Nghị định 17/2006/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần

thuộc tính Nghị định 17/2006/NĐ-CP

Nghị định 17/2006/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần
Cơ quan ban hành: Chính phủ
Số công báo:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Số hiệu:17/2006/NĐ-CP
Ngày đăng công báo:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Loại văn bản:Nghị định
Người ký:Phan Văn Khải
Ngày ban hành:27/01/2006
Ngày hết hiệu lực:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày hết hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Áp dụng:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản để xem Ngày áp dụng. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Tình trạng hiệu lực:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Lĩnh vực: Đất đai-Nhà ở, Doanh nghiệp

TÓM TẮT VĂN BẢN

* Hướng dẫn thi hành Luật Đất đai - Ngày 27/01/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 17/2006/NĐ-CP sửa đổi một số nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2003. Theo đó, cho phép tất cả các đối tượng được ghi nợ số tiền sử dụng đất (trước đây chỉ cho phép ghi nợ đối với những đối tượng gia đình kinh tế khó khăn) và chỉ phải nộp cho Nhà nước số tiền còn nợ khi phát sinh thu nhập (chuyển nhượng, cho thuê...). Không chỉ cho ghi nợ các nghĩa vụ tài chính khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân, Nghị định còn cho phép ghi nợ thuế chuyển mục đích sử dụng đất trong trường hợp chuyển đất nông nghiệp thành đất ở tại khu vực nông thôn... Việc ghi nợ được tính bằng tiền, theo giá đất tại thời điểm ghi nợ. Khi thực hiện thu hồi đất nông nghiệp của nông dân, các địa phương phải đền bù bằng đất nông nghiệp, trong trường hợp không có đất nông nghiệp phải đền bù bằng đất phi nông nghiệp, phương án cuối cùng mới tính đến đền bù bằng tiền. Quy định này đặc biệt quan trọng trong trường hợp thu hồi đất để làm các khu công nghiệp. Nếu địa phương không còn đất nông nghiệp để đền bù cho người mất đất có thể đền bù cho họ bằng đất dịch vụ xung quanh khu công nghiệp, tạo điều kiện trực tiếp cho những nông dân này chuyển đổi nghề nghiệp. "Trong trường hợp buộc phải đền bù bằng tiền thì địa phương phải có phương án cụ thể về hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho người dân"... Trong trường hợp giá UBND tỉnh, thành phố quy định thấp hơn giá thị trường thì phải thành lập hội đồng định giá để đảm bảo nguyên tắc giá đền bù bằng giá thị trường tại thời điểm tính giá... Các dự án phát triển nhà tại các thành phố và thị xã vẫn tiếp tục không được phép chia lô bán nền nhưng cho phép các chủ đầu tư ở khu vực này có thể chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ dự án cho chủ đầu tư thứ cấp... Nghị định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.

Xem chi tiết Nghị định17/2006/NĐ-CP tại đây

tải Nghị định 17/2006/NĐ-CP

LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết
NGHỊ ĐỊNH

của Chính phủ số 17/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 2006

Về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định 

hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP

về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần

CHÍNH PHỦ

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ trưởng Bộ Tài chính,

NGHỊ ĐỊNH

Điều 1. Phạm vi sửa đổi, bổ sung
Nghị định này quy định việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai  (gọi là Nghị định số 181/2004/NĐ-CP), Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai (gọi là Nghị định số 182/2004/NĐ-CP); Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (gọi là Nghị định số 197/2004/NĐ-CP), Nghị định số 198/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất (gọi là Nghị định số 198/2004/NĐ-CP), Nghị định số 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 của Chính phủ về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần (gọi là Nghị định số 187/2004/NĐ-CP).
Điều 2. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP
1. Sửa đổi khoản 2 Điều 30 như sau:
"2. Việc chấp hành tốt pháp luật về đất đai của người xin giao đất, thuê đất đối với trường hợp người xin giao đất, thuê đất đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất trước đó để thực hiện các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Trên cơ sở bản tự kê khai của người xin giao đất, thuê đất về tất cả diện tích đất, tình trạng sử dụng đất đã được Nhà nước giao, cho thuê trước đó và tự nhận xét về chấp hành pháp luật về đất đai, Sở Tài nguyên và Môi trường nơi có đất đang làm thủ tục giao đất, cho thuê đất có trách nhiệm liên hệ với Sở Tài nguyên và Môi trường nơi có đất đã giao, đã cho thuê để xác minh mức độ chấp hành pháp luật về đất đai của người sử dụng đất trong quá trình thực hiện các dự án đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất.
Trường hợp người xin giao đất, thuê đất là tổ chức kinh tế không thuộc sở hữu nhà nước thì phải kê khai tất cả diện tích đất, tình trạng sử dụng đất mà Nhà nước đã giao, đã cho thuê đối với tổ chức kinh tế đó và các tổ chức kinh tế khác có cùng chủ sở hữu."
2. Bổ sung khoản 4 vào Điều 30 như sau:
“4. Suất đầu tư trên một đơn vị diện tích đất được tính bằng tổng số vốn đầu tư trên đất chia cho tổng diện tích đất của dự án. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương để quy định suất đầu tư tối thiểu trên một đơn vị diện tích đất phù hợp với từng loại dự án và từng địa bàn đầu tư làm căn cứ cho việc thẩm định dự án và thẩm định nhu cầu sử dụng đất của dự án đầu tư”.
3. Bổ sung điểm đ và điểm e vào khoản 2  Điều 36  như  sau:
“đ) Sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư thăm dò, khai thác khoáng sản theo quy định của pháp luật về đầu tư và pháp luật về khoáng sản; sử dụng đất để làm mặt bằng di dời các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ theo yêu cầu bảo vệ môi trường hoặc theo quy hoạch mà không thể bố trí vào khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế.
e) Sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ công cộng bao gồm các công trình giao thông, điện lực, thuỷ lợi, cấp nước, thoát nước, vệ sinh môi trường, thông tin liên lạc, đường ống dẫn xăng dầu, đường ống dẫn khí, giáo dục, đào tạo, văn hoá, khoa học kỹ thuật, y tế, thể dục, thể thao, chợ”.
4. Sửa đổi khoản 7 Điều 36 như sau:
“7. Không được chuyển đất đã giao để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, xây dựng khu công nghiệp, làm mặt bằng sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp sang mục đích xây dựng kinh doanh nhà ở, đất ở trừ trường hợp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định tại Điều 37 của Luật Đất đai cho phép chuyển mục đích sử dụng đất và phù hợp với căn cứ chuyển mục đích sử dụng đất quy định tại Điều 31 của Luật Đất đai.”
5.  Sửa đổi điểm d và bổ sung điểm đ, điểm e, điểm g vào khoản 2 Điều 61 như sau:
“d) Trường hợp đất đưa ra đấu giá mà không có người tham gia hoặc đấu  giá ít nhất là hai lần nhưng không thành hoặc trường hợp chỉ có một nhà đầu tư lập dự án xin giao hoặc thuê một diện tích đất cụ thể để thực hiện dự án đầu tư phù hợp với quy hoạch;
đ) Các trường hợp sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư xây dựng nhà ở tái định cư, xây dựng nhà ở cho người nghèo và người có thu nhập thấp thuê hoặc mua, xây dựng nhà ở công vụ;
e) Trường hợp giao đất ở cho cán bộ, công chức chuyển nơi công tác theo quyết định điều động của cơ quan có thẩm quyền;
g) Đất chưa được bồi thường, giải phóng mặt bằng”.
6. Sửa đổi khoản 1 Điều 63 như sau:
“1. Doanh nghiệp nhà nước đang sử dụng đất do Nhà nước giao hoặc cho thuê mà thực hiện cổ phần hoá thì doanh nghiệp cổ phần hoá được quyền lựa chọn hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc thuê đất”.
7. Bổ sung khoản 7 vào Điều 84 như sau:
“7. Đơn vị sự nghiệp kinh tế tự đảm bảo chi phí hoạt động thường xuyên được cơ quan có thẩm quyền giao nhiệm vụ xây dựng kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, nếu được Nhà nước cho thuê đất để đầu tư xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp thì được cho thuê lại đất sau khi đã đầu tư kết cấu hạ tầng”.
8.  Sửa đổi khoản 1 Điều 101 như sau:
“1. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc cho thuê được quy định như sau:
a) Đối với các thành phố, thị xã, các khu đô thị mới của các thành phố, thị xã hoặc các khu đô thị mới được quy hoạch phát triển thành thành phố, thị xã, không cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân dưới hình thức bán nền mà chưa xây dựng nhà ở. Chủ đầu tư được chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho tổ chức kinh tế đối với diện tích đất đã hoàn thành việc đầu tư xây dựng đồng bộ hạ tầng theo dự án được xét duyệt hoặc theo dự án thành phần của dự án đầu tư đã được xét duyệt; tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải sử dụng đất đúng mục đích, đúng nội dung xây dựng và tiến độ ghi trong dự án đó;
b) Đối với các khu vực khác, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các dự án đầu tư kinh doanh nhà ở được thực hiện như quy định tại điểm a khoản này,      trường hợp có dự án đầu tư xây dựng đồng bộ hạ tầng khu dân cư thì chủ đầu tư phải hoàn thành đúng với nội dung dự án đã được xét duyệt thì mới được chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng đó cho tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân”.
9. Bổ sung Điều 111a như sau:
"Điều 111a. Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đối với trường hợp được giao đất ở, đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, đất để thực hiện các dự án đầu tư vì mục đích lợi nhuận mà được miễn hoặc giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất
1. Người được Nhà nước giao đất ở hoặc được Nhà nước cho thuê đất để thực hiện dự án xây dựng kinh doanh nhà ở mà được miễn hoặc giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thì có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về đất đai như trường hợp không được miễn hoặc không được giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất.
2. Người được Nhà nước giao đất để làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, đất để thực hiện các dự án đầu tư vì mục đích lợi nhuận mà được giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thì có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về đất đai như trường hợp không được miễn hoặc không được giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với loại đất có mục đích sử dụng tương ứng.
3. Người được Nhà nước giao đất để làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, đất để thực hiện các dự án đầu tư vì mục đích lợi nhuận mà được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thì có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về đất đai như trường hợp Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm đối với loại đất có mục đích sử dụng tương ứng.
Trường hợp đang trong thời gian đầu tư xây dựng công trình mà người sử dụng đất không có khả năng tiếp tục thực hiện dự án thì Nhà nước thu hồi đất; tài sản đã đầu tư trên đất được xử lý theo quy định tại Điều 35 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP.
Trường hợp dự án đã hoàn thành giai đoạn xây dựng cơ bản mà nhà đầu tư không có khả năng tiếp tục thực hiện dự án thì được bán tài sản gắn liền với đất; người mua tài sản được tiếp tục thực hiện dự án và phải sử dụng đất theo đúng mục đích đã được xét duyệt".
10. Sửa đổi khoản 1 Điều 119 như sau:
"1. Hợp đồng hoặc giấy tờ khi người sử dụng đất thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc xác nhận của Ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao theo quy định sau:
a) Trường hợp chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất trong khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao thì phải có xác nhận của Ban quản lý khu công nghiệp, khu kinh tế, khu công nghệ cao;
b) Trường hợp không thuộc quy định tại điểm a khoản 1 Điều này thì phải có chứng nhận của công chứng nhà nước đối với tổ chức, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài; phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất đối với hộ gia đình, cá nhân; phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất cho bên tham gia là hộ gia đình, cá nhân và bên còn lại là tổ chức, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài".
11. Sửa đổi khoản 5, khoản 6 Điều 130 như sau:
“5. Trước khi hết thời gian thông báo ít nhất là hai mươi (20) ngày, Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm trình Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về quyết định thu hồi đất .
Trong thời hạn không quá năm (05) ngày làm việc kể từ ngày nhận được tờ trình, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm xem xét, ký và gửi cho Sở Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi đất. Quyết định thu hồi đất phải bao gồm nội dung thu hồi diện tích đất cụ thể đối với từng thửa đất do tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài sử dụng và nội dung thu hồi đất chung cho tất cả các diện tích đất do hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư sử dụng.
Trường hợp trên khu đất thu hồi có diện tích đất do hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng thì trong thời hạn không quá mười (10) ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định về thu hồi đất của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh  quyết định thu hồi diện tích đất cụ thể đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư sử dụng.
6. Sau khi có quyết định thu hồi đất của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Tổ chức phát triển quỹ đất hoặc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có trách nhiệm lập và trình phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng.
Trong thời hạn không quá mười lăm (15) ngày làm việc kể từ ngày nhận được tờ trình, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm xem xét, ký và gửi cho Tổ chức phát triển quỹ đất hoặc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định xét duyệt phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng”.
12. Bãi bỏ khoản 3 Điều 149
13. Sửa đổi khoản 3 Điều 163 như sau:
“3. Trong thời hạn không quá bốn mươi lăm (45) ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết đó thì có quyền khởi kiện ra Toà án nhân dân hoặc khiếu nại đến Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Trường hợp khiếu nại đến Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm giải quyết khiếu nại theo thời hạn quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng, phải được công bố công khai và gửi cho người khiếu nại, người khác có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan”.
14. Sửa đổi khoản 3 Điều 164 như sau:
“3. Trong thời hạn không quá bốn mươi lăm (45) ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết đó thì có quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân”.
Điều 3. Sửa đổi khoản 7 Điều 7 của Nghị định số 182/2004/NĐ-CP như sau:
“7. Hình thức, mức độ xử phạt được xác định căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, hậu quả của hành vi vi phạm hành chính, nhân thân của người có hành vi vi phạm hành chính, tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng. Tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng được áp dụng theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính”.
Điều 4. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 197/2004/NĐ-CP
1. Sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 Điều 3 như sau:
“b) Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất đã ứng trước tiền để thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng thì được trừ số tiền đã bồi thường về đất, hỗ trợ về đất vào tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp cho Nhà nước; mức được trừ không vượt quá số tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp".
2. Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 9 như sau:
“1. Giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích đang sử dụng đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định và công bố; không bồi thường theo giá đất sẽ được chuyển mục đích sử dụng; trường hợp tại thời điểm có quyết định thu hồi đất mà giá này chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp”.
3. Bổ sung khoản 3 vào Điều 28 như sau:
“3. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất có mức sống thuộc diện hộ nghèo theo tiêu chí hộ nghèo do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội công bố trong từng thời kỳ thì được hỗ trợ để vượt qua hộ nghèo; mức hỗ trợ và thời gian hỗ trợ cụ thể do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định nhưng không dưới 3 năm và không quá 10 năm kể từ ngày hoàn thành việc thu hồi đất”.
4. Sửa đổi Điều 29 như sau:
“Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp mà không được Nhà nước bồi thường bằng đất nông nghiệp tương ứng thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm theo quy định sau đây:
1. Được giao đất có thu tiền sử dụng đất tại vị trí có thể làm mặt bằng sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ phi nông nghiệp; mức đất được giao do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào khả năng quỹ đất và mức đất bị thu hồi của từng hộ gia đình, cá nhân để quy định; giá đất được giao bằng giá đất nông nghiệp tương ứng cộng với chi phí đầu tư hạ tầng trên đất nhưng không cao hơn giá đất tại thời điểm thu hồi đất đã được Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định và công bố;
2. Trường hợp đặc biệt không có đất để bố trí như quy định tại khoản 1 Điều này thì những thành viên trong hộ gia đình còn trong độ tuổi lao động được hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp; mức hỗ trợ cụ thể do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định phù hợp với thực tế ở địa phương; việc hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp được thực hiện chủ yếu bằng hình thức học nghề tại các cơ sở dạy nghề”.
5. Bổ sung khoản 3 vào Điều 36 như sau:
"3. Hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất ở phải tái định cư thì việc bố trí tái định cư phải gắn với tạo việc làm hoặc chuyển đổi nghề nghiệp theo quy định sau đây:
a) Nếu là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp mà không được Nhà nước bồi thường bằng đất nông nghiệp tương ứng với đất nông nghiệp đã bị thu hồi thì việc bố trí tái định cư được gắn với giao đất làm mặt bằng sản xuất, dịch vụ phi nông nghiệp như quy định tại khoản 1 Điều 29 của Nghị định này;
b) Nếu là hộ gia đình, cá nhân sản xuất, dịch vụ phi nông nghiệp thì việc tái định cư phải gắn với tạo việc làm từ sản xuất, dịch vụ phi nông nghiệp; trường hợp đặc biệt không có đất đủ điều kiện để tái định cư gắn với tạo việc làm từ sản xuất, dịch vụ phi nông nghiệp thì hộ gia đình, cá nhân được hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 29 của Nghị định này”.
6. Sửa đổi khoản 2 Điều 48 như sau:
“2. Kinh phí đảm bảo cho việc tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được trích không quá 2% tổng số kinh phí bồi thường, hỗ trợ của dự án; mức cụ thể do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định phù hợp với thực tế ở địa phương và tùy theo quy mô, tính chất, đặc điểm của từng loại dự án; việc chi tiêu, thanh quyết toán được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Tổ chức phát triển quỹ đất hoặc Hội đồng bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cấp huyện khi thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho nhiều dự án trên địa bàn thì có thể cân đối mức kinh phí được trích của từng dự án cho phù hợp với thực tế nhưng phải bảo đảm tổng kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của các dự án không quá 2% tổng số kinh phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của các dự án đó”.
Điều 5. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 198/2004/NĐ-CP
1. Sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 4 như sau:
“2.Giá đất tính thu tiền sử dụng đất là giá đất theo mục đích sử dụng đất được giao đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định và công bố; trường hợp tại thời điểm giao đất mà giá này chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp”.
2. Sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 2 Điều 6 như sau:
"a) Chuyển từ đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở thuộc khu dân cư không được công nhận là đất ở sang làm đất ở thì thu tiền sử dụng đất bằng 50% chênh lệch giữa thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất ở với thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất nông nghiệp;
Trường hợp hộ gia đình, cá nhân được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng đất từ đất vườn, ao không được công nhận là đất ở hoặc đất nông nghiệp sang đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp thì thu tiền sử dụng đất bằng chênh lệch giữa thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp với thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất nông nghiệp".
3. Sửa đổi, bổ sung khoản 4 Điều 11 như sau:
"4. Không áp dụng miễn, giảm tiền sử dụng đất trong trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất; chuyển từ hình thức thuê đất sang hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh, trừ trường hợp khi chuyển sang hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất thuộc đối tượng được miễn tiền sử dụng đất quy định tại Điều 12 của Nghị định số 198/2004/NĐ-CP".  
4. Bổ sung khoản 4 và khoản 5 vào Điều 15 như sau:
“4. Hộ gia đình, cá nhân được chuyển mục đích sử dụng từ đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở thuộc khu dân cư nhưng không được công nhận là đất ở hoặc chuyển mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất ở phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 6 của Nghị định này và hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định tại Điều 8 của Nghị định này, nếu chưa đủ khả năng nộp tiền sử dụng đất cho Nhà nước thì được ghi nợ số tiền sử dụng đất phải nộp trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; số tiền sử dụng đất ghi nợ được tính theo giá đất tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Khi hộ gia đình, cá nhân thực hiện các giao dịch về quyền sử dụng đất (chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất), tặng cho quyền sử dụng đất đối với người ngoài diện thừa kế theo quy định của pháp luật dân sự (trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 110 của Luật Đất đai) hoặc được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi thì phải nộp cho Nhà nước số tiền còn nợ. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường nơi có đất có trách nhiệm chỉnh lý xoá số tiền nợ đã ghi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trong các trường hợp hộ gia đình, cá nhân đã nộp đủ tiền sử dụng đất còn nợ cho Nhà nước.
Các giao dịch về quyền sử dụng đất đối với đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn ghi nợ tiền phải nộp cho Nhà nước đều không có giá trị pháp lý.
5. Tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất để đầu tư được nộp tiền sử dụng đất theo tiến độ giao đất ghi trong dự án đầu tư đã được xét duyệt”.
5.  Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 17 như sau:
  "1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà đất đó đã sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nếu còn nợ tiền sử dụng đất thì được tiếp tục ghi nợ và phải nộp tiền sử dụng đất vào ngân sách nhà nước theo quy định tại khoản 4 Điều 15 của Nghị định này".
Điều 6. Sửa đổi điểm b khoản 1 Điều 19 của Nghị định số 187/2004/NĐ-CP như sau:
“b) Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hoá lựa chọn hình thức giao đất thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá theo giá đất đã được Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định và công bố; nếu giá này chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường tại thời điểm cổ phần hoá thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp. Trình tự và thủ tục giao đất, nộp tiền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định của pháp luật hiện hành về đất đai”.
Điều 7. Điều khoản thi hành
Nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Bãi bỏ các quy định trước đây trái với quy định của Nghị định này.
Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định này./.

TM. CHÍNH PHỦ

THỦ TƯỚNG

Phan Văn Khải

LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết

THE GOVERNMENT
-------

SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM
Independence - Freedom - Happiness
----------

No. 17/2006/ND-CP

Hanoi, January 27, 2006

 

DECREE

AMENDING AND SUPPLEMENTING A NUMBER OF ARTICLES OF THE DECREES GUIDING THE IMPLEMENTATION OF THE LAND LAW AND DECREE No. 187/2004/ND-CP ON TRANSFORMATION OF STATE COMPANIES INTO JOINT-STOCK COMPANIES

THE GOVERNMENT

Pursuant to the December 25, 2001 Law on Organization of the Government;

Pursuant to the November 26, 2003 Land Law;

At the proposal of the Minister of Natural Resources and Environment and the Minister of Finance,

DECREES:

Article 1.- Scope of amendment and supplementation

This Decree provides for amendment and supplementation of a number of articles of the Government’s Decree No. 181/2004/ND-CP of October 29, 2004, on the implementation of the Land Law (referred to as Decree No. 181/2004/ND-CP), Decree No. 182/2004/ND-CP of October 29, 2004, on handling of administrative violations in the land domain (referred to as Decree No. 182/2004/ND-CP), Decree No. 197/2004/ND-CP of December 3, 2004, on compensation, support and resettlement upon land recovery by the State (referred to as Decree No. 197/2004/ND-CP), Decree No. 198/2004/ND-CP of December 3, 2004, on collection of land use levies (referred to as Decree No. 198/2004/ND-CP), and Decree No. 187/2004/ND-CP of November 16, 2004, on transformation of state companies into joint-stock companies (referred to as Decree No. 187/2004/ND-CP).

Article 2.- To amend and supplement a number of articles of Decree No. 181/2004/ND-CP

1. To amend Clause 2 of Article 30 as follows:

“2. The good observance of land law by applicants for land allocation or land lease in cases where such applicants were previously allocated or leased land by the State for execution of production, business or service investment projects. Based on the land allocation or land lease applicants’ self-declarations about the entire areas and the use of land previously allocated or leased by the State and their self-remarks on the observance of land law, the Services of Natural Resources and Environment of the provinces or centrally run cities where exists the land for which land allocation or land lease procedures are being carried out shall contact the Services of Natural Resources and Environment of the provinces or centrally run cities where exists the allocated or leased land in order to verify land users’ observance of land law in the course of execution of projects to which the State has allocated or leased land.

Where land allocation or land lease applicants are non-state economic organizations, they must declare the entire areas and use of land which has been allocated or leased by the State to them and other economic organizations being co-owners.”

2. To add Clause 4 to Article 30 as follows:

“4. The investment ratio for a unit of land area shall be calculated as equal to the total capital invested on land divided by the total land area of the project. Provincial/municipal People’s Committees shall base themselves on local practical situation to set the minimum investment ratio for a unit of land area, suitable to each kind of project and each geographical area of investment, which shall serve as a basis for project evaluation and evaluation of land use demands of the investment project.”

3. To add Points e and f to Clause 2 of Article 36 as follows:

“e/ Using land for execution of investment projects on mineral exploration or exploitation according to the provisions of law on investment and law on minerals; using land as ground for relocation of production, business or service establishments at environmental protection requirements or under plannings, which cannot be arranged in industrial parks, hi-tech parks or economic zones.

f/ Using land for execution of infrastructure investment projects for public services, including works of traffic, power, irrigation, water supply and drainage, environmental sanitation,  communication, petrol and oil pipelines, gas pipelines, educational, training, cultural, scientific and technical, medical, physical training and sport facilities, and marketplaces.”

4. To amend Clause 7 of Article 36 as follows:

“7. Land already allocated for use for defense and security purposes, for national interests, public interests, for construction of industrial parks, or for use as ground for non-agricultural production and/or business activities must not be used for the purposes of building or dealing in dwelling houses or residential land, except cases where the competent state agencies defined in Article 37 of the Land Law permit the change of land use purposes and such change complies with the bases of land use purpose change, defined in Article 31 of the Land Law.”

5. To amend Point d, and add Points e, f and g to Clause 2 of Article 61 as follows:

“d/ Where land is put up for auction but there is no bidder or where the auction has been held at least twice but fails, or where only one investor formulates projects of application for allocation or lease of a certain land area for execution of investment projects in compatibility with plannings;

e/ Where land is used for execution of investment projects on construction of dwelling houses for resettlement, construction of dwelling houses for rent or purchase by poor people and low-income earners, or construction of official-duty houses;

f/ Where residential land is allocated to officials or public servants who move to other working places under competent agencies’ decisions;

g/ Where land  for which compensation or ground clearance has not been made.”

6. To amend Clause 1 of Article 63 as follows:

“1. If state enterprises currently using land allocated or leased by the State are equitized, they may choose the form of land allocation with collection of land use levies or land lease.”

7. To add Clause 7 to Article 84 as follows:

“7. For economic non-business units which can self-finance their regular activities and are tasked by competent agencies to build and deal in industrial-park infrastructure, if they are leased land by the State for investment in construction and commercial operation of industrial-park infrastructure, they may sub-lease the land after having invested in infrastructure.”

8. To amend Clause 1 of Article 101 as follows:

“1. The transfer of rights to use land of investment projects on construction of dwelling houses for sale or lease is specified as follows:

a/ For cities, provincial towns, new urban centers of cities or provincial towns, or new urban centers planned for development into cities or provincial towns, the transfer of land use rights to households or individuals in form of selling house foundations while houses have not yet been built is disallowed. Investors may transfer the land use rights to economic organizations for the land areas on which investment construction of infrastructure has been completed under approved projects or under component projects of approved investment projects; economic organizations being land use rights transferees must use the land for proper purposes strictly according to construction items and progress stated in such projects;

b/ For other geographical areas, the transfer of rights to use land of investment projects on commercial operation of dwelling houses shall comply with provisions of Point a of this Clause; where exist investment projects on construction of population-quarter infrastructure, investors must complete the projects strictly according to their approved contents before they can transfer the rights to use land associated with such infrastructure to economic organizations, households or individuals.”

9. To add Article 111a as follows:

“Article 111a.- Rights and obligations of land users in cases where they are allocated residential land, land for use as production and/or business ground or land for execution of investment projects for profit purposes, who are entitled to exemption from or reduction of land use levies or land rents

1. Persons who are allocated residential land or leased land by the State for execution of projects on construction and trading of dwelling houses, who are entitled to land use levy or land rent exemption or reduction, shall have the rights and obligations provided for by land law like the cases where they are not entitled to land use levy or land rent exemption or reduction.

2. Persons who are allocated land by the State for use as production and/or business ground, or for execution of investment projects for profit purposes, who are entitled to reduction of land use levies or land rents, shall have the rights and obligations provided for by land law like the cases where they are not entitled to land use levy or land rent exemption or reduction for land of categories with corresponding use purposes.

3. Persons who are allocated land by the State for use as production and/or business ground, or for execution of investment projects for profit purposes, who are entitled to land use levy or land rent exemption, shall have the rights and obligations provided for by land law like the cases where annual land rents are paid for State-leased land of categories with corresponding use purposes.

Where projects are in the process of construction investment but land users become incapable of continuing to execute the projects, the State shall recover the land; assets already invested on land shall be handled according to the provisions of Article 35 of Decree No. 181/2004/ND-CP.

Where projects are completed at the capital construction stage but investors become incapable of continuing to execute the projects, they may sell the assets affixed to the land; asset purchasers may continue executing the projects and must use the land strictly for the approved purposes.”

10. To amend Clause 1 of Article 119 as follows:

“1. Contracts or papers when land users exercise their rights to exchange, transfer, lease, sublease, inherit or donate land use rights, to mortgage, guarantee or contribute capital with land use rights, must be certified by notaries public, or authenticated by commune, ward or township People’s Committees, or certified by management boards of industrial parks, economic zones or hi-tech parks according to the following regulations:

a/ The transfer, lease or sublease of the rights to use land, mortgage, guarantee or capital contribution with the rights to use land in industrial parks, economic zones or hi-tech parks must be certified by management boards of such industrial parks, economic zones or hi-tech parks;

b/ For cases not defined at Point a, Clause 1 of this Article, certification of notaries public is required for organizations, overseas Vietnamese, foreign organizations or individuals; certification of public notaries or authentication of People’s Committees of communes, wards or townships where exists land is required for households or individuals; certification of public notaries or authentication of People’s Committees of communes, wards or townships where exists land is required for participants being households or individuals and other parties being organizations, overseas Vietnamese, foreign organizations or foreigners.”

11. To amend Clauses 5 and 6 of Article 130 as follows:

“5. At least twenty (20) days before the expiration of notification duration, provincial/municipal Services of Natural Resources and Environment shall have to submit land recovery decisions to provincial/municipal People’s Committees.

Within five (05) working days after receiving the submissions, provincial/municipal People’s Committees shall have to consider, sign and send the land recovery decisions to provincial/municipal Services of Natural Resources and Environment and People’s Committees of rural/urban districts or provincial towns or cities. The land recovery decisions must include contents on recovery of specific land areas of land plots used by organizations, religious establishments, overseas Vietnamese, foreign organizations or foreigners, and contents on land recovery applicable collectively to all land areas used by households, individuals or population communities.

Where land areas being used by households or individuals are included in the recovered land plots, within ten (10) working days after receiving the land recovery decisions from provincial/municipal People’s Committees, People’s Committees of rural/urban districts or provincial towns or cities shall decide on recovery of specific land areas used by households, individuals or population communities.

6. After obtaining land recovery decisions of provincial/municipal People’s Committees, land fund development organizations or People’s Committees of rural/urban districts or provincial towns or cities shall have to formulate and submit plans on compensation or ground clearance.

Within fifteen (15) working days after receiving the submissions, provincial/municipal People’s Committees shall have to consider, sign and send decisions on approval of compensation or ground clearance plans to land fund development organizations or People’s Committees of rural/urban districts or provincial towns or cities.”

12. To annul Clause 3 of Article 149.

13. To amend Clause 3 of Article 163 as follows:

“3. Within forty five (45) days after receiving settlement decisions of presidents of People’s Committees of rural/urban districts or provincial towns or cities, if complainants disagree with such decisions, they may initiate lawsuits at people’s courts or lodge their complaints with provincial/municipal People’s Committees.

Where complaints are lodged with provincial/municipal People’s Committees, presidents of provincial/municipal People’s Committees shall have to settle such complaints within the time limits set by the Law on Complaints and Denunciations. Complaint-settling decisions of provincial/municipal People’s Committee presidents shall be final, which must be published and sent to complainants and other persons with related interests and obligations.”

14. To amend Clause 3 of Article 164 as follows:

“3. Within forty five (45) days after receiving settlement decisions of provincial/municipal People’s Committee presidents, if complainants disagree with such decisions, they may initiate lawsuits at people’s courts.”

Article 3.- To amend Clause 7, Article 7 of Decree No. 182/2004/ND-CP as follows:

“7. Sanctioning forms and levels shall be determined on the basis of the nature and seriousness of violations, consequences of administrative violations, personal backgrounds of persons committing administrative violations, and extenuating and aggravating circumstances. Extenuating and aggravating circumstances shall apply according to the provisions of Articles 8 and 9 of the Ordinance on Handling of Administrative Violations.”

Article 4.- To amend and supplement a number of articles of Decree No. 197/2004/ND-CP

1. To amend and supplement Point b, Clause 1 of Article 3 as follows:

“b/ Organizations and individuals that are allocated land by the State with collection of land use levies or leased land and have advanced money for compensation or ground clearance support shall have such advanced money amounts subtracted from land use levies or land rents payable to the State; the to be-subtracted amounts must not exceed the payable land use levies or land rents.”

2. To amend and supplement Clause 1 of Article 9 as follows:

“1. Land prices for compensation calculation are land prices according to use purposes set and announced by provincial/municipal People’s Committees; compensation shall not be made at prices of land with use purposes to be changed; where such prices do, at the time of issue of land recovery decisions, not match actual market prices of land use rights transfer under normal conditions, provincial/municipal People’s Committees shall decide on proper specific land prices.”

3. To add Clause 3 to Article 28 as follows:

“3. Where households or individuals having land recovered are ranked as poor households according to the poverty line published in each period by the Ministry of Labor, War Invalids and Social Affairs, they shall receive supports for getting rid of poverty; the support levels and time shall be specified by provincial/municipal People’s Committees which, however, must be between 3 years and 10 years after the land recovery is completed.”

4. To amend Article 29 as follows:

“Households and individuals directly engaged in agricultural production, that have over 30% of agricultural land areas recovered but are not compensated with corresponding agricultural land by the State, shall receive supports for job change or job creation according to the following regulations:

1. They shall be allocated land with collection of land use levies at locations which can be used as ground for non-agricultural production or service-provision; land areas to be allocated shall be prescribed by provincial-level People’s Committees, based on the land fund and recovered land area of each household or individual; prices of to be-allocated land shall be equal to those of corresponding agricultural land plus expenses for investment in infrastructure on land which, however, must not be higher than land prices at the time of land recovery, set and announced by provincial-level People’s Committees;

2. In special cases where land provided for in Clause 1 of this Article is unavailable, family members who are still of the working age shall receive supports for job change training; specific support levels shall be set by provincial-level People’s Committees to suit local practical situation; supports for job change training shall be given mainly in form of job learning at job-training establishments.”

5. To add Clause 3 to Article 36 as follows:

“3. For households or individuals that have residential land recovered and have to move to resettlement zones, the resettlement must be associated with job creation or job change according to the following regulations:

a/ If they are households or individuals directly engaged in agricultural production but not compensated by the State with agricultural land corresponding to the recovered agricultural land, the resettlement shall be associated with allocation of land for use as ground for non-agricultural production or service-provision as specified in Clause 1, Article 29 of this Decree;

b/ If they are households or individuals engaged in non-agricultural production or service-provision, resettlement must be associated with job creation from non-agricultural production or service-provision; in special cases where land is unavailable for associating resettlement with job creation from non-agricultural production or service-provision, households or individuals shall receive supports for job change training according to the provisions of Clause 2, Article 29 of this Decree.”

6. To amend Clause 2 of Article 48 as follows:

“2. To be-deducted funds for the organization of compensation, support and resettlement shall not exceed 2% of the projects’ total funds for compensation and support; specific levels shall be decided by provincial-level People’s Committees to suit local practical situation, depending on the scale, nature and characteristics of projects of each type; spending, payment and settlement shall comply with the provisions of law.

District-level land fund development organizations or councils for compensation, support and resettlement may, when performing the work of compensation, support and resettlement for various projects in localities, balance to be-deducted fund of each project to suit practical situation but must ensure that the total fund for the organization of compensation, support and resettlement for a project shall not exceed 2% of the total fund for compensation, support and resettlement of such project.”

Article 5.- To amend and supplement a number of articles of Decree No. 198/2004/ND-CP

1. To amend and supplement Clause 2 of Article 4 as follows:

“2. Land prices for calculation and collection of land use levies are land prices based on the allocated-land use purposes, set and announced by provincial/municipal People’s Committees; where at the time of land allocation, such prices are not close to actual market prices of land use right transfer under normal conditions, provincial/municipal People’s Committees shall decide on suitable specific land prices.”

2. To amend and supplement Point a, Clause 2 of Article 6 as follows:

“a/ If they convert garden or pond land within the same land plots where exist dwelling houses in population quarters, which is not recognized as residential land, into residential land, the land use levies shall be collected at a level equal to 50% of the difference between the land use levies calculated at residential land prices and those calculated at agricultural land prices;

Where households or individuals are permitted by competent state agencies to convert garden or pond land, which is not recognized as residential land, or agricultural land into land for non-agricultural production and/or business purposes, the land use levies shall be collected at a level equal to the difference between the land use levies calculated at prices of land for non-agricultural production/business purposes and those calculated at agricultural land prices.”

3. To amend and supplement Clause 4 of Article 11 as follows:

“4. Land use levy exemption or reduction shall not apply in cases where land use rights are put up for auction to allocate land with collection of land use levies; where land lease is changed to land allocation with collection of land use levies for use for production and/or business purposes, except cases where the change to land allocation with collection of land use levies helps the subjects be entitled to land use levy exemption provided for in Article 12 of Decree No. 198/2004/ND-CP.”

4. To add Clauses 4 and 5 to Article 15 as follows:

“4. For households or individuals that are permitted to convert garden or pond land within the same land plots where exist dwelling houses in population quarters, which is not recognized as residential land, or to convert agricultural land into residential land, they shall have to pay land use levies according to the provisions of Article 6 of this Decree, and for households or individuals using land and granted land use right certificates but have to pay land use levies according to the provisions of Article 8 of this Decree, if they are incapable of paying land use levies to the State, the payable land use levies shall be booked as debts in their land use right certificates; such debt amounts shall be calculated at land prices at the time of grant of land use right certificates.

Where households or individuals make land use right transactions (transfer, lease, mortgage, pledge, capital contribution with land use rights), donate land use rights to non-heirs according to the provisions of the civil law (except cases defined at Point c, Clause 2, Article 110 of the Land Law), or are compensated with land upon land recovery by the State, they shall have to pay the debts to the State. Land use right registration offices under natural resources and environment sections of localities where exists the land shall have to write off debts in land use right certificates if households or individuals have fully paid the land use levy debts to the State.

Land use right transactions related to land with land use right certificates being inscribed with debts payable to the State shall not legally valid.

5. Economic organizations which are allocated land by the State with collection of land use levies for investment shall pay the land use levies according to the land allocation progress stated in approved investment projects.”

5. To amend and supplement Clause 1 of Article 17 as follows:

“1. For households or individuals having used land from October 15, 1993 to the effective date of this Decree, that have been granted land use right certificates but still have land use levy debts, such debts may continue to be booked and they must pay land use levies to the state budget according to the provisions of Clause 4, Article 15 of this Decree.”

Article 6.- To amend Point b, Clause 1, Article 19 of Decree No. 187/2004/ND-CP as follows:

“b/ If equitized enterprises choose the form of land allocation, the land use right value must be included in the value of such equitized enterprises at land prices set and announced by provincial/municipal People’s Committees; if such prices do not match actual market prices of land use right transfer under normal conditions at the time of equitization, provincial/municipal People’s Committees shall decide on suitable specific land prices. The order and procedures for land allocation, payment of land use levies and grant of land use right certificates shall comply with the current provisions of land law.”

Article 7.- Implementation provisions

This Decree takes effect 15 days after its publication in “CONG BAO.” To annul previous regulations which are contrary to those of this Decree.

Ministers, heads of ministerial-level agencies, heads of Government-attached agencies, and presidents of provincial/municipal People’s Committees shall have to implement this Decree.

The Ministry of Natural Resources and Environment and the Ministry of Finance shall guide the implementation of this Decree.

 

 

ON BEHALF OF THE GOVERNMENT 
PRIME MINISTER 





Phan Van Khai

 

Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Nâng cao để xem đầy đủ bản dịch.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

Lược đồ

Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Nâng cao để xem Nội dung MIX.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

văn bản TIẾNG ANH
Bản dịch tham khảo
Decree 17/2006/ND-CP DOC (Word)
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiếng Anh hoặc Nâng cao để tải file.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

* Lưu ý: Để đọc được văn bản tải trên Luatvietnam.vn, bạn cần cài phần mềm đọc file DOC, DOCX và phần mềm đọc file PDF.

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên

TẠI ĐÂY

văn bản cùng lĩnh vực

Thông tư 19/2005/TT-BXD của Bộ Xây dựng về việc hướng dẫn một số nội dung của Nghị đinh số 127/2005/NĐ-CP hướng dẫn thực hiện Nghị quyết số 23/2003/QH11 và Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH11 quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo XHCN trước ngày 01/7/1991

Đất đai-Nhà ở, Chính sách

văn bản mới nhất