếu nại có trách nhiệm đôn đốc, kiểm tra, áp dụng các biện pháp cần thiết theo thẩm quyền hoặc yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để quyết định giải quyết khiếu nại được thi hành nghiêm chỉnh. Trong trường hợp cần thiết, người đã ra quyết định giải quyết khiếu nại được yêu cầu các cơ quan chức năng phối hợp để tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật.

 

Điều 24. Căn cứ vào nội dung quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền, Thủ trưởng cơ quan Nhà nước có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại có trách nhiệm:

1. Ban hành quyết định hành chính để thay thế hoặc sửa đổi quyết định hành chính bị khiếu nại và tổ chức thực hiện quyết định đó, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại trong trường hợp nội dung khiếu nại là đúng; bồi thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp cho người bị thiệt hại theo quy định của pháp luật;

2. Giải thích, yêu cầu người khiếu nại chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại, nếu nội dung khiếu nại không đúng; trong trường hợp cần thiết yêu cầu các cơ quan chức năng thực hiện các biện pháp theo thẩm quyền để bảo đảm việc thi hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật.

 

Điều 25. Thủ trưởng cơ quan Nhà nước cấp trên có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc Thủ trưởng cơ quan Nhà nước cấp dưới đã có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại thực hiện trách nhiệm quy định tại Điều 24 của Nghị định này; trong trường hợp người có trách nhiệm không chấp hành nghiêm chỉnh quyết định giải quyết khiếu nại thì áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền buộc họ phải chấp hành; xử lý hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý đối với người không thi hành quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật.

 

Điều 26. Thủ trưởng các cơ quan Nhà nước hữu quan phải thực hiện đúng nội dung quyết định giải quyết khiếu nại liên quan đến trách nhiệm của mình; phối hợp với Thủ trưởng cơ quan Nhà nước nói tại Điều 24, Điều 25 của Nghị định này để tổ chức thi hành quyết định giải quyết khiếu nại.

 

CHƯƠNG II

KHIẾU NẠI, GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI QUYẾT ĐỊNH
KỶ LUẬT CÔNG CHỨC TRONG CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

 

MỤC 1
THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT

 

Điều 27. Khiếu nại quyết định kỷ luật của Thủ trưởng cơ quan nào ký ban hành thì Thủ trưởng cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết; trong trường hợp còn khiếu nại tiếp thì Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp có trách nhiệm giải quyết.

 

Điều 28.

1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc Sở có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật do mình ký ban hành.

2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền:

a) Giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật do mình ký ban hành;

b) Giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc Sở đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại này là quyết định cuối cùng.

 

Điều 29. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền:

1. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật do mình ký ban hành;

2. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật mà Thủ tưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại này là quyết định cuối cùng.

 

Điều 30. Bộ trưởng, Trưởng Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ có thẩm quyền:

1. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật do mình ký ban hành;

2. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại, trừ khiếu nại đã có quyết định giải quyết của Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ là Bộ trưởng. Quyết định giải quyết khiếu nại này là quyết định cuối cùng.

 

Điều 31. Thủ tướng Chính phủ ủy quyền cho Bộ trưởng, Trưởng Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ đã giải quyết lần đầu nhưng còn có khiếu nại; trong trường hợp có ý kiến khác nhau giữa Bộ trưởng, Trưởng Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ với Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ thì Bộ trưởng, Trưởng ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ kiến nghị để Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo việc giải quyết hoặc ra quyết định giải quyết; các quyết định giải quyết khiếu nại nêu tại Điều này là quyết định cuối cùng.

 

Điều 32. Thủ trưởng cơ quan Nhà nước có trách nhiệm giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật thuộc thẩm quyền; trong trường hợp cần thiết thì giao cho cơ quan, bộ phận quản lý nhân sự hoặc cơ quan thanh tra cùng cấp tiến hành xác minh, kết luận và kiến nghị việc giải quyết.

 

MỤC 2
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI QUYẾT ĐỊNH KỶ LUẬT

 

Điều 33. Người đã ra quyết định kỷ luật công chức khi nhận được đơn khiếu nại đối với quyết định kỷ luật đó thì phải xem xét và ra quyết định giải quyết bằng văn bản theo thủ tục quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo.

 

Điều 34. Trong trường hợp công chức bị kỷ luật không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu và khiếu nại tiếp thì người có thẩm quyền giải quyết tiếp theo phải xem xét và ra quyết định giải quyết khiếu nại bằng văn bản theo quy định tại Điều 53 của Luật Khiếu nại, tố cáo.

 

Điều 35. Công chức giữ chức vụ từ vụ trưởng hoặc tương đương trở xuống bị kỷ luật buộc thôi việc, sau khi khiếu nại mà người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu vẫn giữ nguyên hình thức kỷ luật đó thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết tiếp theo hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của pháp luật.

 

Điều 36. Bộ trưởng, Trưởng Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ căn cứ vào các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo, Nghị định này và các quy định của pháp luật về cán bộ, công chức hướng dẫn chi tiết việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định kỷ luật công chức trong các cơ quan hành chính Nhà nước.

 

CHƯƠNG III
TỐ CÁO VÀ GIẢI QUYẾT TỐ CÁO

 

MỤC 1
THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TỐ CÁO

 

Điều 37. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà người bị tố cáo thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan nào thì cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết.

Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người thuộc cơ quan nào thì người đứng đầu cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết.

Tố cáo hành vi vi phạm quy định về nhiệm vụ, công vụ của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan nào thì người đứng đầu cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết.

 

Điều 38. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật mà nội dung liên quan đến chức năng quản lý Nhà nước của cơ quan nào thì cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết.

Tố cáo hành vi phạm tội do các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

 

Điều 39.

1. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người do mình quản lý trực tiếp.

2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng, Trưởng ban, Phó Trưởng ban thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện và những người khác do mình bổ nhiệm và quản lý trực tiếp.

3. Giám đốc Sở có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng thuộc Sở và những người khác do mình bổ nhiệm và quản lý trực tiếp.

4. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc, Phó Giám đốc Sở và những người khác do mình bổ nhiệm và quản lý trực tiếp.

5. Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, đơn vị thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ và những người khác do mình bổ nhiệm và quản lý trực tiếp.

6. Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của Bộ trưởng, Thứ trưởng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và những người khác do mình bổ nhiệm và quản lý trực tiếp.

 

Điều 40.

1. Chánh thanh tra cấp huyện có thẩm quyền:

a) Xác minh, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện khi được giao;

b) Xem xét, kết luận nội dung tố cáo mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.

2. Chánh thanh tra Sở có thẩm quyền:

a) Xác minh, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Giám đốc Sở khi được giao;

b) Xem xét, kết luận nội dung tố cáo mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Sở đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.

3. Chánh thanh tra cấp tỉnh có thẩm quyền:

a) Xác minh, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh khi được giao;

b) Xem xét, kết luận nội dung tố cáo mà Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Giám đốc Sở đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.

4. Chánh thanh tra Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có thẩm quyền:

a) Xem xét, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ khi được giao;

b) Xem xét, kết luận nội dung tố cáo mà Thủ trưởng cơ quan thuộc Bộ, thuộc cơ quan ngang Bộ, thuộc cơ quan thuộc Chính phủ đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.

 

Điều 41. Tổng Thanh tra Nhà nước có thẩm quyền:

1. Xác minh, kết luận nội dung tố cáo, kiến nghị biện pháp xử lý tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của Thủ tướng Chính phủ khi được giao;

2. Xem xét, kết luận về nội dung tố cáo mà Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã giải quyết nhưng có vi phạm pháp luật; trong trường hợp kết luận việc giải quyết tố cáo có vi phạm pháp luật thì kiến nghị người đã giải quyết xem xét, giải quyết lại.

 

Điều 42. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị của cơ quan Thanh tra theo quy định tại điểm b của các khoản 1, 2, 3, 4 Điều 40 và khoản 2 Điều 41 của Nghị định này, Thủ trưởng cơ quan Nhà nước đã giải quyết tố cáo có trách nhiệm thực hiện và thông báo kết quả cho cơ quan Thanh tra đã có kiến nghị đó.

 

MỤC 2
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TỐ CÁO

 

Điều 43.

1. Cơ quan Nhà nước nhận được đơn tố cáo có trách nhiệm phân loại và xử lý như sau:

a) Nếu tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì phải thụ lý để giải quyết theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định này;

b) Nếu tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì chậm nhất trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được phải chuyển đơn tố cáo hoặc bản ghi lời tố cáo và các tài liệu, chứng cứ liên quan (nếu có) cho người có thẩm quyền giải quyết;

c) Nếu đơn tố cáo không ghi rõ họ, tên, địa chỉ người tố cáo nhưng nội dung rõ ràng, bằng chứng cụ thể, có cơ sở để thẩm tra, xác minh thì Thủ trưởng cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định việc xem xét, xử lý đơn tố cáo đó;

d) Nếu tố cáo hành vi phạm tội thì chuyển cho cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát xử lý theo quy định tại Điều 71 của Luật Khiếu nại, tố cáo.

2. Trong trường hợp hành vi bị tố cáo gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể, tính mạng, tài sản của công dân thì cơ quan nhận được đơn phải báo ngay cho cơ quan chức năng để có biện pháp ngăn chặn.

3. Trong trường hợp, Thủ trưởng cơ quan Nhà nước các cấp, các ngành nhận được thông tin người tố cáo bị đe dọa, trù dập, trả thù thì phải có trách nhiệm chỉ đạo hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng liên quan làm rõ, có biện pháp bảo vệ người tố cáo, ngăn chặn và đề nghị cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật người có hành vi đe dọa, trù dập, trả thù người tố cáo.

 

Điều 44. Trong trường hợp người tố cáo trình bày trực tiếp thì người tiếp nhận phải ghi rõ nội dung tố cáo, họ tên, địa chỉ người tố cáo; khi cần thiết thì ghi âm lời tố cáo. Bản ghi nội dung tố cáo phải cho người tố cáo đọc lại, nghe lại và ký xác nhận. Việc xử lý tố cáo trực tiếp được thực hiện như xử lý đơn tố cáo quy định tại Điều 43 của Nghị định này.

 

Điều 45. Khi tiếp nhận thông tin, tài liệu do người tố cáo, người bị tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thì người giải quyết tố cáo phải làm giấy biên nhận, có chữ ký của người tiếp nhận và người cung cấp.

 

Điều 46. Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo hoặc Thủ trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ xác minh phải ra quyết định về việc tiến hành xác minh nội dung tố cáo; trong quyết định phải ghi rõ người được giao nhiệm vụ xác minh, nội dung cần xác minh, thời gian tiến hành xác minh, quyền hạn và trách nhiệm của người được giao nhiệm vụ xác minh.

 

Điều 47. Trong quá trình giải quyết tố cáo, người được giao nhiệm vụ xác minh phải tạo điều kiện để người bị tố cáo giải trình, đưa ra các bằng chứng để chứng minh tính đúng, sai của nội dung tố cáo.

 

Điều 48. Việc thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình xác minh, giải quyết tố cáo phải được ghi chép thành văn bản và lưu vào hồ sơ giải quyết tố cáo.

Sau khi kết thúc việc xác minh, người được giao nhiệm vụ xác minh phải có văn bản kết luận về nội dung tố cáo và phải có những chứng cứ để chứng minh cho kết luận của mình.

 

Điều 49. Căn cứ vào kết quả xác minh, kết luận về nội dung tố cáo, người giải quyết tố cáo tiến hành xử lý như sau:

1. Trong trường hợp người bị tố cáo không vi phạm pháp luật, không vi phạm các quy định về nhiệm vụ, công vụ thì phải có kết luận rõ và thông báo bằng văn bản cho người bị tố cáo, cơ quan quản lý người bị tố cáo biết, đồng thời xử lý hoặc kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý người cố tình tố cáo sai sự thật;

2. Trong trường hợp người bị tố cáo có vi phạm pháp luật, vi phạm các quy định về nhiệm vụ, công vụ phải xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính thì xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý, đồng thời áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để quyết định, kiến nghị xử lý được chấp hành nghiêm chỉnh;

3. Trong trường hợp hành vi bị tố cáo có dấu hiệu tội phạm thì chuyển hồ sơ vụ việc cho cơ quan Điều tra hoặc Viện kiểm sát để giải quyết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

 

Điều 50. Người giải quyết tố cáo phải gửi văn bản kết luận vụ việc tố cáo, quyết định xử lý tố cáo cho cơ quan Thanh tra, cơ quan Nhà nước cấp trên trực tiếp; thông báo cho người tố cáo kết quả giải quyết nếu họ có yêu cầu, trừ những nội dung thuộc danh mục bí mật Nhà nước.

 

 

 

 

CHƯƠNG IV
VIỆC TỔ CHỨC TIẾP CÔNG DÂN

 

Điều 51. Việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, đưa đơn khiếu nại, tố cáo được tiến hành tại nơi tiếp công dân.

Thủ trưởng cơ quan Nhà nước phải tổ chức và quản lý nơi tiếp công dân của cơ quan mình; ban hành nội quy tiếp công dân; bố trí nơi tiếp công dân tại địa điểm thuận tiện; bảo đảm các điều kiện vật chất cần thiết để công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh liên quan đến khiếu nại, tố cáo.

Tại nơi tiếp công dân phải niêm yết lịch tiếp công dân và nội quy tiếp công dân. Lịch tiếp công dân phải được ghi cụ thể thời gian, chức vụ người tiếp công dân. Nội quy tiếp công dân phải ghi rõ trách nhiệm của người tiếp công dân, quyền và nghĩa vụ của người đến khiếu nại, tố cáo.

 

Điều 52.

1. Thủ trưởng cơ quan Nhà nước có trách nhiệm định kỳ trực tiếp tiếp công dân theo quy định tại Điều 76 của Luật Khiếu nại, tố cáo; lịch tiếp công dân phải được thông báo công khai cho công dân biết.

2. Ngoài việc tiếp công dân theo định kỳ, Thủ trưởng cơ quan Nhà nước phải tiếp công dân khi có yêu cầu khẩn thiết.

3. Đối với những khiếu nại thuộc thẩm quyền mà vụ việc rõ ràng, cụ thể, có cơ sở giải quyết thì khi tiếp công dân, Thủ trưởng cơ quan Nhà nước phải trả lời ngay cho công dân biết; nếu vụ việc phức tạp cần nghiên cứu, xem xét thì phải nói rõ thời hạn giải quyết, người cần liên hệ tiếp để biết kết quả giải quyết.

4. Việc tiếp công dân của Thủ trưởng cơ quan Nhà nước phải được ghi chép vào sổ tiếp công dân và được lưu giữ tại nơi tiếp công dân.

 

Điều 53. Người tiếp công dân phải có sổ để ghi chép, theo dõi việc tiếp công dân; yêu cầu công dân đến khiếu nại, tố cáo xuất trình giấy tờ tuỳ thân, trình bày trung thực sự việc, cung cấp tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại, tố cáo; trong trường hợp có nhiều người đến khiếu nại, tố cáo về cùng một nội dung thì yêu cầu họ cử đại diện trực tiếp trình bày nội dung sự việc.

 

Điều 54. Việc xử lý khiếu nại, tố cáo tại nơi tiếp công dân được tiến hành như sau:

1. Đối với đơn khiếu nại thì xử lý theo quy định tại Điều 5 của Nghị định này; trong trường hợp công dân đến khiếu nại trực tiếp mà vụ việc khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì người tiếp công dân hướng dẫn họ viết thành đơn hoặc ghi lại nội dung khiếu nại và yêu cầu công dân ký tên hoặc điểm chỉ; nếu vụ việc khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì hướng dẫn công dân khiếu nại đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết;

2. Đối với tố cáo thì người tiếp công dân phải tiếp nhận, phân loại và xử lý theo quy định tại các Điều 43, 44 và Điều 45 của Nghị định này.

 

Điều 55. Thanh tra Nhà nước các cấp, các cơ quan: Công an, Quốc phòng, Hải quan, Thương mại, Kế hoạch và Đầu tư, Xây dựng, Tài chính, Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổ chức - Cán bộ, Giao thông vận tải, Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Địa chính ở cấp Trung ương và cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức tiếp công dân thường xuyên.

Các cơ quan khác của Nhà nước căn cứ vào quy định tại Chương V của Luật Khiếu nại, tố cáo, Nghị định này và tình hình khiếu nại, tố cáo liên quan đến ngành, lĩnh vực của mình quản lý để bố trí thời gian tiếp công dân.

 

Điều 56.

1. Việc tổ chức tiếp công dân của Trung ương Đảng và Nhà nước tại Trụ sở tiếp công dân ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thực hiện theo Nghị định số 89/CP ngày 7 tháng 8 năm 1997 của Chính phủ ban hành Quy chế tổ chức tiếp công dân.

2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh bố trí địa điểm chung để Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại diện tổ chức chính trị tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo; cử một cán bộ Phó văn phòng hoặc cấp tương đương phụ trách nơi tiếp công dân để tổ chức thực hiện chế độ tiếp dân thường xuyên.

 

Điều 57. Đối với những người đến khiếu nại, tố cáo có hành vi gây rối, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự công cộng, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan Nhà nước, của cá nhân có trách nhiệm hoặc có hành vi khác vi phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo thì Thủ trưởng cơ quan Nhà nước, người phụ trách trụ sở tiếp công dân yêu cầu cơ quan Công an phụ trách địa bàn có biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.

 

Điều 58. Thủ trưởng cơ quan Nhà nước có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với Thủ trưởng cơ quan công an trong việc bảo đảm trật tự, an toàn nơi tiếp công dân.

Uỷ ban nhân dân cấp xã, Công an tại các địa phương có trách nhiệm bảo vệ an toàn trụ sở tiếp công dân của các cơ quan trên địa bàn mình quản lý; trong trường hợp cần thiết thì áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để xử lý đối với những người lợi dụng việc khiếu nại, tố cáo có hành vi vi phạm pháp luật tại nơi tiếp công dân.

Bộ trưởng Bộ Công an chỉ đạo lực lượng công an có trách nhiệm phối hợp với các cơ quan Nhà nước trong việc bảo vệ trật tự, an toàn cho các trụ sở tiếp công dân, xử lý đối với các đối tượng vi phạm pháp luật ở nơi tiếp công dân.

 

CHƯƠNG V
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO

 

Điều 59. Thanh tra Nhà nước chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi thẩm quyền của Chính phủ. Nội dung quản lý Nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo bao gồm:

1. Soạn thảo để Chính phủ trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành các văn bản pháp luật về khiếu nại, tố cáo; trình Chính phủ ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo;

2. Tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khiếu nại, tố cáo;

3. Ban hành theo thẩm quyền các văn bản hướng dẫn các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cơ quan thanh tra Nhà nước các cấp, các ngành về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo;

4. Thanh tra, kiểm tra các cấp, các ngành trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo;

5. Thực hiện việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền;

6. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo;

7.Tổng hợp tình hình khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; báo cáo Chính phủ theo định kỳ hoặc đột xuất;

8.Tổng kết kinh nghiệm về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

 

Điều 60. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý Nhà nước về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi quản lý của mình; hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các cơ quan, tổ chức do mình quản lý trong việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo; thực hiện chế độ báo cáo về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định tại Điều 61 của Nghị định này.

 

Điều 61. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân địa phương trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; tạo điều kiện để các cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, tổ chức Thanh tra nhân dân giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo tại địa phương; định kỳ báo cáo công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo với Hội đồng nhân dân cùng cấp, cơ quan hành chính Nhà nước và cơ quan Thanh tra Nhà nước cấp trên, đồng thời thông báo đến Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp.

 

Điều 62.

1. Định kỳ 3 tháng một lần, chậm nhất là ngày 15 của tháng cuối quý, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương báo cáo Thủ tướng Chính phủ (qua Tổng Thanh tra Nhà nước) về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc phạm vi quản lý của Bộ, ngành, địa phương mình.

2. Tổng Thanh tra Nhà nước tổng hợp tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo trong phạm vi quản lý của Chính phủ và báo cáo định kỳ tại các phiên họp thường kỳ của Chính phủ vào tháng đầu mỗi quý hoặc báo cáo đột xuất khi Thủ tướng Chính phủ có yêu cầu; định kỳ thông báo đến Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo.

3. Trong trường hợp cần thiết, Tổng Thanh tra Nhà nước đề nghị Thủ tướng Chính phủ triệu tập lãnh đạo các cơ quan ở trung ương, địa phương họp đề xuất các biện pháp để Thủ tướng Chính phủ xem xét, chỉ đạo xử lý đối với các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều địa phương.

 

Điều 63. Thanh tra Nhà nước các cấp, các ngành có trách nhiệm:

1. Hướng dẫn cơ quan, tổ chức, đơn vị cùng cấp trong việc tiếp công dân, xử lý đơn khiếu nại, tố cáo, giải quyết khiếu nại, tố cáo, thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo;

2. Kiểm tra, thanh tra trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới của Thủ trưởng cùng cấp trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; trong trường hợp cần thiết, đề nghị Thủ trưởng cùng cấp triệu tập Thủ trưởng cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới họp để đề xuất biện pháp tổ chức chỉ đạo, xử lý đối với các vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp;

3. Khi phát hiện có vi phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo thì xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý;

4. Kiến nghị các biện pháp nhằm chấn chỉnh công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc phạm vi quản lý của Thủ trưởng cùng cấp;

5. Tổng hợp tình hình khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của Thủ trưởng cùng cấp; thực hiện chế độ báo cáo hàng tháng theo quy định của Tổng Thanh tra Nhà nước.

 

CHƯƠNG VI
XỬ LÝ VI PHẠM PHÁP LUẬT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO

 

Điều 64. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, người tố cáo có công trong việc ngăn ngừa thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức, cá nhân thì được khen thưởng theo quy định của Nhà nước.

 

Điều 65. Thủ trưởng cơ quan Nhà nước trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:

1. Ra quyết định tạm đình chỉ thi hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo của Thủ trưởng cơ quan cấp dưới khi phát hiện việc giải quyết có vi phạm pháp luật;

2. Ra quyết định tạm đình chỉ công tác đối với công chức thuộc quyền quản lý cố tình cản trở hoặc không chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo hoặc không chấp hành yêu cầu của các cơ quan Thanh tra Nhà nước, của cơ quan Nhà nước cấp trên trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; áp dụng các biện pháp xử lý khác đối với người có một trong các hành vi quy định tại các Điều 96, 97 và Điều 100 của Luật Khiếu nại, tố cáo.

 

Điều 66. Cán bộ, công chức có một trong các hành vi quy định tại các Điều 96, 97, 98, 99 và Điều 100 của Luật Khiếu nại, tố cáo, nếu gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý bằng một trong các hình thức kỷ luật sau:

1. Khiển trách;

2. Cảnh cáo;

3. Hạ bậc lương;

4. Hạ ngạch;

5. Cách chức;

6. Buộc thôi việc.

 

Điều 67. Cán bộ, công chức đã gây ra thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo thì phải bồi thường; việc bồi thường thực hiện theo quy định tại Nghị định số 47/CP ngày 03 tháng 5 năm 1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức Nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, Nghị định số 97/1998/NĐ-CP ngày 17 tháng 11 năm 1998 của Chính phủ về xử lý kỷ luật và trách nhiệm vật chất đối với công chức và các quy định khác của pháp luật.

 

Điều 68.

1. Thủ trưởng cơ quan Nhà nước nếu thiếu trách nhiệm, nhiều lần để xảy ra vi phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong cơ quan do mình quản lý thì bị xử lý kỷ luật; nếu gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

2. Thủ trưởng cơ quan Nhà nước nếu thiếu trách nhiệm, không áp dụng các biện pháp cần thiết để thực hiện quyết định giải quyết khiếu nại, quyết định xử lý tố cáo thì bị xử lý kỷ luật; nếu gây hậu quả nghiêm trọng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

 

Điều 69. Người nào có một trong các hành vi quy định tại Điều 100 của Luật Khiếu nại, tố cáo, nếu chưa đến mức độ phạm tội thì bị cảnh cáo hoặc bị phạt tiền hay bị xử lý bằng hình thức khác theo quy định của Nghị định số 49/CP ngày 15 tháng 8 năm 1996 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự và các quy định khác của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

Người tiếp công dân, người giải quyết khiếu nại, tố cáo có quyền lập biên bản, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với người có hành vi vi phạm pháp luật khiếu nại, tố cáo. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân và cơ quan công an địa phương căn cứ vào biên bản và yêu cầu của người tiếp công dân, người giải quyết khiếu nại, tố cáo phải xử lý theo thẩm quyền và thông báo kết quả xử lý cho người có yêu cầu trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu.

CHƯƠNG VII
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

 

Điều 70. Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại của cá nhân, cơ quan, tổ chức nước ngoài, việc tố cáo và giải quyết tố cáo của cá nhân nước ngoài đang sinh sống, học tập, làm việc tại Việt Nam được áp dụng theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định này.

 

Điều 71. Khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong các doanh nghiệp Nhà nước được áp dụng theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định này, trừ các khiếu nại liên quan đến việc thực hiện hợp đồng lao động.

Khiếu nại quyết định hành chính trong hoạt động quản lý, điều hành của cấp trên đối với cấp dưới theo thứ bậc hành chính không giải quyết theo quy định của Nghị định này.

 

Điều 72. Những khiếu nại, tố cáo đã được thụ lý, đang được xem xét giải quyết trước ngày 01 tháng 01 năm 1999 mà chưa có quyết định giải quyết cuối cùng thì được tiếp tục giải quyết theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định này.

 

Điều 73. Tổng Thanh tra Nhà nước, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm tổ chức thực hiện Nghị định này.

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an căn cứ vào các quy định của Nghị định này sau khi thống nhất với Tổng Thanh tra Nhà nước hướng dẫn chi tiết việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quân đội và công an.

 

Điều 74. Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày kể từ ngày ký.

Nghị định 38/HĐBT ngày 28 tháng 1 năm 1992 của Hội đồng Bộ trưởng về việc thi hành Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 hết hiệu lực thi hành.

Những quy định trước đây trái với Nghị định này đều bãi bỏ.

LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết

THE GOVERNMENT
-------
SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM
Independence - Freedom - Happiness
------------
No: 67/1999/ND-CP
Hanoi, August 7, 1999
 
DECREE
DETAILING AND GUIDING THE IMPLEMENTATION OF THE LAW ON COMPLAINTS AND DENUNCIATIONS
THE GOVERNMENT
Pursuant to the Law on Organization of the Government of September 30, 1992;
Pursuant to the Law on Complaints and Denunciations of December 2, 1998;
At the proposal of the State Inspector General,
DECREES:
Chapter I
COMPLAINTS, SETTLEMENT OF COMPLAINTS ABOUT ADMINISTRATIVE DECISIONS, ADMINISTRATIVE ACTS
Section 1. COMPLAINTS AND HANDLING OF LETTERS OF COMPLAINT
Article 1.- A complaint shall be accepted and processed for settlement when it meets the following conditions:
1. The complainant must be the person whose legitimate rights and interests are directly affected by an administrative decision and/or an administrative act he/she complains about;
2. The complainant must be the person who has full capacity for his/her own acts according to the provisions of the Civil Code or who has yet the full capacity for his/her acts but is entitled to complain according to the provisions of law; in cases where he/she make complaint through his/her representative, the representative shall be subject to the provisions of Article 2 of this Decree;
3. The complainant must write a letter of complaint and file it to the right body competent to settle it within the statute of limitations and/or time limits prescribed by the Law on Complaints and Denunciations;
4. The complaint has yet come up with the final settlement decision;
5. The complaint has yet been accepted and processed for settlement by the court.
Article 2.-
1. Citizens who are minors or suffer from metal or other diseases being unable to perceive and control their own acts shall exercise their right to complaints through their representatives at law; when exercising the right to complaints, the representatives must produce papers proving to the competent State bodies their lawful representation.
Persons who are unable to make complaints by themselves due to their illness, old ages, physical handicaps or other objective reasons may authorize their representatives being their fathers, mothers, spouses, major offsprings or siblings to make the complaints; the authorization must be made in writing with certification by the commune-level People’s Committee of the locality where the authorizer or the authorized resides.
2. Agencies exercise their right to complaints through their representatives being the heads of such agencies.
3. Organizations exercise their right to complaints through their representatives being the heads of such organizations as defined in the decisions to establish such organizations or in their organization charter.
Article 3.- Where a complainant fails to lodge his/her complaints according to the statute of limitations due to his/her illness, natural calamities, enemy sabotage, being sent away on working or study mission in a distant locality or due to other objective reasons, such duration of interruption shall not be calculated into the statute of limitations for lodging complaint; the complainant shall have to prove such objective obstacles to the competent State bodies.
Article 4.- In the course of complaining, the complainant shall still have to abide by the administrative decision which he/she is complaining about except where such decision is suspended from execution under the provisions in Articles 35 and 42 of the Law on Complaints and Denunciations.
Article 5.- Upon receipt of letters of complaint, the State bodies shall handle them as follows:
1. For letters of complaint which fall under their handling competence and satisfy conditions prescribed in Article 1 of this Decree, the receiving agencies shall have to accept, process and settle them; where a letter of complaint is signed by many persons, such agencies shall have to guide the complainants to write separate letters of complaint;
2. For letters of complaint which fall under their handling competence but fail to satisfy conditions for being accepted, processed and settled according to the provisions in Article 1 of this Decree, the receiving agencies shall have to reply the complainants in writing, clearly stating the reasons therefor.
3. For letters of complaint, which contain both the complaints and the denunciations, the agencies which receive them shall handle the complaints according to the provisions at Point 1, Point 2 and Point 5 of this Article and the denunciation contents according to the provisions in Article 43 of this Decree;
4. For letters of complaint which fall under the handling competence of the subordinate authorities, but past the prescribed time-limit they have not been settled yet, the immediate superior bodies directly receiving them shall have to process and settle them;
5. For letters of complaint which do not fall under their handling competence and letters of complaint about matters which have been settled by the final decisions, the complaint-receiving bodies shall not have to process them but shall give written notification and instruction to the complainants. For one complained matter, only one notification is made; where a complainant sent together with the letter of complaint the original documents or papers relating to the complained matters and case, the complaint-receiving body shall return such documents and papers to the complainant.
Article 6.- The State agencies receiving letters of complaint conveyed by deputies of the National Assembly or the People’s Councils, the Vietnam Fatherland Front committees and the Front’s member organizations or press agencies shall have to process and settle complaints which fall under their respective handling competence and notify this to the agencies, organizations or individuals that have conveyed the letters of complaint; if the complaints do not fall under their handling competence, they shall return them to the complainants and notify such to the agencies, organizations or individuals that have conveyed such letters of complaint.
Article 7.- The State inspectorate, when receiving letters of complaint which fall under the handling competence of the head of the State administrative agency of the same level, shall have to consider and report them to the head of the State administrative agency of the same level for deciding the processing and settlement of such complaints.
Section 2. RESPONSIBILITIES OF THE HEADS OF THE STATE ADMINISTRATIVE BODIES IN SETTLING COMPLAINTS
Article 8.-
1. The presidents of the commune-level People’s Committees shall have to settle complaints falling under their competence according to the order and procedures prescribed in the Law on Complaints and Denunciations.
If realizing that the matters and cases complained about are clearly presented with enough grounds for settlement, the commune-level People’s Committee presidents shall issue decisions to settle them immediately.
If realizing that the matters and cases complained about are unclear and without adequate grounds for settlement, the commune-level People’s Committee presidents shall have to examine and verify them, meeting the complainants, the complained as well as people with involved rights and interests to make clear the matters complained about and the requests of the complainants before issuing decisions to settle the complaints. Basing themselves on the examination and verification results and the provisions of law, the commune-level People’s Committee presidents shall issue decisions to settle the complaints within the time-limits prescribed in the Law on Complaints and Denunciations.
2. The commune-level People’s Committee presidents shall have to send the complaint-settling decisions to the complainants, the complained, the person with involved rights and interests as well as the district-level People’s Committees; and make public the complaint-settling decisions, when necessary.
3. The commune-level People’s Committee presidents shall have to enforce and organize the enforcement of the legally effective decisions on settlement of complaints within their respective responsibilities.
Article 9.- Heads of the agencies under the district-level People’s Committees, heads of the agencies under the provincial/municipal Departments, and heads of the agencies under the ministries, the ministerial-level bodies as well as the agencies attached to the Government shall have to settle complaints falling under their respective jurisdiction. The complaints shall be settled according to the order and procedures prescribed in the Law on Complaints and Denunciations and to the provisions in Article 8 of this Decree.
Article 10.-
1. The district-level People’s Committee presidents shall have to settle complaints falling under their jurisdiction according to the order and procedures prescribed in the Law on Complaints and Denunciations.
a) With regard to complaints about their administrative decisions and/or administrative acts, the district-level People’s Committee presidents shall assign them to the heads of functional bodies under the district-level People’s Committees or the district-level chief inspectors to consider, make conclusions and propose the solution thereof;
b) With regard to complaints which have already been settled by the commune-level People’s Committee presidents or heads of the functional bureaus or bodies under the district-level People’s Committees, but further lodged, they shall be assigned to the district-level chief inspectors to make verification and conclusions thereon and propose solution thereof;
c) Basing themselves on the verification reports, conclusions and proposed solutions, the district-level People’s Committee presidents shall issue decisions to settle or authorize the chief inspectors of the same level to issue decisions to settle them according to the provisions in Clause 1, Article 20, this Decree and within the time-limits prescribed in the Law on Complaints and Denunciations.
2. The district-level People’s Committee presidents or chief inspectors authorized to issue the settling decisions shall have to send the complaint- settling decisions to the complainants, the complained, the persons with involved rights and interests and the provincial-level People’s Committees; and make public the complaint-settling decisions, when necessary.
3. The district-level People’s Committee presidents shall have to enforce and organize the enforcement of legally effective decisions on settlement of complaints within the ambit of their responsibilities; to inspect and urge the enforcement of the legally effective complaint-settling decisions by their subordinate bodies and units.
Article 11.-
1. The directors of the Departments of equivalent levels under the provincial-level People’s Committees (referred collectively to as the provincial/ municipal Department directors) shall have to settle complaints falling under their jurisdiction according to the order and procedures prescribed in the Law on Complaints and Denunciations.
a) With regard to complaints about the administrative decisions and/or administrative acts of their own and/or of officials and employees under their direct management, the provincial/municipal Department directors shall assign them to the heads of functional bureaus and bodies under the Departments or the Department chief inspectors to consider, make conclusions and propose solution thereof;
b) With regard to the complaints which have been settled by the heads of bodies under the Department but further lodged, they shall be assigned to the Department chief inspector to make verification and conclusions thereon, and propose solutions thereof;
c) Basing themselves on the verification results, conclusions and proposed solution of the complaints, the provincial/municipal Department directors shall issue decisions to settle them within the time-limits prescribed in the Law on Complaints and Denunciations.
2. The provincial/municipal Department directors shall have to send the complaint-settling decisions to the complainants, the complained, the persons with involved rights and interests and the persons competent to continue the settlement; and, when necessary, make public the complaint-settling decisions.
3. The provincial/municipal Department directors shall have to enforce and organize the enforcement of legally effective decisions on settlement of complaints; to inspect and urge the enforcement of the legally effective complaint-settling decisions by their subordinate bodies and units.
Article 12.-
1. The provincial-level People’s Committee presidents shall have to settle complaints falling under their jurisdiction according to the order and procedures prescribed in the Law on Complaints and Denunciations;
a) With regard to complaints about their own administrative decisions and/or acts, the provincial-level People’s Committee presidents shall assign them to the heads of the specialized agencies under the provincial-level People’s Committees or chief inspectors to consider, make conclusions and propose solutions thereof;
b) With regard to the complaints which have already settled by the district-level People’s Committee presidents or by the provincial-level Department directors but further lodged and which fall under their jurisdiction, the provincial-level People’s Committee presidents shall assign them to the provincial-level chief inspectors to make verifications and conclusions thereon and propose the solution thereof;
c) Basing themselves on the verification reports, conclusions and proposed solutions, the provincial-level People’s Committee presidents shall issue decisions or authorize the provincial-level chief inspectors to issue decisions to settle them according to the provisions in Clause 2, Article 20, this Decree, and within the time-limits prescribed in the Law on Complaints and Denunciations. The decisions on the settlement of complaints mentioned at Point a, Clause 1, this Article, shall be the first decisions on the settlement of complaints; the decisions on the settlement of complaints mentioned at Point b, Clause 1, this Article, shall be the final decisions on the settlement of such complaints.
2. The provincial-level People’s Committee presidents or chief inspectors authorized to issue settling decisions shall have to send the complaint-settling decisions to the complainants, the complained, the persons with involved rights and interests; if they are the final decisions they shall also be sent to the State Inspector General; if they are the first decisions on complaint settlement, they shall be addressed to the ministers, the heads of the ministerial-level agencies or the heads of the agencies attached to the Government, who are competent to continue the settlement of such complaints; and, when necessary, make public the complaint-settling decisions.
3. The provincial-level People’s Committee presidents shall have to enforce and organize the enforcement of legally effective complaint-settling decisions within the ambit of their responsibility; to inspect and urge the enforcement thereof by their subordinate agencies and units.
Article 13.-
1. The ministers, the heads of the ministerial-level agencies and the heads of the agencies attached to the Government shall have to settle complaints falling under their jurisdiction according to the order and procedures prescribed in the Law on Complaints and Denunciations.
a) With regard to complaints about administrative decisions and/or acts of their own, their officials and employees, the ministers, the heads of the ministerial-level agencies and the heads of the agencies attached to the Government shall assign them to the heads of Departments or functional agencies or the chief inspectors of the same level to consider, make conclusions and propose solution thereof;
b) With regard to complaints which have already been settled by heads of the agencies under the ministries, the ministerial-level agencies or the agencies attached to the Government, district-level People’s Committee presidents or provincial/municipal Department directors, but still further lodged, and which fall under their settling jurisdiction, they shall be assigned to the chief inspectors of the same level to make verification and conclusions thereon and propose the solution thereof;
c) Basing themselves on the verification reports, conclusions and proposed solutions, the concerned ministers, heads of the ministerial-level agencies or heads of the agencies attached to the Government shall issue decisions to settle the complaints within the time-limits prescribed in the Law on Complaints and Denunciations. The decisions settling complaints mentioned at Point a, Clause 1, this Article, shall be the first decisions; the decisions settling complaints mentioned at Point b, Clause 1, this Article, of the ministers or heads of the ministerial-level agencies shall be the final ones.
2. The ministers, the heads of the ministerial-level agencies and the heads of the agencies attached to the Government shall have to send the complaint-settling decisions to the complainants, the complained, the persons with involved rights and interests and the State Inspector General; and, when necessary, make public the complaint-settling decisions.
3. The ministers, the heads of the ministerial-level agencies and the heads of the agencies attached to the Government shall have to enforce and organize the enforcement of the legally effective complaint-settling decisions within the ambit of their responsibilities; to inspect and urge the enforcement thereof by agencies and units under their respective management.
Article 14.-
1. The State Inspector General shall have to settle complaints falling under their jurisdiction according to the order and procedures prescribed in the Law on Complaints and Denunciations.
2. The State Inspector General may be authorized to settle complaints falling under the Prime Minister’s settling jurisdiction; in case of divergence of opinions between the State Inspector General and ministers or heads of the ministerial-level agencies on the settlement, the State Inspector General shall report such to the Prime Minister for directing the settlement or propose the Prime Minister to issue the settling decisions.
Article 15.-
1. Persons who have issued the final decisions on complaint settlement, when detecting that such decisions had violated laws, causing damage to the interests of the State and/or the legitimate rights and interests of citizens, agencies and/or organizations, shall have to review such decisions so as to ensure that the settlement of complaints comply with the provisions of law.
2. The ministers, the heads of the ministerial-level agencies and the heads of the agencies attached to the Government, in the course of performing their State management functions, if detecting that the provincial-level People’s Committee presidents’ final decisions violated laws, thus causing damage to the State’s interests and/or the legitimate rights and interests of citizens, agencies and/or organizations, shall request the persons who have made such decisions to reconsider them; within 15 days, if such request is not met, they may apply measures according to their respective competence to have such request met or report it to the Prime Minister for consideration and decision.
3. The State Inspector General, in the course of inspecting and checking the observance of the legislation on complaints and denunciations, if detecting that the final decisions on settlement of complaints have violated laws causing damage to the State’s interests and/or the legitimate rights and interests of citizens, agencies and/or organizations, shall request the persons who have made such decisions to reconsider them; within 15 days, if the request is not met, he/she may apply measures according to his/her competence to have such request satisfied or propose them to the Prime Minister for consideration and decision.
4. The statute of limitations for making a request to review a final decision on complaint settlement as prescribed in Clauses 2 and 3 of this Article shall be 12 months after such decision takes effect.
Article 16.- The Prime Minister shall direct the settlement or issue decisions to settle complaints when so proposed by the State Inspector General in accordance with the provisions in Clause 2, Article 14 of this Decree.
Upon detecting that a final complaint-settling decision breached laws, causing damage to the State’s interests and/or the legitimate rights and interests of citizens, agencies and/or organizations, the Prime Minister shall direct the person who issued such settling decision or assign the State Inspector General, the concerned minister, head of the ministerial-level agency or agency attached to the Government to reconsider it and report thereon to the Prime Minister for decision.
Article 17.-
1. The heads of the State bodies shall have to direct, inspect and urge their subordinate agencies and units in promptly settling complaints falling under their respective competence.
2. The heads of the State bodies, when receiving complaints which fall under the settling jurisdiction of the immediate subordinate agencies and have been left unsettled beyond the prescribed time-limits, shall have to accept and process them for settlement and at the same to apply measures to deal with according to their respective competence or propose the competent bodies to deal with persons who have shown irresponsibility in or deliberately delayed the settlement of such complaints.
Article 18.- The complaint settlers shall have to issue complaint-settling decisions with the contents prescribed in Articles 38 and 45 of the Law on Complaints and Denunciations, and must not use notices, minutes of meetings or other forms of document as the substitutes for the complaint- settling decisions.
Article 19.-
1. In the course of settling complaints, if deeming that the cases are complicated and/or the enforcement of the complaint-settling decisions may meet with difficulties, the complaint settlers shall summon the complainants, the complained and, in case of necessity, the persons with involved rights and interests and representatives of concerned agencies to publicly announce the complaint-settling decisions.
2. When publicly announcing the complaint-settling decisions, the complaint settlers shall make known the contents of the complaints, the inspection and verification results, the legal bases for settlement of such complaints, the settlement of specific matters in the complaints; clearly point to the responsibilities of the complainants, the complained as well as the persons with involved rights and interests in abiding by the complaint- settling decisions.
Section 3. THE COMPLAINT SETTLEMENT AUTHORIZATION
Article 20.-
1. The district-level People’s Committee presidents shall issue decisions or authorize the district-level chief inspectors to issue decisions on settlement of complaints which have already been settled by the commune-level People’s Committee presidents but petitioned, except for cases of complicated unsettled and prolonged complaints.
2. The provincial-level People’s Committee presidents shall issue decisions or authorize the provincial-level chief inspectors to issue decisions on settlement of complaints which have already been settled by district-level People’s Committee presidents but petitioned, except for cases of complicated, unsettled and prolonged complaints.
3. The authorization to issue decisions on settlement of complaints as prescribed in Clauses 1 and 2 of this Article must be made in writing. The authorization documents shall be kept in the dossiers on complaint settlement.
Article 21.- The Prime Minister shall authorize the State Inspector General to settle complaints falling under the Prime Minister’s settling jurisdiction. In case of divergence of opinions onthe settlement of the complaints between the State Inspector General and the ministers or the heads of the ministerial-level agencies, the State Inspector General shall report such to the Prime Minister for directing or deciding the settlement.
Article 22.-
1. The authorizer shall have to urge and inspect the settlement of complaints by the authorized and have to be answerable before law for the authorized’s complaint-settling decisions.
2. The authorized shall perform the tasks and exercise the rights of the person who settle the complaints in subsequent times as prescribed in Articles 42 and 44 of the Law on Complaints and Denunciations and take responsibility before law and the authorizer for their settlement of complaints.
3. The authorized’s decisions on settlement of complaints shall be stamped with the seal of his/her agency and have the legal effect like the authorizer’s decisions on settlement of complaints. The complaint-settling decisions of the State Inspector General or the provincial-level chief inspectors shall be the final decisions.
Section 4. THE ENFORCEMENT OF COMPLAINT-SETTLING DECISIONS
Article 23.- The legally effective decisions on settlement of complaints must be strictly observed by individuals, agencies and organizations; persons who have issued complaint-settling decisions shall have to urge, inspect and apply necessary measures according to their competence or request the competent State bodies to apply necessary measures to ensure the strict observance of such decisions. In case of necessity, the complaint-settling decision makers may request the coordination of functional bodies in organizing the enforcement of such decisions.
Article 24.- Basing themselves on the contents of the competent persons’ decisions on settlement of complaints, the heads of the State bodies with administrative decisions and/or administrative acts being complained about shall have to:
1. Issue administrative decisions to replace or amend the complained administrative decisions and organize the enforcement of such decisions, terminate the complained administrative acts if the content of the complaint is true; compensate for damage caused, restore the victims’ legitimate rights and interests according to the provisions of law;
2. Explain to and request the complainants to strictly implement the complaint-settling decisions if the complaint contents are untrue; in case of necessity request the functional bodies to apply measures according to their competence to ensure the strict enforcement of the legally effective decisions on settlement of complaints.
Article 25.- The heads of the superior State bodies shall have to inspect and urge the fulfillment of obligations stipulated in Article 24 of this Decree by heads of the subordinate State bodies with administrative decisions and/or acts being complained about; if the responsible persons fail to strictly implement the complaint-settling decisions, they shall apply measures according to competence to compel the latter strictly implement such decisions; deal with or request the competent bodies to deal with persons who fail to implement the legally effective decisions on settlement of complaints.
Article 26.- The heads of concerned State bodies shall have to strictly comply with the contents of complaint-settling decisions related to their responsibility; coordinate with the heads of the State bodies mentioned in Articles 24 and 25 of this Decree in organizing the enforcement of the complaint-settling decisions.
Chapter II
COMPLAINTS AND SETTLEMENT OF COMPLAINTS ABOUT DISCIPLINARY DECISIONS AGAINST OFFICIALS AND EMPLOYEES IN THE STATE ADMINISTRATIVE BODIES
Section 1. COMPETENCE TO SETTLE COMPLAINTS ABOUT DISCIPLINARY DECISIONS
Article 27.- Complaints about disciplinary decisions shall be settled by heads of the agencies who have signed such decisions; in case of further complaints, the heads of the immediate higher agencies shall have to settle them.
Article 28.-
1. The district-level People’s Committee presidents and the provincial/municipal Department directors are competent to settle complaints about disciplinary decisions they have signed.
2. The provincial-level People’s Committee presidents are competent to:
a) Settle complaints about the disciplinary decisions they have signed;
b) Settle complaints about the disciplinary decisions, which have been settled for the first time by the district-level People’s Committee presidents or provincial/municipal Department directors but further petitioned. The decisions to settle the complaints this time shall be the final ones.
Article 29.- The ministers, the heads of the ministerial-level agencies and the heads of the agencies attached to the Government are competent to:
1. Settle complaints about the disciplinary decisions they have signed;
2. Settle complaints about the disciplinary decisions, which have already been settled for the first time by the heads of agencies under ministries, ministerial-level agencies or agencies attached to the Government but still further lodged. These complaint-settling decisions shall be the final ones.
Article 30.- The Minister-Head of the Government Commission for Organization and Personnel is competent to:
1. Settle complaints about the disciplinary decisions he/she has signed;
2. Settle complaints about disciplinary decisions, which have already been settled for the first time by the provincial-level People’s Committee presidents but still further lodged, except for complaints already settled by decisions of heads of the agencies attached to the Government, who are ministers. These complaint-settling decisions shall be the final ones.
Article 31.- The Prime Minister shall authorize the Minister-Head of the Government’s Commission for Organization and Personnel to settle complaints about disciplinary decisions, which have already been settled for the first time by ministers or heads of the ministerial-level agencies, but still further lodged; in case of divergence of opinions between the Minister-Head of the Government’s Commission for Organization and Personnel and ministers or heads of the ministerial-level agencies, the Minister-Head of the Government’s Commission for Organization and Personnel shall make proposal so that the Prime Minister can direct or decide the settlement. The complaint-settling decisions mentioned in this Article shall be the final ones.
Article 32.- The heads of the State bodies shall have to settle complaints about disciplinary decisions under their respective competence; in case of necessity, they may assign the personnel bodies or sections or the inspectorate of the same level to make verification and conclusions thereon, and propose solution thereof.
Section 2. PROCEDURES FOR SETTLING COMPLAINTS ABOUT DISCIPLINARY DECISIONS
Article 33.- Persons who have issued disciplinary decisions against their officials or employees, when receiving complaints about such decisions, shall have to consider and issue written settling decisions according to procedures prescribed in the Law on Complaints and Denunciations.
Article 34.- Where a disciplined employee disagrees with the first decision on settlement of his/her complaint and further lodges his/her complaint, the person competent to settle the complaint next shall have to consider and issue a written decision on the settlement of the complaint according to the provisions in Article 53 of the Law on Complaints and Denunciations.
Article 35.- Officials holding the position of department head or equivalent and lower levels and being forced to leave their jobs as a form of discipline, who have lodged complaints about such discipline but the persons competent to settle the first-time complaints still stick to such form of discipline, may, within 30 days from the date of receiving the complaint-settling decisions, further lodge their complaints to the person competent to settle them next or initiate an administrative lawsuit at court according to the provisions of law.
Article 36.- The minister-head of the Government’s Commission for Organization and Personnel shall base him/herself on the provisions of the Law on Complaints and Denunciations, this Decree and the provisions of legislation on State officials and employees to provide detailed guidance on the settlement of complaints about disciplinary decisions against officials and/or employees in the State administrative bodies.
Chapter III
DENUNCIATIONS AND SETTLEMENT THEREOF
Section 1. COMPETENCE TO SETTLE DENUNCIATIONS
Article 37.- Denunciations of law offenses by any persons shall be settled by the heads of the agencies in charge of such persons.
Denunciations of violations of the regulations on tasks and public duties by any persons shall be settled by the agencies in charge of such persons.
Denunciations of violations of the regulations on tasks and public duties by the heads or deputy-heads of any agencies shall be settled by the heads of the immediate superior bodies of such agencies.
Article 38.- Denunciations of law offenses related to the State management functions of any agency shall be settled by such agency.
Denunciations of criminal acts shall be settled by litigation agencies according to the provisions of legislation on criminal procedures.
Article 39.-
1. The commune-level People’s Committee presidents are competent to settle denunciations of law offenses committed by persons under their direct management.
2. The district-level People’s Committee presidents are competent to settle denunciations of law offenses committed by presidents and/or vice-presidents of the commune-level People’s Committees, by heads and/or deputy-heads of bureaus and/or sections under the district-level People’s Committees or by other persons they have appointed and managed directly.
3. The provincial/municipal Department directors are competent to settle denunciations of acts of law offenses by heads and/or deputy-heads of sections under the Departments and other persons they have appointed and managed directly.
4. The provincial-level People’s Committee presidents are competent to settle denunciations of law offenses by presidents and/or vice presidents of the district-level People’s Committees, directors and/or deputy directors of the provincial/municipal Departments and/or other persons they have appointed and managed directly.
5. The ministers, the heads of the ministerial-level agencies and heads of the agencies attached to the Government are competent to settle denunciations of law offenses by heads and/or deputy-heads of agencies and units under the ministries, the ministerial-level agencies and the agencies attached to the Government, and other persons they have appointed and managed directly.
6. The Prime Minister is competent to settle denunciations of law offenses by ministers, vice-ministers, heads and/or deputy heads of the ministerial-level agencies and the agencies attached to the Government, presidents and/or vice-presidents of the provincial-level People’s Committees and other persons he/she has appointed and managed directly.
Article 40.-
1. The district-level chief inspector is competent:
a) To verify and conclude on the denunciation contents, propose measures to handle denunciations under the settling competence of the district-level People’s Committee presidents, when so assigned;
b) To consider and conclude on the denunciation contents which have already been settled by the commune-level People’s Committee presidents but in contravention of law; in case of a law violation in the settlement, as concluded, to propose the persons who have settled the case to reconsider and resettle them.
2. The provincial/municipal Department chief inspector is competent:
a) To verify and conclude on the denunciation contents and propose measures for handling denunciations falling under the settling competence of the provincial/municipal Department directors, when so assigned;
b) To consider and conclude on denunciation contents which have already been settled by heads of agencies under the provincial/municipal Departments but in contravention of law; in case of a law violation in the settlement, as concluded, to propose the persons who have settled the case to reconsider and resettle them.
3. The provincial-level chief inspector is competent:
a) To verify and conclude on the contents of denunciation, propose measures to handle denunciations under the settling jurisdiction of the provincial-level People’s Committee president, when so assigned;
b) To consider and conclude on the contents of denunciations, which have already been settled by district-level People’s Committee presidents or by provincial/municipal Department directors, but in contravention of law; in case of law violations in the settlement as concluded, to propose the persons who have settled the case to reconsider and re-settle them.
4. Chief inspectors of the ministries, the ministerial-level agencies and the agencies attached to the Government are competent:
a) To consider and conclude on the contents of denunciations, propose measures to handle denunciations falling under the settling jurisdiction of the ministers, the heads of the ministerial-level agencies or the heads of the agencies attached to the Government;
b) To consider and conclude on the contents of denunciations, which have already been settled by heads of agencies under the ministries, the ministerial- level agencies or under the agencies attached to the Government, but in contravention of law; in case of a law violation in the settlement, as concluded, to propose the persons who have settled the cases to reconsider and settle them again.
Article 41.- The State Inspector General is competent:
1. To verify and conclude on the contents of denunciations, propose measures to handle denunciations falling under the settling jurisdiction of the Prime Minister, when so assigned.
2. To consider and conclude on the contents of denunciations, which have already been settled by ministers, heads of the ministerial-level agencies, heads of the agencies attached to the Government or presidents of the provincial-level People’s Committees, but in contravention of law; in case of a law violation in the settlement, as concluded, to propose the persons who have settled the cases to review and re-settle them.
Article 42.- Within 30 days after receiving the proposals of the inspectorates as provided for at Point b of Clauses 1, 2, 3 and 4 of Article 40 and Clause 2, Article 41 of this Decree, the heads of the State bodies who have settled the denunciations shall have to implement them and notify the results to the inspectorates which have made such proposals.
Section 2. PROCEDURES TO SETTLE DENUNCIATIONS
Article 43.-
1. Upon receiving written denunciations, a State body shall have to classify and handle them as follows:
a) If the denunciations fall under its settling jurisdiction, it shall have to accept, process and settle them in strict accordance with the order and procedures prescribed in the Law on Complaints and Denunciations and this Decree;
b) If the denunciations do not fall under its jurisdiction, within 10 days from the date of receiving them, it shall have to transfer the written denunciations or the recorded oral denunciations as well as relevant documents and vouchers (if any) to the persons competent to settle them.
c) If the denunciations do not clearly inscribe names and addresses of the denouncers but their contents are clear with concrete evidences and with grounds for inspection and verification, the head of the competent State bodies shall decide the consideration and handling of such denunciations.
d/ The denunciation of a criminal act shall be handed to the investigation agency or the procuracy for handling according to Article 71 of the Law on Complaints and Denunciations.
2. Where a denounced act causes or threatens to cause serious damage to the interests of the State and/or collectives or to the lives and property of citizens, the bodies which have received the denunciations shall have to immediately report to the functional agencies for preventive measures.
3. Where heads of the State bodies at different levels or branches receive information that the denunciators have been threatened, maltreated for retaliation or revenged, they shall have to direct or coordinate with the concerned functional agencies in the verification of the information and take measures to protect the denouncers and prevent such acts and request the competent authorities to handle according to law those who have committed such acts of threatening, maltreatment or revenge against the denouncers.
Article 44.- Where a denouncer personally makes oral denunciation, the person receiving such denunciation shall have to clearly record the content of denunciation as well as full name and address of the denouncer; when necessary, the oral denunciation shall be tape-recorded. The content of the denunciation must be re-read or re-heard by the denouncer before he/she signs it for confirmation. The oral denunciations shall be handled like the written denunciations as provided for in Article 43 of this Decree.
Article 45.- When receiving information and/or documents supplied by the denouncers, the denounced, agencies, organizations and/or individuals, the persons who settle the denunciations shall have to issue receipts thereof with the signatures of both the recipients and the suppliers.
Article 46.- Persons competent to settle denunciations or heads of the agencies tasked to make verification shall have to issue decisions to carry out the verification of denunciation contents; such a decision must clearly inscribe the person assigned the task of verification, the contents to be verified, the verification duration, the rights and responsibilities of the person conducting the verification.
Article 47.- In the course of settling the denunciation, the person assigned the task of verification shall have to create conditions for the denounced to make explanation and give evidence to prove the right and the wrong of the denunciation.
Article 48.- The gathering of documents and evidences in the course of verification and the settlement of denunciations must be recorded in writing and kept in the denunciation settlement dossiers.
Upon the completion of the verification, the person assigned the task of verification shall have to make a written conclusion on the denunciation content, with evidences to support his/her conclusion.
Article 49.- Basing themselves on the verification results and the conclusions on the denunciation contents, the persons who settle the denunciations shall handle the cases as follows:
1. Where the denounced did not breach the law and/or the regulations on tasks and public duties, there must be clear conclusions thereon and a written notice shall be addressed to the denounced as well as their managing agencies, and at the same time handle or propose the competent State bodies to handle the persons who have deliberately made untruthful denunciations;
2. Where the denounced have breached the law and/or regulations on tasks and public duties, being subject to disciplines and/or administrative sanction, the persons competent to settle denunciations shall handle them according to their competence or request the competent State bodies to handle them, and at the same time apply measures prescribed by law to ensure that the handling decisions and proposals are strictly implemented.
3. Where the denounced acts show signs of criminal offenses, the dossiers thereon shall be forwarded to the investigation bodies or the procuracies for settlement according to criminal procedures legislation.
Article 50.- The persons who settle denunciations shall have to send the written conclusions thereon and the denunciation-settling decisions to the investigation bodies and the immediate superior State bodies; notify the denouncers of the settlement results, if so requested, except for contents classified as the State secrets.
Chapter IV
ORGANIZING THE RECEPTION OF CITIZENS
Article 51.- The reception of citizens who come to lodge their complaints and denunciations, either verbal or written, shall be made at the citizen-receiving places.
The heads of the State bodies shall have to organize and manage the citizen-receiving places in their offices, to issue internal regulations on citizen reception, to arrange citizen-receiving places at convenient locations, and to ensure necessary material conditions for citizens to present their complaints and/or denunciations, to propose and report matters related to complaints and denunciations.
At the citizen-receiving places, the reception time-tables and rules must be posted up. The citizen-receiving time-table must clearly state the time and the titles of the persons who receive citizens. The citizen reception rules must clearly inscribe the responsibilities of the persons who receive citizens as well as the rights and obligations of the persons who come to make complaints and/or denunciations.
Article 52.-
1. The heads of the State bodies shall have to personally receive citizens periodically according to the provisions in Article 76 of the Law on Complaints and Denunciations; the citizen-receiving time-table must be made public to the citizens.
2. In addition to the periodical reception of citizens, the heads of the State bodies shall also have to receive them at their urgent request.
3. With regard to complaints under their jurisdiction, of which the contents are clear and specific with enough grounds to settle, the heads of the State bodies, when receiving citizens, shall reply them immediately; if the matters are complicated, requiring further study and consideration, they must clearly state the time-limit for settling them and the persons to contact later for settlement results.
4. The reception of citizens by the heads of the State bodies must be recorded in the citizen-receiving books and kept at the citizen-receiving places.
Article 53.- Persons who receive citizens must have books for recording and monitoring the citizen reception; request the citizens who come to make their complaints and/or denunciations to produce their personal papers, to truthfully present the matters and supply documents related to the contents of complaints and/or denunciations; in cases where many people come to complain about and/or denounce the same matter, the persons receiving citizens shall request them to nominate a representative to present the matters.
Article 54.- The settlement of complaints and denunciations at the citizen- receiving place shall be conducted as follows:
1. For written complaints, they shall be handled according to Article 5 of this Decree; where citizens come to make verbal complaints which fall under their agencies’ settling jurisdiction, the persons receiving the citizens shall guide them to write out their complaints or tape-record the complaint contents and request such citizens to sign their names or press their finger-prints thereon; if the matters complained about do not fall under the jurisdiction of their agencies, they shall have to guide the complainants to go to the right agencies which are competent to settle their complaints;
2. For denunciations, the persons receiving citizens shall have to accept, classify and handle them according to the provisions in Articles 43,44 and 45 of this Decree.
Article 55.- The State inspectorates at all levels, agencies of the Police, National Defense, Customs, Trade, Planning and Investment, Construction, Finance, Labor-War Invalids and Social Affairs, Organization-Personnel, Communications and Transport, Health, Education and Training, Agriculture and Rural Development , and Land Administration at the central and provincial levels shall have to organize the regular reception of citizens.
Other State bodies shall base themselves on the provisions in Chapter V of the Law on Complaints and Denunciations, this Decree as well as the situation on complaints and denunciations related to branches and fields under their management to arrange time to receive citizens.
Article 56.-
1. The organization of citizen reception by the Party Central Committee and the State at the citizen-receiving headquarters in Hanoi and Ho Chi Minh City shall comply with the Government’s Decree No. 89/CP of August 7, 1997 promulgating the Regulation on Citizen Reception.
2. The provincial-level People’s Committee president shall arrange a common place for the People’s Council, the People’s Committee, the delegation of National Assembly deputies and representatives of political organizations to receive citizens who come to make their complaints and/or denunciations; and appoint an official of the deputy-director of the Office or equivalent level to take charge of the citizen-receiving place in order to organize the implementation of the regular citizen reception regime.
Article 57.- With regard to complainants and denouncers who commit acts of causing public nuisances, thus affecting the security and public order as well as normal activities of State agencies and of responsible people, or committing other acts of violating the legislation on complaints and denunciations, the heads of the concerned State agencies and the persons in charge of the citizen-receiving offices shall request the police in charge of the area to take handling measures according to the provisions of law.
Article 58.- The heads of the State agencies shall have to closely coordinate with the head of the police offices in ensuring order and security at the citizen-receiving places.
The commune-level People’s Committee and the police offices in localities shall have to ensure safety of the citizen-receiving offices of the agencies in their respective localities; and shall, in case of necessity, apply measures according to their competence to handle persons who take advantage of complaining and denunciation to commit acts of law violation at the citizen-receiving places.
The Minister of Public Security shall direct the police forces to coordinate with the State agencies in ensuring order and safety for citizen-receiving offices and handling persons who break the law at the citizen-receiving places.
Chapter V
STATE MANAGEMENT OVER THE WORK OF COMPLAINT AND DENUNCIATION SETTLEMENT
Article 59.- The State inspectorate shall take responsibility before the Government for the exercise of the State management over the work of complaint and denunciation settlement within the scope of the Government’s jurisdiction. The contents of the State management over the work of complaint and denunciation settlement shall include:
1. Drafting legal documents on complaints and denunciations for the Government to submit to the National Assembly and the National Assembly Standing Committee for promulgation; submitting to the Government for promulgating documents guiding the implementation of the legislation on complaints and denunciations;
2. Propagating for and popularizing the legislation on complaints and denunciations;
3. Promulgating according competence documents guiding the ministries, the ministerial-level agencies, the agencies attached to the Government, the People’s Committee of the provinces and centrally-run cities, the State inspectorates at all levels and branches in the work of complaint and denunciation settlement;
4. Inspecting and controlling all levels and branches in the observance of law provisions on complaints and denunciations;
5. Conducting the complaint and denunciation settlement according to competence;
6. Training and fostering State officials in the work of citizen reception as well as the complaint and denunciation settlement;
7. Summing up the situation on complaints and denunciations and the settlement thereof; regularly or irregularly reporting such to the Government;
8. Reviewing the work of complaint and denunciation settlement in order to draw experience therefrom.
Article 60.- The ministries, the ministerial-level agencies, the agencies attached to the Government and the People’s Committees at all levels shall perform the State management over the work of complaint and denunciation settlement within the scope of their management; guide, urge and inspect the agencies and organizations under their respective management in the observance of legislation on complaints and denunciations; observe the regime of reporting on the work of complaint and denunciation settlement as prescribed in Article 61 of this Decree.
Article 61.- The presidents of the People’s Committees at all levels shall, within the scope of their functions, tasks and powers, have to coordinate with the local People’s Procuracies and People’s Courts in the work of complaint and denunciation settlement; create conditions for various agencies of the National Assembly, the People’s Councils, the National Assembly deputies, delegations of National Assembly deputies, People’s Council deputies, Fatherland Front Committees and the Front’s member organizations, and the People’s Inspectorates to supervise the observance of the legislation on complaints and denunciations in the localities; to periodically report the work of complaint and denunciation settlement to the People’s Councils of the same level, the State administrative bodies and the superior State inspectorates and at the same time notify such to the Fatherland Front Committees of the same level.
Article 62.-
1. One every three months, on the 15th of the last month of a quarter at the latest, the ministers, the heads of the ministerial-level agencies, the heads of the agencies attached to the Government and the presidents of the People’s Committees of the provinces and centrally-run cities shall report to the Prime Minister (through the State Inspector General) the work of complaint and denunciation settlement within the scope of management by their respective ministries, branches and localities.
2. The State Inspector General shall sum up the situation on complaint and denunciation settlement within the scope of the Government’s management and periodically report thereon at the regular meetings of the Government in the first month of every quarter or irregularly at the Prime Minister’s request; and periodically inform the Vietnam Fatherland Front Central Committee of the work of complaint and denunciation settlement.
3. In case of necessity, the State Inspector General shall propose the Prime Minister to convene meetings of leading officials of the central and local agencies to propose to the Prime Minister for consideration and direction measures to handle complicated cases of complaint and denunciation involving many branches, many localities.
Article 63.- The State inspectorate of all levels and all branches shall have to:
1. Guide the agencies, organizations and units of the same level in citizen reception, handling of written complaints and denunciations, settlement of complaints and denunciations, execution of decisions on settlement of complaints and decisions on handling of denunciations;
2. Supervise and inspect the responsibility of the heads of the subordinate agencies, organizations and units as well as of the heads of the same level in citizen reception, settlement of complaints and denunciations; in case of necessity, propose the heads of the same level to convene meetings of the heads of subordinate agencies, organizations and units to propose measures to organize the direction and handling of complicated complaints and denunciations.
3. Upon detection of any violation of the legislation on complaints and denunciations, handle them according to competence or request competent bodies to handle them.
4. Propose measures to improve the work of complaint and denunciation settlement under the scope of management of the heads of the same level;
5. Summarize the situation on complaints and denunciations and the settlement thereof by the heads of the same level; observe the regime of monthly reporting according to the regulations of the State Inspector General.
Chapter VI
HANDLING OF VIOLATIONS OF THE LEGISLATION ON COMPLAINTS AND DENUNCIATIONS
Article 64.- The agencies, organizations and individuals recording achievements in the settlement of complaints and denunciations and the denouncers with merits in preventing damage caused to the State, organizations and/or individuals shall be commended and rewarded according to the regulations of the State.
Article 65.- The heads of the State bodies shall, within their respective functions, tasks and powers, have to:
1. Issue decisions to suspend the execution of the decisions on settlement of complaints and/or decisions on handling of denunciations of the heads of the subordinate agencies when detecting that the settlement thereof has violated law;
2. Issue decisions to suspend the work of officials under their management, who have deliberately obstructed or refrained from the execution of the decisions on settlement of complaints, decisions on handling of denunications or refrained from meeting requests of the State inspectorate and/or the superior State agencies in the settlement of complaints and denunciations; apply other measures to persons who commit one of the acts prescribed in Articles 96,97 and 100 of the Law on Complaints and Denunciations.
Article 66.- State officials or employees having committed one of the acts prescribed in Articles 96, 97, 98, 99 and 100 of the Law on Complaints and Denunciations, if causing serious consequences, shall be examined for penal liability; if the violation is not serious to the extent of being examined for penal liability, the violator shall, depending on the nature and seriousness of the violations, be subject to one of the following discipline forms:
1. Reprimand;
2. Warning;
3. Lowering salary grade;
4. Demotion;
5. Dismissal from office;
6. Dismissal from job.
Article 67.- State officials or employees who have caused damage due to their acts of violating the legislation on complaints and denunciations shall have to make compensation therefor; the compensation shall comply with the provisions of Decree No. 47/CP of May 3, 1997 of the Government on settlement of compensation for damage caused by State officials or employees or competent persons of the ligitation bodies, Decree No. 97/1998/ND-CP of November 17, 1998 of the Government on disciplining and material liability of State officials, as well as other law provisions.
Article 68.-
1. Those heads of the State bodies, who, due to their lack of responsibility, let violations of the legislation on complaints and denunciations repeatedly occur in their agencies, shall be disciplined; if causing serious consequences, they shall be examined for penal liability.
2. Those heads of the State agencies who, due to their lack of responsibility, fail to apply necessary measures to enforce decisions on settlement of complaints and/or decisions on handling of denunications, shall be disciplined; if causing serious consequences, they shall be examined for penal liability.
Article 69.- Those who commit one of the acts defined in Article 100 of the Law on Complaints and Denunciations but not to the extent of a criminal offense shall be subject to warning, a fine or other punitive form as prescribed in Decree No. 49 of August 15, 1996 of the Government on sanctions against administrative violations in the field of security and order and other provisions of the legislation on handling of administrative violations.
Persons who receive citizens and persons who settle complaints and/or denunciations may make records and request competent bodies to administratively sanction those who commit acts of violating the legislation on complaints and denunciations. The presidents of the local People’s Committees and the local police offices shall base themselves on such records and request the persons who receive citizens or the persons who settle complaints and/or denunciations to handle such cases according to competence and notify the handling results to the requestors within 15 days from the date of receiving the request.
Chapter VII
IMPLEMENTATION PROVISIONS
Article 70.- The complaint lodging by and the settlement of complaints of, foreign individuals, agencies and organizations as well as the making of denunciations by or settlement of denunciations of, foreigners who are living, studying or working in Vietnam shall comply with the Law on Complaints and Denunciations and this Decree.
Article 71.- The complaint, denunciations and the settlement of complaints and denunciations in the State enterprises shall comply with the Law on Complaints and Denunciations and this Decree, except for complaints related to the performance of labor contracts.
The complaints about administrative decisions in the activities of management by the superior over the subordinate according to the administrative rankings shall not be settled according to this Decree.
Article 72.- Complaints and denunciations which have been accepted and are being processed for settlement before January 1st, 1999 without the final decisions shall continue to be settled according to the provisions of the Law on Complaints and Denunciations and this Decree.
Article 73.- The State Inspector General, the ministers, the heads of the ministerial- level agencies, the heads of the agencies attached to the Government and the presidents of the People’s Committees of the provinces and centrally-run cities shall have to organize the implementation of this Decree.
The Minister of Defense and the Minister of Public Security shall base themselves on the provisions of this Decree to provide detailed guidance on the settlement of complaints and denunciations within the army and the police after consulting with the State Inspector General.
Article 74.- This Decree takes effect 15 days after its signing.
Decree No. 38/HDBT of January 28, 1992 of the Council of Ministers on the implementation of the 1991 Ordinance on Citizens’ Complaints and Denunciations ceases to be effective.
All previous regulations contrary to this Decree shall be annulled.
 

 
ON BEHALF OF THE GOVERNMENT
PRIME MINISTER




Phan Van Khai

Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Nâng cao để xem đầy đủ bản dịch.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

Lược đồ

Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

Văn bản đã hết hiệu lực. Quý khách vui lòng tham khảo Văn bản thay thế tại mục Hiệu lực và Lược đồ.
văn bản TIẾNG ANH
Bản dịch tham khảo
Decree 67/1999/ND-CP DOC (Word)
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiếng Anh hoặc Nâng cao để tải file.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

* Lưu ý: Để đọc được văn bản tải trên Luatvietnam.vn, bạn cần cài phần mềm đọc file DOC, DOCX và phần mềm đọc file PDF.

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên

TẠI ĐÂY

văn bản cùng lĩnh vực
văn bản mới nhất