Quyết định 3351/QĐ-BYT 2020 Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19

thuộc tính Quyết định 3351/QĐ-BYT

Quyết định 3351/QĐ-BYT của Bộ Y tế về việc ban hành Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 do chủng vi rút Corona mới (SARS-CoV-2)
Cơ quan ban hành: Bộ Y tế
Số công báo:Đang cập nhật
Số hiệu:3351/QĐ-BYT
Ngày đăng công báo:Đang cập nhật
Loại văn bản:Quyết định
Người ký:Nguyễn Trường Sơn
Ngày ban hành:29/07/2020
Ngày hết hiệu lực:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày hết hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Áp dụng:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản để xem Ngày áp dụng. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Tình trạng hiệu lực:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Lĩnh vực: Y tế-Sức khỏe, COVID-19

TÓM TẮT VĂN BẢN

Người mắc Covid-19 có thể không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng

Ngày 29/7/2020, Bộ Y tế đã ra Quyết định 3351/QĐ-BYT về việc ban hành Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 do chủng vi rút Corona mới (SARS-CoV-2).

Theo đó, thời gian ủ bệnh từ 2-14 ngày, trung bình từ 5-7 ngày, triệu chứng hay gặp là sốt, ho khan, mệt mỏi và đau cơ. Hầu hết người bệnh (khoảng hơn 80%) chỉ sốt nhẹ, ho, mệt mỏi, không bị viêm phổi và thường tự phục hồi sau khoảng 1 tuần. Tuy nhiên, một số trường hợp không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng nào.

Bên cạnh đó, đa số trẻ mắc COVID-19 có các biểu hiện lâm sàng nhẹ hơn người lớn hoặc không có triệu chứng, các dấu hiệu thường gặp ở trẻ em là sốt và ho hoặc các biểu hiện viêm phổi. Tuy nhiên, một số trẻ mắc COVID-19 có tổn thương viêm đa cơ quan tương tự bệnh Kawasaski: Sốt; Ban đỏ hoặc xung huyết giác mạc, hoặc phù nề niêm mạc miệng, bàn tay, chân; Suy tuần hoàn; Các biểu hiện tổn thương chức năng tim và tăng men tim;…

Ngoài ra, bệnh COVID-19 có các thể bệnh trên lâm sàng như sau: Thể không triệu chứng là người nhiễm SARS-CoV-2 được khẳng định bằng xét nghiệm realtime RT-PCR dương tính, nhưng không có triệu chứng lâm sàng; Mức độ nhẹ- Viêm đường hô hấp trên cấp tính; Mức độ vừa-Viêm phổi; Mức độ nặng- Viêm phổi nặng; Mức độ nguy kịch.

Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.

Xem chi tiết Quyết định3351/QĐ-BYT tại đây

LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết

BỘ Y TẾ
_____

Số: 3351/QĐ-BYT

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

________________________

Hà Nội, ngày 29 tháng 7 năm 2020

 

 

QUYẾT ĐỊNH

Về việc ban hành Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 do chủng vi rút Corona mới (SARS-Cov-2)

___________

BỘ TRƯỞNG BỘ Y TẾ

 

Căn cứ Nghị định số 75/2017/NĐ-CP ngày 20/6/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế;

Theo ý kiến của Hội đồng chuyên môn cập nhật, bổ sung Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị viêm hô hấp cấp tính do chủng vi rút Corona mới (nCoV) được thành lập tại Quyết định số 319/QĐ-BYt ngày 06/2/2020 của Bộ trưởng;

Theo đề nghị của Cục trưởng Cục Quản lý khám, chữa bệnh- Bộ Y tế,

 

QUYẾT ĐỊNH:

 

Điều 1. Ban hành kèm theo Quyết định này “Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị COVID-19 do chủng vi rút Corona mới (SARS-CoV-2)” thay thế “Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị viêm đường hô hấp cấp do SARS-CoV-2 (COVID-19)” ban hành kèm theo Quyết định số 1344/QĐ-BYT ngày 25/3/2020 của Bộ trưởng Bộ Y tế.

Điều 2. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký, ban hành.

Điều 3. Các Ông/Bà: Chánh Văn phòng Bộ, Cục trưởng Cục Quản lý Khám, chữa bệnh; Chánh Thanh tra; Tổng Cục trưởng, Cục trưởng, Vụ trưởng các Tổng Cục, Cục, Vụ thuộc Bộ Y tế; Giám đốc các Bệnh viện, Viện có giường bệnh trực thuộc Bộ Y tế; Giám đốc Sở Y tế các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Thủ trưởng y tế các ngành chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.

 

Nơi nhận:
- Như điều 3;
- Phó TTgCP. Vũ Đức Đam- Trưởng BCĐQG
Phòng CD COVID-19 (để báo cáo);
- Quyền Bộ trưởng (để báo cáo);
- Các Thứ trưởng (để phối hợp chỉ đạo);
- Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (để phối hợp);
- Cổng TTĐT Bộ Y tế; website Cục QLKCB;
- Lưu: VT; KCB.

KT.BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG





Nguyễn Trường Sơn
Trưởng Tiểu ban điều trị- Ban chỉ đạo QG PCD COVID-19

 

 

BỘ Y TẾ
_____

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

________________________

 

 

HƯỚNG DẪN

Chẩn đoán và điều trị COVID-19 do chủng vi rút Corona mới (SARS-Cov-2)

 (Ban hành kèm theo Quyết định số 3351/QĐ-BYT ngày 29 tháng 7 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Y tế)

_________________

 

I. ĐẠI CƯƠNG

Vi rút Corona (CoV) là một họ virút lây truyền từ động vật sang người và gây bệnh cho người từ cảm lạnh thông thường đến các tình trạng bệnh nặng, đe dọa tính mạng của người bệnh như Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS-CoV) năm 2002 và Hội chứng hô hấp Trung Đông (MERS-CoV) năm 2012. Từ tháng 12 năm 2019, một chủng vi rút corona mới (SARS-CoV-2) đã được xác định là căn nguyên gây dịch nhiễm trùng hô hấp cấp tính (COVID-19) tại thành phố Vũ Hán (tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc), sau đó lan rộng ra toàn Trung Quốc và cho tới nay hầu hết các nước trên thế giới. Ngày 11/3/2020, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã công bố COVID-19 là một đại dịch toàn cầu. Chủng SARS-CoV-2 ngoài lây truyền từ động vật sang người, còn lây trực tiếp từ người sang người chủ yếu qua giọt bắn đường hô hấp và qua đường tiếp xúc. Vi rút cũng có khả năng lây truyền qua đường không khí qua khí dung (aerosol), đặc biệt tại các cơ sở y tế và những nơi đông người và ở không gian kín. Cho tới nay, lây truyền theo đường phân-miệng chưa có bằng chứng rõ ràng.

Người bệnh COVID-19 có biểu hiện lâm sàng đa dạng: từ nhiễm không có triệu chứng, tới những biểu hiện bệnh lý nặng như viêm phổi nặng, suy hô hấp, sốc nhiễm trùng, suy chức năng đa cơ quan và tử vong, đặc biệt ở những người cao tuổi, người có bệnh mạn tính hay suy giảm miễn dịch với số lượng tế bào TCD4 giảm dưới 250 tế bào/mm3, người có D-Dimer tăng cao hoặc có đồng nhiễm hay bội nhiễm các căn nguyên khác như vi khuẩn, nấm.

Hiện nay chưa có thuốc đặc hiệu và chưa có vắc xin phòng COVID-19 nên chủ yếu là điều trị hỗ trợ và điều trị triệu chứng. Các biện pháp phòng bệnh chính là phát hiện sớm và cách ly ca bệnh.

II. CHẨN ĐOÁN

1. Định nghĩa ca bệnh

1.1. Trường hợp bệnh nghi ngờ

Bao gồm các trường hợp:

A. Người bệnh có sốt và/hoặc viêm đường hô hấp cấp tính không lý giải được bằng các nguyên nhân khác.

B. Người bệnh có bất kỳ triệu chứng hô hấp nào có tiền sử đến/qua/ở/về từ vùng dịch tễ* có bệnh COVID-19 trong khoảng 14 ngày trước khi khởi phát các triệu chứng HOẶC tiếp xúc gần (**) với trường hợp bệnh nghi ngờ hoặc xác định COVID-19 trong khoảng 14 ngày trước khi khởi phát các triệu chứng.

* Vùng dịch tễ: được xác định là những quốc gia, vùng lãnh thổ có ghi nhận ca mắc COVID-19 lây truyền nội địa, hoặc nơi có ổ dịch đang hoạt động tại Việt Nam theo “Hướng dẫn tạm thời giám sát và phòng, chống COVID-19” của Bộ Y tế và được cập nhật bởi Cục Y tế dự phòng.

** Tiếp xúc gần: bao gồm

- Tiếp xúc tại các cơ sở y tế, bao gồm: trực tiếp chăm sóc người bệnh COVID-19; làm việc cùng với nhân viên y tế mắc COVID-19; tới thăm người bệnh hoặc ở cùng phòng bệnh có người bệnh mắc COVID-19.

- Tiếp xúc trực tiếp trong khoảng cách ≤ 2 mét với trường hợp bệnh nghi ngờ hoặc xác định mắc COVID-19 trong thời kỳ mắc bệnh.

- Sống cùng nhà với trường hợp bệnh nghi ngờ hoặc xác định mắc COVID-19 trong thời kỳ mắc bệnh.

- Cùng nhóm làm việc hoặc cùng phòng làm việc với ca bệnh xác định hoặc ca bệnh nghi ngờ trong thời kỳ mắc bệnh.

- Cùng nhóm: du lịch, công tác, vui chơi, buổi liên hoan, cuộc họp ... với ca bệnh xác định hoặc ca bệnh nghi ngờ trong thời kỳ mắc bệnh.

- Di chuyển trên cùng phương tiện (ngồi cùng hàng, trước hoặc sau hai hàng ghế) với trường hợp bệnh nghi ngờ hoặc xác định mắc COVID-19 trong thời kỳ mắc bệnh.

1.2. Trường hợp bệnh xác định

Là trường hợp bệnh nghi ngờ hoặc bất cứ người nào có xét nghiệm dương tính với vi rút SARS-CoV-2 được thực hiện bởi các cơ sở xét nghiệm do Bộ Y tế cho phép khẳng định.

III. TRIỆU CHỨNG

1. Lâm sàng

- Thời gian ủ bệnh: từ 2-14 ngày, trung bình từ 5-7 ngày.

- Khởi phát: Triệu chứng hay gặp là sốt, ho khan, mệt mỏi và đau cơ. Một số trường hợp đau họng, nghẹt mũi, chảy nước mũi, đau đầu, ho có đờm, nôn và tiêu chảy.

- Diễn biến:

+ Hầu hết người bệnh (khoảng hơn 80%) chỉ sốt nhẹ, ho, mệt mỏi, không bị viêm phổi và thường tự hồi phục sau khoảng 1 tuần. Tuy nhiên một số trường hợp không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng nào.

+ Khoảng 14% số bệnh nhân diễn biến nặng như viêm phổi, viêm phổi nặng cần nhập viện, khoảng 5% cần điều trị tại các đơn vị hồi sức tích cực với các biểu hiện hô hấp cấp (thở nhanh, khó thở, tím tái, …), hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS), sốc nhiễm trùng, suy chức năng các cơ quan bao gồm tổn thương thận và tổn thương cơ tim, dẫn đến tử vong.

+ Thời gian trung bình từ khi có triệu chứng ban đầu tới khi diễn biến nặng thường khoảng 7-8 ngày.

+ Tử vong xảy ra nhiều hơn ở người cao tuổi, người suy giảm miễn dịch và mắc các bệnh mạn tính kèm theo. Ở người lớn, các yếu tố tiên lượng tăng nguy cơ tử vong là tuổi cao, điểm suy đa tạng SOFA cao khi nhập viện và nồng độ D-dimer > 1 μg/L.

- Thời kỳ hồi phục: Sau giai đoạn toàn phát 7-10 ngày, nếu không có ARDS bệnh nhân sẽ hết sốt các dấu hiệu lâm sàng dần trở lại bình thường và khỏi bệnh.

- Chưa có bằng chứng khác biệt về các biểu hiện lâm sàng của COVID-19 ở phụ nữ mang thai.

- Ở trẻ em, đa số trẻ mắc Covid-19 có các các biểu hiện lâm sàng nhẹ hơn người lớn, hoặc không có triệu chứng. Các dấu hiệu thường gặp ở trẻ em là sốt và ho, hoặc các biểu hiện viêm phổi. Tuy nhiên một số trẻ mắc Covid-19 có tổn thương viêm đa cơ quan tương tự bệnh Kawasaski: sốt; ban đỏ hoặc xung huyết giác mạc, hoặc phù nề niêm mạc miệng, bàn tay, chân; suy tuần hoàn; các biểu hiện tổn thương chức năng tim và tăng men tim; rối loạn tiêu hóa; rối loạn đông máu và tăng các chỉ số viêm cấp.

2. Xét nghiệm cận lâm sàng

Các xét nghiệm huyết học, sinh hóa máu thay đổi không đặc hiệu:

- Số lượng bạch cầu trong máu có thể bình thường hoặc giảm; số lượng bạch cầu lympho thường giảm, đặc biệt nhóm diễn biến nặng.

- Protein C phản ứng (CRP) bình thường hoặc tăng, procalcitonin (PCT) thường bình thường hoặc tăng nhẹ. Một số trường hợp có thể tăng nhẹ ALT, AST, CK, LDH.

- Trong các trường hợp diễn biến nặng có các biểu hiện suy chức năng các cơ quan, rối loạn đông máu, tăng D-dimer, rối loạn điện giải và toan kiềm.

3. X-quang và chụp cắt lớp (CT) phổi

- Ở giai đoạn sớm hoặc chỉ viêm đường hô hấp trên, hình ảnh X-quang bình thường.

- Khi có viêm phổi, tổn thương thường ở hai bên với dấu hiệu viêm phổi kẽ hoặc đám mờ (hoặc kính mờ) lan tỏa, ở ngoại vi hay thùy dưới. Tổn thương có thể tiến triển nhanh trong ARDS. Ít khi gặp dấu hiệu tạo hang hay tràn dịch, tràn khí màng phổi.

4. Xét nghiệm khẳng định căn nguyên

- Phát hiện SARS-CoV-2 bằng kỹ thuật real-time RT-PCR hoặc giải trình tự gene từ các mẫu bệnh phẩm.

IV. PHÂN LOẠI CÁC THỂ LÂM SÀNG

Bệnh COVID-19 có các thể bệnh trên lâm sàng như sau:

1. Thể không triệu chứng: là người nhiễm SARS-CoV-2 được khẳng định bằng xét nghiệm realtime RT-PCR dương tính, nhưng không có triệu chứng lâm sàng.

2. Mức độ nhẹ: Viêm đường hô hấp trên cấp tính

- Người bệnh nhiễm SARS-CoV-2 có các triệu chứng lâm sàng không đặc hiệu như như sốt, ho khan, đau họng, nghẹt mũi, mệt mỏi, đau đầu, đau mỏi cơ.

- Không có các dấu hiệu của viêm phổi hoặc thiếu ô xy.

3. Mức độ vừa: Viêm phổi

- Người lớn và trẻ lớn: bị viêm phổi (sốt, ho, khó thở, thở nhanh) và không có dấu hiệu viêm phổi nặng, SpO2 ≥ 90% khi thở khí trời.

- Trẻ nhỏ: trẻ có ho hoặc khó thở và thở nhanh. Thở nhanh được xác định khi nhịp thở ≥ 60 lần/phút ở trẻ dưới 2 tháng; ≥ 50 lần/phút ở trẻ từ 2 - 11 tháng; ≥ 40 lần/phút ở trẻ từ 1 - 5 tuổi) và không có các dấu hiệu của viêm phổi nặng.

- Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, tuy nhiên, hình ảnh X-quang, siêu âm hoặc CT phổi thấy hình ảnh viêm phổi kẽ hoặc phát hiện các biến chứng.

4. Mức độ nặng- Viêm phổi nặng

- Người lớn và trẻ lớn: sốt hoặc nghi ngờ nhiễm trùng hô hấp, kèm theo bất kỳ một dấu hiệu sau: nhịp thở > 30 lần/phút, khó thở nặng, hoặc SpO2 ≤ 93% khi thở khí phòng.

- Trẻ nhỏ: ho hoặc khó thở và có ít nhất một trong các dấu hiệu sau đây: Tím tái hoặc SpO2 < 90%; suy hô hấp nặng (thở rên, rút lõm lồng ngực);

+ Hoặc trẻ được chẩn đoán viêm phổi và có bất kỳ dấu hiệu nặng sau: không thể uống/bú được; rối loạn ý thức (li bì hoặc hôn mê); co giật. Có thể có các dấu hiệu khác của viêm phổi như rút lõm lồng ngực, thở nhanh (tần số thở/phút như trên).

- Chẩn đoán dựa vào lâm sàng, chụp X-quang phổi để xác định các biến chứng.

5. Mức độ nguy kịch

5.1. Hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS)

- Khởi phát: các triệu chứng hô hấp mới hoặc xấu đi trong vòng một tuần kể từ khi có các triệu chứng lâm sàng.

- X-quang, CT scan hoặc siêu âm phổi: hình ảnh mờ hai phế trường mà không phải do tràn dịch màng phổi, xẹp thùy phổi hoặc các nốt ở phổi.

- Nguồn gốc của phù phổi không phải do suy tim hoặc quá tải dịch. Cần đánh giá khách quan (siêu âm tim) để loại trừ phù phổi do áp lực thủy tĩnh nếu không thấy các yếu tố nguy cơ.

- Thiếu ô xy máu: ở người lớn, phân loại dựa vào chỉ số PaO2/FiO2 (P/F) và SpO2/FiO2 (S/F) khi không có kết quả PaO2:

+ ARDS nhẹ: 200 mmHg < P/F ≤300 mmHg với PEEP hoặc CPAP ≥5 cm H2O.

+ ARDS vừa: 100 mmHg <P/F ≤200 mmHg với PEEP ≥5 cmH2O).

+ ARDS nặng: P/F ≤100 mmHg với PEEP ≥ 5 cmH2O

+ Khi không có PaO2: S/F ≤315 gợi ý ARDS (kể cả những người bệnh không thở máy)

- Thiếu ô xy máu: ở trẻ em: dựa vào các chỉ số OI (chỉ số Oxygen hóa: OI=MAP*×FiO2×100/PaO2) (MAP*: áp lực đường thở trung bình) hoặc OSI (chỉ số Oxygen hóa sử dụng SpO2: OSI=MAP×FiO2×100/SpO2) cho người bệnh thở máy xâm nhập, và PaO2/FiO2 hay SpO2/FiO2 cho thở CPAP hay thở máy không xâm nhập (NIV):

+ NIV BiLevel hoặc CPAP ≥5 cmH2O qua mặt nạ: PaO2/FiO2≤ 300 mmHg hoặc SpO2/FiO2 ≤ 264

+ ARDS nhẹ (thở máy xâm nhập): 4 ≤OI<8 hoặc 5≤OSI<7,5

+ ARDS vừa (thở máy xâm nhập): 8 ≤OI<16 hoặc 7,5≤OSI<12,3

+ ARDS nặng (thở máy xâm nhập): OI ≥16 hoặc OSI ≥12,3

5.2. Nhiễm trùng huyết (sepsis)

- Người lớn: có dấu hiệu rối loạn chức năng các cơ quan:

+ Thay đổi ý thức: ngủ gà, lơ mơ, hôn mê

+ Khó thở hoặc thở nhanh, độ bão hòa ô xy thấp

+ Nhịp tim nhanh, mạch bắt yếu, chi lạnh, hoặc hạ huyết áp, da nổi vân tím

+ Thiểu niệu hoặc vô niệu

+ Xét nghiệm có rối loạn đông máu, giảm tiểu cầu, nhiễm toan, tăng lactate, tăng bilirubine…

- Trẻ em: khi nghi ngờ hoặc khẳng định do nhiễm trùng và có ít nhất 2 tiêu chuẩn của hội chứng đáp ứng viêm hệ thống (SIRS) và một trong số đó phải là thay đổi thân nhiệt hoặc số lượng bạch cầu bất thường.

5.3. Sốc nhiễm trùng

- Người lớn: hạ huyết áp kéo dài mặc dù đã hồi sức dịch, phải sử dụng thuốc vận mạch để duy trì huyết áp động mạch trung bình (MAP) ≥65 mmHg và nồng độ lactate huyết thanh >2 mmol/L.

- Trẻ em: sốc nhiễm trùng xác định khi có:

+ Bất kỳ tình trạng hạ huyết áp nào: khi huyết áp tâm thu < 5 bách phân vị hoặc > 2SD dưới ngưỡng bình thường theo lứa tuổi, hoặc (trẻ <1 tuổi: < 70 mmHg; trẻ từ 1-10 tuổi: < 70 + 2 x tuổi; trẻ > 10 tuổi: <90 mmHg).

+ Hoặc có bất kỳ 2-3 dấu hiệu sau: thay đổi ý thức, nhịp tim nhanh hoặc chậm (< 90 nhịp/phút hoặc >160 nhịp/phút ở trẻ nhũ nhi, và <70 nhịp/phút hoặc >150 nhịp/phút ở trẻ nhỏ); thời gian làm đầy mao mạch kéo dài (>2 giây); hoặc giãn mạch ấm/mạch nẩy; thở nhanh; da nổi vân tím hoặc có chấm xuất huyết hoặc ban xuất huyết; tăng nồng độ lactate; thiểu niệu; tăng hoặc hạ thân nhiệt.

5.4. Các biến chứng nặng- nguy kịch khác: nhồi máu phổi, đột quỵ, sảng. Cần theo dõi sát và áp dụng các biện pháp chẩn đoán xác định khi nghi ngờ và có biện pháp điều trị phù hợp.

V. CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT

- Cần chẩn đoán phân biệt viêm đường hô hấp cấp do SARS-CoV-2 (COVID-19) với viêm đường hô hấp cấp do các tác nhân hay gặp khác, bao gồm cả các tác nhân gây dịch bệnh nặng đã biết:

+ Vi rút cúm mùa (A/H3N2, A/H1N1, B), vi rút á cúm, vi rút hợp bào hô hấp (RSV), rhinovirus, myxovirrus, adenovirus.

+ Hội chứng cảm cúm do các chủng coronavirus thông thường.

+ Các căn nguyên khuẩn vi khuẩn hay gặp, bao gồm các các vi khuẩn không điển hình như Mycoplasma pneumonia etc.

+ Các căn nguyên khác có thể gây viêm đường hô hấp cấp tính nặng như cúm gia cầm A/H5N1, A/H7N9, A/H5N6, SARS-CoV, và MERS-CoV.

- Cần chẩn đoán phân biệt các tình trạng nặng của người bệnh (suy hô hấp, suy chức năng các cơ quan…) do các căn nguyên khác hoặc do tình trạng nặng của các bệnh lý mãn tính kèm theo.

VI. XÉT NGHIỆM CHẨN ĐOÁN, GIÁM SÁT VÀ BÁO CÁO CA BỆNH

- Các trường hợp bệnh nghi ngờ, cần làm xét nghiệm khẳng định nhiễm SARS-CoV-2.

- Lấy dịch đường hô hấp trên (dịch hầu họng & mũi họng) để xét nghiệm xác định vi rút bằng kỹ thuật realtime RT- PCR.

- Khi mẫu bệnh phẩm dịch đường hô hấp trên âm tính nhưng vẫn nghi ngờ về lâm sàng, cần lấy dịch đường hô hấp dưới (đờm, dịch hút phế quản, dịch rửa phế nang).

- Nếu người bệnh thở máy có thể chỉ cần lấy dịch đường hô hấp dưới.

- Không khuyến cáo sử dụng các xét nghiệm phát hiện kháng thể kháng SARS-CoV-2 để chẩn đoán đang mắc COVID-19.

- Những trường hợp bệnh nghi ngờ, kể cả ở những trường hợp đã xác định được tác nhân thông thường khác, cần làm xét nghiệm khẳng định để xác định SARS-CoV-2 ít nhất một lần.

- Cấy máu nếu nghi ngờ hoặc có nhiễm trùng huyết, nên cấy máu trước khi dùng kháng sinh. Cần xét nghiệm các căn nguyên vi khuẩn, vi rút khác nếu có các dấu hiệu lâm sàng nghi ngờ.

- Cần thực hiện đầy đủ các xét nghiệm cận lâm sàng và thăm dò thường quy tùy từng tình trạng người bệnh để chẩn đoán, tiên lượng và theo dõi người bệnh.

- Trường hợp xác định mắc COVID-19, cần lấy mẫu bệnh phẩm dịch hô hấp và xét nghiệm nhắc lại với khoảng cách mỗi 2-4 ngày hoặc ngắn hơn nếu cần thiết cho tới khi kết quả âm tính.

- Những trường hợp dương tính với SARS-CoV-2 cần báo cáo Bộ Y tế hoặc CDC địa phương.

- Xác định về mặt dịch tễ học liên quan đến các trường hợp dương tính với SARS-CoV-2 như: nơi sinh sống, nơi làm việc, đi lại, lập danh sách những người đã tiếp xúc trực tiếp, tuân thủ theo hướng dẫn giám sát và phòng, chống COVID-19 của Bộ Y tế.

VII. CÁC BIỆN PHÁP DỰ PHÒNG LÂY NHIỄM TỨC THÌ

Dự phòng lây nhiễm là một bước quan trọng trong chẩn đoán và điều trị người bệnh mắc COVID-19, do vậy cần được thực hiện ngay khi người bệnh tới nơi tiếp đón ở các cơ sở y tế. Các biện pháp dự phòng chuẩn phải được áp dụng ở tất cả các khu vực trong cơ sở y tế.

1. Tại khu vực sàng lọc & phân loại bệnh nhân.

- Cho người bệnh nghi ngờ đeo khẩu trang và hướng dẫn tới khu vực cách ly.

- Bảo đảm khoảng cách giữa các người bệnh ≥ 2 mét.

- Hướng dẫn người bệnh che mũi miệng khi ho, hắt hơi và rửa tay ngay sau khi tiếp xúc dịch hô hấp.

2. Áp dụng các biện pháp dự phòng giọt bắn.

- Cần đeo khẩu trang y tế nếu làm việc trong khoảng cách 2m với người bệnh.

- Ưu tiên cách ly người bệnh nghi ngờ ở phòng riêng, hoặc sắp xếp nhóm người bệnh cùng căn nguyên trong một phòng. Nếu không xác định được căn nguyên, xếp người bệnh có chung các triệu chứng lâm sàng và yếu tố dịch tễ. Phòng bệnh cần được bảo đảm thông thoáng.

- Khi chăm sóc gần người bệnh có triệu chứng hô hấp (ho, hắt hơi) cần sử dụng dụng cụ bảo vệ mắt.

- Hạn chế người bệnh di chuyển trong cơ sở y tế và người bệnh phải đeo khẩu trang khi ra khỏi phòng.

3. Áp dụng các biện pháp dự phòng tiếp xúc.

- Nhân viên y tế phải sử dụng các trang thiết bị bảo vệ cá nhân (khẩu trang y tế, kính bảo vệ mắt, găng tay, áo choàng) khi vào phòng bệnh và cởi bỏ khi ra khỏi phòng và tránh đưa tay bẩn lên mắt, mũi, miệng.

- Vệ sinh và sát trùng các dụng cụ (ống nghe, nhiệt kế) trước khi sử dụng cho mỗi người bệnh.

- Tránh làm nhiễm bẩn các bề mặt môi trường xung quanh như cửa phòng, công tắc đèn, quạt…

- Đảm bảo phòng bệnh thoáng khí, mở các cửa sổ phòng bệnh (nếu có).

- Hạn chế di chuyển người bệnh

- Vệ sinh tay

4. Áp dụng các biện pháp dự phòng lây truyền qua đường không khí.

- Các nhân viên y tế khi khám, chăm sóc người bệnh đã xác định chẩn đoán, hoặc/và làm các thủ thuật như đặt ống nội khí quản, hút đường hô hấp, soi phế quản, cấp cứu tim phổi… phải sử dụng các thiết bị bảo vệ cá nhân bao gồm đeo găng tay, áo choàng, bảo vệ mắt, khẩu trang N95 hoặc tương đương.

- Nếu có thể, thực hiện thủ thuật ở phòng riêng, hoặc phòng áp lực âm.

- Hạn chế người không liên quan ở trong phòng khi làm thủ thuật

VIII. ĐIỀU TRỊ

1. Nguyên tắc điều trị chung

- Phân loại người bệnh và xác định nơi điều trị theo các mức độ nghiêm trọng của bệnh:

+ Các trường hợp bệnh nghi ngờ (có thể xem như tình trạng cấp cứu): cần được khám, theo dõi và cách ly ở khu riêng tại các cơ sở y tế, lấy bệnh phẩm đúng cách để làm xét nghiệm đặc hiệu chẩn đoán xác định.

+ Trường hợp bệnh xác định cần được theo dõi và điều trị cách ly hoàn toàn.

+ Ca bệnh nhẹ (viêm đường hô hấp trên, viêm phổi nhẹ) điều trị tại các khoa phòng thông thường.

+ Ca bệnh nặng (viêm phổi nặng, nhiễm trùng huyết) cần được điều trị tại các phòng cấp cứu của các khoa phòng hoặc hồi sức tích cực.

+ Ca bệnh nặng-nguy kịch: (suy hô hấp nặng, ARDS, sốc nhiễm trùng, suy đa cơ quan) cần được điều trị hồi sức tích cực.

- Do chưa có thuốc đặc hiệu, điều trị hỗ trợ và điều trị triệu chứng là chủ yếu.

- Cá thể hóa các biện pháp điều trị cho từng trường hợp, đặc biệt là các ca bệnh nặng-nguy kịch.

- Có thể áp dụng một số phác đồ điều trị nghiên cứu được Bộ Y tế cho phép. bệnh.

- Theo dõi, phát hiện và xử trí kịp thời các tình trạng nặng, biến chứng của bệnh.

2. Các biện pháp theo dõi và điều trị chung

- Nghỉ ngơi tại giường, phòng bệnh cần được đảm bảo thông thoáng, có thể sử dụng hệ thống lọc không khí hoặc các biện pháp khử trùng phòng bệnh khác như đèn cực tím (nếu có).

- Vệ sinh mũi họng, có thể giữ ẩm mũi bằng nhỏ dung dịch nước muối sinh lý, xúc miệng họng bằng các dung dịch vệ sinh miệng họng thông thường.

- Giữ ấm

- Uống đủ nước, đảm bảo cân bằng dịch, điện giải.

- Thận trọng khi truyền dịch cho người bệnh viêm phổi nhưng không có dấu hiệu của sốc.

- Đảm bảo dinh dưỡng và nâng cao thể trạng, bổ xung vitamin nếu cần thiết. Với các người bệnh nặng - nguy kịch, áp dụng hướng dẫn dinh dưỡng của Hội Hồi sức cấp cứu và chống độc đã ban hành.

- Hạ sốt nếu sốt cao, có thể dùng paracetamol liều 10-15 mg/kg/lần, không quá 60 mg/kg/ngày cho trẻ em và không quá 2 gam/ngày với người lớn.

- Giảm ho bằng các thuốc giảm ho thông thường nếu cần thiết.

- Đánh giá, điều trị, tiên lượng các tình trạng bệnh lý mãn tính kèm theo (nếu có).

- Tư vấn, hỗ trợ tâm lý, động viên người bệnh.

- Theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu lâm sàng, tiến triển của tổn thương phổi trên phim X-quang và/hoặc CT phổi, đặc biệt trong khoảng ngày thứ 7-10 của bệnh, phát hiện các dấu hiệu tiến triển nặng của bệnh như suy hô hấp, suy tuần hoàn để có các biện pháp can thiệp kịp thời.

- Tại các cơ sở điều trị cần có các trang thiết bị, dụng cụ cấp cứu tối thiểu: máy theo dõi độ bão hòa ô xy, hệ thống/bình cung cấp ô xy, thiết bị thở ô xy (gọng mũi, mask thông thường, mask có túi dự trữ), bóng, mặt nạ, và dụng cụ đặt ống nội khí quản phù hợp các lứa tuổi.

3. Điều trị suy hô hấp

3.1. Liệu pháp ô xy và theo dõi

- Cần cho thở ô xy ngay với bệnh nhân viêm đường hô hấp cấp nặng có suy hô hấp, thiếu ô xy máu, sốc để đạt đích SpO2 > 94%.

- Ở người lớn nếu có các dấu hiệu cấp cứu (gắng sức nặng, rút lõm lồng ngực, tím tái, giảm thông khí phổi) cần làm thông thoáng đường thở và cho thở ô xy ngay để đạt đích SpO2 ≥ 94 % trong quá trình hồi sức. Cho thở ô xy qua gọng mũi (1-4 lít/phút), hoặc mask thông thường, hoặc mask có túi dự trữ, với lưu lượng ban đầu là 5 lít/phút và tăng lên tới 10-15 lít/phút nếu cần. Khi bệnh nhân ổn định hơn, điều chỉnh để đạt đích SpO2 ≥ 90 % cho người lớn, và SpO2 ≥ 92-95% cho phụ nữ mang thai.

- Với trẻ em, nếu trẻ có các dấu hiệu cấp cứu như khó thở nặng, tím tái, sốc, hôn mê, co giật..., cần cung cấp ô xy trong quá trình cấp cứu để đạt đích SpO2 ≥ 94%. Khi tình trạng trẻ ổn định, điều chỉnh để đạt đích SpO2 ≥ 90 %.

- Theo dõi sát tình trạng người bệnh để phát hiện các dấu hiệu nặng, thất bại với liệu pháp thở ô xy để có can thiệp kịp thời.

3.2. Điều trị suy hô hấp nguy kịch & ARDS

- Khi tình trạng giảm ô xy máu không được cải thiện bằng các biện pháp thở ô xy, SpO2 ≤ 92%, hoặc/và gắng sức hô hấp: có thể cân nhắc chỉ định thở thở ô xy dòng cao qua gọng mũi (High Flow Nasal Oxygen), CPAP, hoặc thở máy không xâm nhập BiPAP.

- Không áp dụng biện pháp thở máy không xâm nhập ở người bệnh có rối loạn huyết động, suy chức năng đa cơ quan, và rối loạn ý thức.

- Cần theo dõi chặt chẽ người bệnh để phát hiện các dấu hiệu thất bại để có can thiệp kịp thời. Nếu tình trạng thiếu ô xy không cải thiện với các biện pháp hỗ trợ hô hấp không xâm nhập, cần đặt ống nội khí quản và thở máy xâm nhập.

- Cần đặt ống nội khí quản bởi người có kinh nghiệm, áp dụng các biện pháp dự phòng lây nhiễm qua không khí khi đặt ống nội khí quản.

- Hỗ trợ hô hấp: áp dụng phác đồ hỗ trợ hô hấp trong ARDS cho người lớn và trẻ em. Chú ý các điểm sau:

+ Thở máy: áp dụng chiến lược thở máy bảo vệ phổi, với thể tích khí lưu thông thấp (4-8 ml/kg trọng lượng lý tưởng) và áp lực thì thở vào thấp (giữ áp lực cao nguyên hay Pplateau < 30 cmH2O, ở trẻ em, giữ Pplateau < 28 cmH2O). Thể tích khí lưu thông ban đầu 6 ml/kg, điều chỉnh theo sự đáp ứng của người bệnh và theo mục tiêu điều trị.

+ Chấp nhận tăng CO2, giữ đích pH ≥ 7.20.

+ Trường hợp ARDS nặng ở người lớn, cân nhắc áp dụng thở máy ở tư thế nằm sấp 12-16 giờ/ngày (nếu có thể).

+ Có thể áp dụng chiến lược PEEP cao cho ARDS vừa và nặng. Tùy theo độ giãn nở (compliance) của phổi để cài đặt PEEP phù hợp.

+ Tránh ngắt kết nối người bệnh khỏi máy thở dẫn tới mất PEEP và xẹp phổi. Nên sử dụng hệ thống hút nội khí quản kín.

+ Ở trẻ em và trẻ sơ sinh, có thể thở máy cao tần (HFOV-High Frequency Oscillatory Ventilation) sớm (nếu có), hoặc khi thất bại với thở máy thông thường. Không sử dụng HFOV cho người lớn.

+ Cần đảm bảo an thần, giảm đau thích hợp khi thở máy. Trong trường hợp ARDS vừa- nặng, có thể dùng thuốc giãn cơ, nhưng không nên dùng thường quy.

- Kiểm soát cân bằng dịch chặt chẽ, tránh quá tải dịch, đặc biệt ngoài giai đoạn bù dịch hồi sức tuần hoàn.

- Trường hợp thiếu ô xy nặng, dai dẳng, thất bại với các biện pháp điều trị thông thường, cân nhắc chỉ định và sử dụng các kỹ thuật trao đổi ô xy qua màng ngoài cơ thể (ECMO) cho từng trường hợp cụ thể và thực hiện ở những nơi có đủ điều kiện triển khai kỹ thuật này.

- Do ECMO chỉ có thể thực hiện được ở một số cơ sở y tế lớn, nên trong trường hợp cân nhắc chỉ định ECMO, các cơ sở cần liên hệ, vận chuyển người bệnh sớm và tuân thủ quy trình vận chuyển người bệnh do Bộ Y tế quy định.

4. Điều trị sốc nhiễm trùng

Áp dụng phác đồ điều trị sốc nhiễm trùng cho người lớn và trẻ em. Chú ý một số điểm sau:

4.1. Hồi sức dịch

- Sử dụng dịch tinh thể đẳng trương như nước muối sinh lý hay Ringer lactat. Tránh dùng các dung dịch tinh thể nhược trương, dung dịch Haes-steril, Gelatin để hồi sức dịch.

- Liều lượng:

+ Người lớn: truyền nhanh 250-500 ml, trong 15-30 phút đầu, đánh giá các dấu hiệu quá tải dịch sau mỗi lần bù dịch nhanh.

+ Trẻ em: 10-20 ml/kg, truyền tĩnh mạch nhanh trong 30-60 phút đầu, nhắc lại nếu cần thiết, đánh giá các dấu hiệu quá tải dịch sau mỗi lần bù dịch nhanh.

- Cần theo dõi sát các dấu hiệu của quá tải dịch trong khi hồi sức dịch như suy hô hấp nặng hơn, gan to, nhịp tim nhanh, tĩnh mạch cổ nổi, phổi có ran ẩm, phù phổi…nếu xuất hiện, cần giảm hoặc dừng truyền dịch.

- Theo dõi các dấu hiệu cải thiện tưới máu: huyết áp trung bình > 65 mgHg cho người lớn và theo lứa tuổi ở trẻ em; lượng nước tiểu (>0.5 ml/kg/giờ cho người lớn, và >1 ml/kg/giờ cho trẻ em), cải thiện thời gian làm đầy mao mạch, màu sắc da, tình trạng ý thức, và nồng độ lactat trong máu.

4.2. Thuốc vận mạch

Nếu tình trạng huyết động, tưới máu không cải thiện, cần cho thuốc vận mạch sớm.

- Người lớn: nor-adrenaline là lựa chọn ban đầu, điều chỉnh liều để đạt đích huyết áp động mạch trung bình (MAP) ≥ 65 mmHg và cải thiện tưới máu. Nếu tình trạng huyết áp và tưới máu không cải thiện hoặc có rối loạn chức năng tim dù đã đạt được đích MAP với dịch truyền và thuốc co mạch, có thể cho thêm dobutamine.

- Trẻ em: adrenaline là lựa chọn ban đầu, có thể cho dopamin, hoặc dobutamine. Trong trường hợp sốc giãn mạch (áp lực mạch hay chênh lệch huyết áp tối đa và tối thiểu >40 mmHg), cân nhắc cho thêm nor-adrenaline. Điều chỉnh liều thuốc vận mạch để đạt đích MAP > 50th bách phân vị theo lứa tuổi.

- Sử dụng đường truyền tĩnh mạch trung tâm để truyền các thuốc vận mạch. Nếu không có đường truyền tĩnh mạch trung tâm, có thể dùng đường truyền tĩnh mạch ngoại biên hoặc truyền trong xương. Theo dõi các dấu hiệu vỡ mạch và hoại tử.

- Có thể sử dụng các biện pháp thăm dò huyết động xâm nhập hoặc không xâm nhập tùy điều kiện tại mỗi cơ sở để đánh giá và theo dõi tình trạng huyết động để điều chỉnh dịch và các thuốc vận mạch theo tình trạng người bệnh.

4.3. Cấy máu và thuốc kháng sinh phổ rộng theo kinh nghiệm sớm trong vòng một giờ xác định sốc nhiễm trùng.

4.4. Kiểm soát đường máu, (giữ nồng độ đường máu từ 8-10 mmol/L), can xi máu, albumin máu, (truyền albumin khi nồng độ albumin < 30 g/L, giữ albumin máu ≥ 35 g/L).

4.5. Trường hợp có các yếu tố nguy cơ suy thượng thận cấp, hoặc sốc phụ thuộc catecholamine: có thể cho hydrocorticone liều thấp: Người lớn hydrocortisone 50 mg tiêm tĩnh mạch mỗi 6 giờ; trẻ em 2 mg/kg/liều đầu tiên, sau đó 0,5-1,0 mg/kg mỗi 6 giờ.

4.6. Truyền khối hồng cầu khi cần, giữ nồng độ huyết sắc tố ≥ 10 g/dl.

5. Điều trị hỗ trợ chức năng các cơ quan

Tùy từng tình trạng cụ thể của mỗi người bệnh để có các biện pháp hỗ trợ thích hợp.

- Hỗ trợ chức năng thận:

+ Đảm bảo huyết động, cân bằng nước và điện giải, thuốc lợi tiểu khi cần thiết.

+ Nếu tình trạng suy thận nặng, suy chức năng đa cơ quan và/hoặc có quá tải dịch, chỉ định áp dụng các biện pháp thận thay thế như lọc máu liên tục, lọc máu ngắt quãng, hoặc thẩm phân phúc mạc tùy điều kiện của cơ sở điều trị.

- Hỗ trợ chức năng gan: nếu có suy gan

- Điều chỉnh rối loạn đông máu: truyền tiểu cầu, plasma tươi, các yếu tố đông máu nếu cần thiết. Nếu D-dimer tăng từ 500- 1000 µg/L, sử dụng enoxaparine liều dự phòng; Nếu D-dimer tăng trên 1000 µg/L, dùng enoxaparine liều điều trị.

6. Các biện pháp điều trị khác

6.1. Thuốc kháng sinh

- Không sử dụng thuốc kháng sinh thường quy cho các trường hợp viêm đường hô hấp trên đơn thuần.

- Với các trường hợp viêm phổi, cấy máu và cấy đờm tìm vi khuẩn và cân nhắc sử dụng kháng sinh thích hợp theo kinh nghiệm có tác dụng với các tác nhân vi khuẩn có thể đồng nhiễm gây viêm phổi, (tùy theo lứa tuổi, dịch tễ, để gợi ý căn nguyên). Điều chỉnh kháng sinh thích hợp theo kháng sinh đồ khi có kết quả phân lập vi khuẩn.

- Nếu có tình trạng nhiễm trùng huyết, cần cho kháng sinh phổ rộng theo kinh nghiệm sớm, trong vòng một giờ từ khi xác định nhiễm trùng huyết. Điều chỉnh kháng sinh thích hợp khi có kết quả vi khuẩn và kháng sinh đồ.

- Các trường hợp nhiễm trùng thứ phát, tùy theo căn nguyên, đặc điểm dịch tễ, kháng kháng sinh để lựa chọn kháng sinh thích hợp.

6.2. Thuốc kháng vi rút

Hiện nay chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho SARS-CoV-2 và bằng chứng về hiệu quả, tính an toàn của các thuốc kháng vi rút ức chế sao chép ngược (Antiretroviral hay ARV) và các thuốc kháng vi rút khác (như Chloroquine/Hydroxychloroquine, Remdesivir, Ribavirin). (Bộ Y tế sẽ đưa ra khuyến cáo sau khi xem xét kết quả các thử nghiệm lâm sàng của thế giới và Việt Nam).

6.3. Corticosteroids toàn thân

- Không sử dụng các thuốc corticosteroids toàn thân thường quy cho viêm đường hô hấp trên hoặc viêm phổi do vi rút trừ khi có những chỉ định khác.

- Các trường hợp sốc nhiễm trùng, sử dụng hydrocortisone liều thấp nếu có chỉ định (xem phần điều trị sốc nhiễm trùng).

- Tùy theo tiến triển lâm sàng và hình ảnh X-quang phổi của từng trường hợp viêm phổi nặng, có thể sử dụng Dexamethasone trong thời gian 5-10 ngày.

6.4. Lọc máu ngoài cơ thể

Các trường hợp ARDS nặng và/hoặc sốc nhiễm trùng nặng không đáp ứng hoặc đáp ứng kém với các biện pháp điều trị thường. Cân nhắc sử dụng các biện pháp lọc máu liên tục ngoài cơ thể bằng các loại quả lọc có khả năng hấp phụ cytokines.

6.5. Immunoglobuline truyền tĩnh mạch (IVIG)

Tùy từng trường hợp cụ thể, có thể cân nhắc sử dụng IVIG cho những trường hợp bệnh nặng, và/hoặc hội chứng viêm hệ thống ở trẻ em.

6.6. Interferon

Có thể cân nhắc sử dụng interferon cho từng trường hợp cụ thể (nếu có) hoặc các thuốc kích thích sinh Interferon nội sinh.

6.7. Phục hồi chức năng hô hấp

Cân nhắc điều trị phục hồi chức năng hô hấp sớm cho các người bệnh có suy hô hấp.

6.8. Phát hiện và xử trí các biểu hiện thần kinh và tâm thần.

- Đánh giá và điều trị mê sảng, đặc biệt những bệnh nhân nặng: áp dụng các thang điểm đánh giá sảng, xác định và xử lý nguyên nhân và có các biện pháp điều trị sảng thích hợp.

- Đánh giá các dấu hiệu lo âu và trầm cảm; áp dụng các biện pháp hỗ trợ tâm lý xã hội và các can thiệp thích hợp.

- Phát hiện và xử trí các vấn đề về rối loạn giấc ngủ.

- Hỗ trợ sức khỏe tâm thần và hỗ trợ tâm lý xã hội cơ bản cho tất cả những người nghi ngờ hoặc xác nhận mắc COVID-19.

7. Dự phòng biến chứng

Với các trường hợp nặng điều trị tại các đơn vị hồi sức tích cực, cần dự phòng các biến chứng hay gặp sau:

7.1. Viêm phổi liên quan tới thở máy

Áp dụng và tuân thủ gói dự phòng viêm phổi liên quan tới thở máy:

- Nên đặt ống NKQ đường miệng.

- Đặt người bệnh nằm tư thế đầu cao 30-45 độ.

- Vệ sinh răng miệng.

- Sử dụng hệ thống hút kín, định kỳ làm thoát nước đọng trong dây máy thở.

- Sử dụng bộ dây máy thở mới cho mỗi bệnh nhân; chỉ thay dây máy thở khi bẩn hoặc hư hỏng trong khi người bệnh đang thở máy.

- Thay bình làm ấm/ẩm khi bị hỏng, bẩn, hoặc sau mỗi 5-7 ngày.

7.2. Dự phòng huyết khối tĩnh mạch

- Người lớn hoặc trẻ lớn nhập viện, dùng Heparine trọng lượng phân tử thấp, (liều lượng theo lứa tuổi và cân nặng) tiêm dưới da, 2 lần/ngày nếu không có chống chỉ định.

- Nếu có chống chỉ định; sử dụng các biện pháp cơ học.

- Theo dõi bệnh nhân COVID-19 nếu có các dấu hiệu nghi ngờ tắc mạch như đột quỵ, tắc mạch sâu, nhồi máu phổi, hội chứng vành cấp. Nếu có các dấu hiệu nghi ngờ, cần áp dụng các biện pháp chẩn đoán và điều trị thích hợp.

7.3. Nhiễm trùng máu liên quan tới đường truyền trung tâm

Sử dụng bảng kiểm để theo dõi áp dụng các gói dự phòng khi đặt đường truyền và chăm sóc đường truyền trung tâm. Rút đường truyền trung tâm khi không cần thiết.

7.4. Loét do tỳ đè

Xoay trở người bệnh thường xuyên

7.5. Viêm loét dạ dày do stress và xuất huyết tiêu hóa

- Cho ăn qua đường tiêu hóa sớm (trong vòng 24-48 giờ sau nhập viện)

- Dùng thuốc kháng H2 hoặc ức chế bơm proton cho những người bệnh có nguy cơ xuất huyết tiêu hóa như thở máy ≥ 48 giờ, rối loạn đông máu, điều trị thay thế thận, có bệnh gan, nhiều bệnh nền kèm theo, và suy chức năng đa cơ quan.

7.6. Yếu cơ liên quan tới điều trị hồi sức

Khi có thể, tích cực cho vận động sớm trong quá trình điều trị.

8. Một số quần thể đặc biệt

8.1. Phụ nữ mang thai:

Khi nghi ngờ hoặc khẳng định nhiễm SARS-CoV-2 cần được điều trị theo các biện pháp như trên, tuy nhiên cần chú ý tới những thay đổi sinh lý khi mang thai.

8.2. Người cao tuổi.

Người cao tuổi với các bệnh lý nền kèm theo tăng nguy cơ mắc bệnh nặng và tử vong. Chăm sóc và điều trị cần phối hợp các chuyên khoa, cần chú ý tới những thay đổi sinh lý ở người cao tuổi, cũng như tương tác thuốc trong quá trình điều trị.

IX. TIÊU CHUẨN XUẤT VIỆN

1. Người bệnh được xuất viện khi có đủ các tiêu chuẩn sau:

- Hết sốt ít nhất 3 ngày.

- Các triệu chứng lâm sàng cải thiện, toàn trạng tốt, các dấu hiệu sinh tồn ổn định, chức năng các cơ quan bình thường, xét nghiệm máu trở về bình thường, X-quang phổi cải thiện.

- Ba mẫu bệnh phẩm (các mẫu lấy cách nhau ít nhất 1 ngày) xét nghiệm âm tính với SARS-CoV-2 bằng phương pháp realtime RT-PCR.

2. Theo dõi sau xuất viện

Người bệnh cần tiếp tục được cách ly phù hợp tại nhà dưới sự giám sát giám sát của y tế cơ sở và CDC địa phương thêm 14 ngày nữa và theo dõi thân nhiệt tại nhà 2 lần/ngày, nếu thân nhiệt cao hơn 38oC ở hai lần đo liên tiếp hoặc có các dấu hiệu bất thường khác, phải đến khám lại ngay tại các cơ sở y tế.

 

LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết

THE MINISTRY OF HEALTH
____

No. 3351/QD-BYT

THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM
Independence – Freedom – Happiness
_____________________

Hanoi, July 29, 2020

 

 

DECISION

Promulgating the Guidance on diagnosis and treatment of COVID-19 caused by a new strain of Coronavirus (SARS-Cov-2)

___________

THE MINISTER OF HEALTH

 

Pursuant to the Government’s Decree No. 75/2017/ND-CP dated June 20, 2017, defining the functions, tasks, powers and organizational structure of the Ministry of Health;

According to the opinion of the Council in charge of updating and supplementing the Guidance on diagnosis and treatment of acute respiratory infections caused by the new strain of Coronavirus (nCoV) established under the Decision No. 319/QD-BYT dated February 06, 2020 by the Minister;

At the proposal of the Director of the Medical Services Administration - The Ministry of Health,

 

DECIDES:

 

Article 1.To promulgate together with this Decision the “Guidance on diagnosis and treatment of COVID-19 caused by a new strain of Coronavirus (SARS-Cov-2)”, replacing the “Guidance on diagnosis and treatment of acute respiratory infections caused by SARS-CoV-2 (COVID-19)” attached to the Decision No. 1344/QD-BYT dated March 25, 2020 of the Minister of Health.

Article 2.This Decision takes effect on the date of its signing.

Article 3.Mr. /Ms.: Chief of the Ministry Office, Director of the Medical Services Administration - the Ministry of Health; Chief Inspector; Director Generals and Directors of Directorates, Authorities and Departments under the Ministry of Health; Directors of Hospitals and Institutes under the Ministry of Health; Directors of municipal and provincial Departments of Health; Heads in charge of Healthcare of sectors shall be responsible for implementing this Decision.

 

 

FOR THE MINISTER
THE DEPUTY MINISTER




Nguyen Truong Son
Head of the Treatment Subcommittee - The National Steering Committee for COVID-19 Prevention and Control

 


THE MINISTRY OF HEALTH
____

THE SOCIALIST REPUBLIC OF VIETNAM
Independence – Freedom – Happiness
_____________________

 

 

GUIDANCE

On diagnosis and treatment of COVID-19 caused by new a strain of Coronavirus (SARS-Cov-2)

(Issued together with the Decision No. 3351/QD-BYT dated July 29, 2020 of the Minister of Health)

_________________

 

I. OUTLINE

Coronavirus are a large family of viruses that are transmitted from animals to humans and cause illnesses ranging from common cold to more severe diseases threatening human lives, including Severe Acute Respiratory Syndrome (SARS-CoV) in 2002, and the Middle East respiratory syndrome (MERS-CoV) in 2012. Since December 2019, a new strain of Coronavirus (SARS-CoV-2) has been identified as the cause of the acute respiratory infections (COVID-19) epidemic in Wuhan City (Hubei province, China), then spread to all over China and by far most of the countries in the world. On March 11, 2020, the World Health Organization (WHO) declared COVID-19 a global pandemic. The SARS-CoV-2 strain is not only transmitted from animals to humans but also directly from person to person, mainly through respiratory droplets and contact. Such virus also may be spread by aerosols, especially at health establishments and in crowded places and in enclosed spaces. Currently, there is no evidence for the faecal-oral transmission of such virus.

Persons infected with COVID-19 has diverse clinical presentation: From asymptomatic infection, to severe medical manifestations such as severe pneumonia, respiratory distress, septic shock, multiple organ dysfunction and death, especially in the elderly, people with chronic illnesses or immunodeficiency with TCD4 cell counts decreased below 250 cells/mm3, people with elevated D-Dimer or with co-infection or superinfection of other etiologies like bacteria, fungi.

There are currently no specific drugs and vaccines available for the prevention of COVID-19, therefore the most used measures are supportive and symptomatic treatment. The main preventive measures are early detection and isolation of infected cases.

II. DIAGNOSIS

1. Case definition

1.1. Possible case:

Possible cases shall include the following cases:

A. Patients show symptoms of fever and/oracute respiratory infection that cannot be explained by other causes.

B. Patients show any respiratory symptomsANDhas traveled to/been through/residence in/back fromepidemiological areas* where ongoing community transmission of COVID-19 in the 14 days prior to onset of symptomsORin close contact(**) with a confirmed COVID-19 case in the 14 days prior to onset of symptoms.

*Epidemiological areas:are defined as countries and territories that have confirmed cases of COVID-19 transmitted domestically, or where there is an active outbreak in Vietnam according to the “Interim guidance for surveillance, prevention and control of COVID-19” provided by the Ministry of Health and updated by the General Department of Preventive Medicine.

**Close contact:includes

- Being in contact at health establishments, including: Directly providing healthcare for a confirmed COVID-19 case; working with health staff who is infected with COVID-19; visiting or living in the same room with a confirmed COVID-19 case.

- Being in direct contact with a distance of up to 02 meters with a possible or confirmed COVID-19 case during the illness.

- Living in the same house with a possible or confirmed COVID-19 case during the illness.

- Being in the same teamwork or office with a possible or confirmed COVID-19 case during the illness.

- In the same group of travel, business, entertainment, party, meeting, etc. with a possible or confirmed COVID-19 case during the illness.

- Traveling in the same vehicle (sitting in the same row, in front or behind 02 rows of seats) with a possible or confirmed COVID-19 case during the illness.

1.2. Confirmed case

Means the possible case or any person having a positive test with SARS-CoV-2 virus that are carried out by testing establishments permitted by the ministry of Health.

III. SYMPTOMS

1. Clinical

- Incubation period: From 02 - 14 days, or from 05 - 07 days on average.

- Onset: Common symptoms are fever, dry cough, fatigue and muscle pain. Some cases show symptoms of sore throat, sniffle, runny nose, headache, chesty cough, emesis and diarrhoea.

- Development:

+ Most patients (about more than 80%) have only mild fever, cough, fatigue, no pneumonia and usually recover on their own after about 01 week. However, some cases do not show any clinical presentations.

+ About 14% of patients with severe development such as pneumonia, severe pneumonia need hospitalization, about 5% need treatment in intensive care units with acute respiratory symptoms (hyperpnea, dyspnoea, cyanosis, etc.), acute respiratory distress syndrome (ARDS), septic shock, organ dysfunction including kidney damage and myocardial damage, leading to death.

+ The average time from the initial symptom to severe development is usually about 07 - 08 days.

+ Death occurs more often in the elderly, those who are immunocompromised and have chronic diseases. In adults, old age, high sequential organ dysfunction assessment (SOFA) score upon admission and D-dimer level greater than 1 μg/mL are prognostic factors of increased risk of death.

- Recovery period: After 07 - 10 days of acute period, if there is no ARDS, the patient shall be free from fever, the clinical signs shall gradually return to normal and the patient shall recover from COVID-19.

- There is no evidence of any difference in the clinical presentations of COVID-19 in pregnant women.

- For children, most children infected with COVID-19 have milder clinical presentations compared to adults, or have no symptoms at all. The most common symptoms of COVID-19 in children are fever and cough, or manifestations of pneumonia. However, some children infected with COVID-19 have a multi-system inflammatory lesion similar to signs of Kawasaki disease: fever; erythema or corneal congestion, or swollen oral mucosa, hands, or feet; circulatory failure; manifestations of impaired cardiac function and elevated heart enzyme levels; digestive disorders; coagulopathy and an increase in acute inflammatory indicators.

2. Para-clinical test

Nonspecific hematological and serum biochemistry tests:

- The number of leukocytes in the blood may be normal or decreased; the number of lymphocytes is often decreased, especially in the group of severe development.

- C-reactive protein (CRP) levels are normal or elevated, procalcitonin (PCT) levels are often normal or slightly elevated. In some cases, ALT, AST, CK, LDH may slightly increase.

- In severe cases, the manifestations of organ function dysfunction, coagulopathy, elevated D-dimer, acid-base and electrolyte disorders.

3. X-ray and computed tomography (CT) scan of the lung

- In the early stage or only infection of the upper respiratory tract, X-ray images are normal.

- In the presence of pneumonia, lesions are usually bilateral with signs of interstitial pneumonia or diffuse circle of cloud-like ground glass shadow, in peripheral or lower lobe. Lesions can progress rapidly in ARDS. Signs of cavitation or pleural effusion, pneumothorax are rare.

4. Testing for etiology confirmation

- Detection of SARS-CoV-2 by real-time RT-PCR assay technique or sequencing genes from patient samples.

IV. CLASSIFICATION OF CLINICAL FORMS

COVID-19 disease has the following clinical infection forms:

1. Asymptomatic infection:a person infected with SARS-CoV-2 confirmed by a positive real-time RT-PCR assay, but showing no clinical symptoms.

2. Mild infection: Acute respiratory infection

- A patient infected with SARS-CoV-2 shall have non-specific clinical symptoms such as fever, dry cough, sore throat, sniffle, fatigue, headache and muscle pain.

- No signs of pneumonia or oxygenation impairment i are shown.

3. Moderate infection: Pneumonia

-Adults and children: with pneumonia (fever, cough, shortness of breath, hyperpnea) but no signs of severe pneumonia, SpO2≥ 90% when breathing in the air.

-Babies:Coughing or shortness of breath and hyperpnea. Hyperpnea is defined when the breathing rate ≥ 60 times/minute in newborns under 02 months; ≥ 50 times/minute in babies aged from 2 - 11 months; ≥ 40 times/minute in children aged from 01 - 05 years) and no signs of severe pneumonia are shown.

- Diagnosis shall be based on clinical practice, however, however, interstitial pneumonia or complications shall be detected through X-ray, ultrasound or CT images of the lung.

4. Severe infection - Severe pneumonia

-Adults and children:fever or suspected respiratory infection, accompanied by any of the following signs: the breathing rate > 30 times/minute, severe dyspnoea, or SpO2≤ 93% when breathing room air.

-Babies:Cough or shortness of breath and plus at least one of the following signs: Cyanosis or SpO2< 90%; severe respiratory distress (grunting, chest recession);

+ Or a baby is diagnosed with pneumonia and shows any of the severe signs as follows: inability to breastfeed or drink; lethargy or unconsciousness, or convulsions. Other signs of a pneumonia may be found, such as chest recession, hyperpnea (with the above-mentioned breathing rate).

- While the diagnosis is made on clinical grounds; chest imaging may identify complications.

5. Critical infection

5.1. Acute respiratory distress syndrome (ARDS)

- Onset:Within 01 week of a known clinical insult or new or worsening respiratory symptoms.

- X-ray, CT scan or ultrasound of the lungs:bilateral opacities, not fully explained by volume overload, lobar or lung collapse, or nodules.

- The origin of pulmonary edema not fully explained by cardiac failure or fluid overload. Need objective assessment (e.g. echocardiography) to exclude hydrostatic pressure if no risk factor presents.

- Oxygenation impairment:in adults, classification shall be carried out according to the PaO2/FiO2(P/F) and SpO2/FiO2(S/F) indicators in case where the PaO2is not available:

+ Mild ARDS: 200 mmHg < P/F ≤ 300 mmHg with PEEP or CPAP ≥ 5 cm H2O.

+ Moderate ARDS: 100 mmHg < P/F ≤ 200 mmHg with PEEP ≥ 5 cm H2O).

+ Severe ARDS: P/F ≤ 100 mmHg with PEEP ≥ 5 cmH2O

+ In case where PaO2is not available: S/F ≤ 315 suggests ARDS (including in non-ventilated patients)

- Oxygenation impairment:in children:Based on OI indexes (Oxygenation Index:OI=MAP*×FiO2×100/PaO2) (MAP*: mean airway pressure) or OSI (Oxygenation Index using SpO2: OSI = MAP × FiO2× 100 / SpO2) for patients require invasive mechanical ventilation, and PaO2/FiO2or SpO2/FiO2for continuous positive airway pressure (CPAP) or non-invasive ventilation (NIV):

+ NIV BiLevel or CPAP ≥ 5 cmH2O through masks: PaO2/FiO2≤ 300 mmHg or SpO2/FiO2≤ 264

+ Mild ARDS (invasive mechanical ventilation): 4 ≤ OI < 8 or 5 ≤ OSI < 7.5

+ Moderate ARDS (invasive mechanical ventilation): 8 ≤ OI < 16 or 7.5 ≤ OSI < 12.3

+ Severe ARDS (invasive mechanical ventilation): OI ≥ 16 or OSI ≥ 12.3

5.2. Sepsis

- Adults:showing signs of organ dysfunction include:

+ Altered mental status: drowsiness, drowsiness, lethargy

+ Shortness of breath or dyspnoea, low oxygen saturation

+ Fast heart rate, weak pulse, cold extremities or low blood pressure, skin mottling

+ Oliguria or anuric

+ Laboratory evidence of coagulopathy, thrombocytopenia, acidosis, high lactate, or hyperbilirubinemia, etc.

- Children:suspected or proven infection and ≥ 2 age- based systemic inflammatory response syndrome criteria, of which one must be abnormal temperature or white blood cell count.

5.3. Septic shock

- Adults:persisting hypotension despite volume resuscitation, requiring vasopressors to maintain mean arterial pressure (MAP) ≥ 65 mmHg and serum lactate level > 2 mmol/L.

- Children:septic shock is defined when there is:

+ Any hypotension: systolic blood pressure (SBP) < 5 centile or > 2 SD below normal for age, or babies under 1 year: < 70 mmHg; children from 01 - 10 years: < 70 + 2 x years; children > 10 years old: <90 mmHg).

+ Or two or three of the following signs: altered mental state; tachycardia or bradycardia (heart rate (HR) < 90 beats per minute (bpm) or > 160 bpm in infants and HR < 70 bpm or > 150 bpm in children); prolonged capillary refill (> 2 sec) or feeble pulse; tachypnoea; mottled or cool skin or petechial or purpuric rash; increased lactate; oliguria; hyperthermia or hypothermia.

5.4. Other severe or dangerous complicationspulmonary infarction, stroke, delirium. It is necessary to closely monitor and apply definitive diagnostic measures when in doubt and to take appropriate treatment.

V. DIFFERENTIAL DIAGNOSIS

- It is required to carry out a differential diagnosis of acute respiratory infections caused by SARS-CoV-2 (COVID-19) from acute respiratory infections caused by other common agents, including known severe etiological agents:

+ Seasonal influenza virus (A/H3N2, A/H1N1, B), paramyxovirus, respiratory syncytial virus (RSV),rhinovirus, myxovirrus, adenovirus.

+ Flu syndrome caused by common strains ofcoronavirus.

+ Common bacterial etiologies, including atypical bacteria such as Mycoplasmapneumoniaetc.

+ Other etiologies of severe acute respiratory infections include avian influenza (A/H5N1, A/H7N9, A/H5N6, SARS-CoV, and MERS-CoV).

- It is necessary to carry out differential diagnosis for severe conditions of the patient (respiratory distress, organ dysfunction, etc.) due to other etiologies or due to the severe condition of accompanying chronic diseases.

VI. TESTING, DIAGNOSIS, MONITORING AND REPORTING CASES

- Possible cases are required to be tested to confirm infection with SARS-CoV-2.

- Collecting specimens from the upper respiratory tract (nasopharyngeal and oropharyngeal fluids) for virus identification by real-time RT-PCR technique.

- Where clinical suspicion remains and the upper respiratory tract specimens are negative, specimens from the lower respiratory tract when readily available (expectorated sputum, endotracheal aspirate, or bronchoalveolar lavage) shall be collected.

- For ventilated patients, only specimens from the lower respiratory tract are required.

- The test for SARS-CoV-2 antibodies is not recommended for the diagnosis of COVID-19 infection.

- Possible cases, including those with known common agents, should be tested to confirm SARS-CoV-2 at least once.

- Where suspicion remains, blood cultures shall be carried out, or when there is sepsis, blood cultures should be carried out before using antibiotics. Other etiologies of bacteria and viruses should be tested if there are clinical signs of doubts.

- It is necessary to fully perform para-clinical tests and routine exploration depending on the patient s condition to diagnose, predict and monitor the patient.

- For confirmed COVID-19 cases, it is necessary to collect specimens from the respiratory fluids and carry out test every 02 - 04 days or a shorter period (if necessary) until the test result is negative.

- Cases with positive results for SARS-CoV-2 should be reported to the Ministry of Health or local Centers for Disease Control and Prevention (CDC).

- Determination of epidemiology related to SARS-CoV-2 positive cases such as: place of residence, workplace, travel, making a list of people who have been in direct contact, complying with instructions on monitoring, prevention and control of COVID-19 provided by the Ministry of Health.

VII. Immediate implementation of infection prevention measures

Infection prevention is an important step in the diagnosis and treatment of a patient infected with COVID-19, so it should be taken as soon as the patient arrives at a health establishment. Standard prevention measures should be applied in all areas of a health establishment.

1. At screening and classification areas.

- Suspected COVID-19 patients should be given a mask and directed to isolation area.

- To keep at least 02 m distance between patients.

- Patients shall be guided to cover their noses and mouths upon coughing, sneezing and wash their hands immediately after being in contact with respiratory fluids.

2. Application of droplet precautions.

-  To wear a medical mask if working within 02 m of the patient.

- Possible cases shall be given priority to be placed in single rooms, or a group of those with the same etiological diagnosis shall be placed in the same room. If an etiological diagnosis is not possible, group patients with similar clinical diagnosis and based on epidemiological risk factors, with a spatial separation. Rooms for patients must be well ventilated.

- When providing care in close contact with a patient with respiratory symptoms (e.g. coughing or sneezing), eye protection should be used.

- To limit patient movement within the health establishment and ensure that patients wear medical masks when leaving their rooms.

3. Application of contact precautions.

- Health staff must use personal protection equipment (such as medical masks, eye protection goggles, gloves, gown) when entering patient rooms and remove personal protection equipment when leaving patient rooms and avoid getting dirty hands in their eyes, nose and mouth.

- Equipment (such as stethoscopes, thermometers) must be cleaned and disinfected before using on each patient.

- To avoid contaminating environmental surfaces such as door, light and fan switches, etc.)

- Patient rooms must be well ventilated, windows (if any) should be opened.

- To avoid movement or transport of patients.

- To perform hand hygiene.

4. Application of airborne transmission precautions

- Health staff must use the appropriate personal protection equipment, including gloves, gowns, eye protection, and N95 masks or equivalent when examining, providing healthcare for confirmed or diagnosed cases, or/and performing procedures such as open suctioning of respiratory tract, intubation, bronchoscopy, cardiopulmonary resuscitation.

- If possible, to perform the procedure in a separate room, or a negative pressure room.

- To avoid the presence of unnecessary persons individuals in the room when carrying out such procedures.

VIII. TREATMENT

1. General treatment principles

- To classify the patient and determine where to treat him/her according to the severity of the disease:

+ Possible cases (may be considered as emergency cases):  Shall be examined, monitored and isolated at a separate room at health establishments, specimens should be collected in an appropriate manner for testing for definitive diagnosis.

+ Confirmed cases should be monitored and treated completely isolated.

+ Mild cases (upper respiratory tract infections, mild pneumonia) shall be treated at normal departments and rooms.

+ Severe cases (severe pneumonia and sepsis) should be treated at emergency departments or intensive care units.

+ Severe - critical cases: (Severe respiratory distress, ARDS, septic shock, multiple organ dysfunction) require intensive resuscitation.

- There are currently no specific drugs, therefore the most used measures are supportive and symptomatic treatment.

- To individualize treatments for each case, especially severe - critical cases.

- Some research regimens approved by the Ministry of Health may be used.

- To monitor, detect and handle promptly severe cases and complications.

2. General monitoring and treatment measures

- To rest on beds, patient rooms must be well ventilated, air purification systems or other preventive measures such as ultraviolet light (if any) may be used.

- To clean the nose and throat, the nose moist may be kept with normal saline solution, to rinse the mouth and throat with normal oral cleaning solutions.

- To keep warm.

- To drink adequate water, ensure fluid and electrolyte balance.

- To be careful when infusing patients suffering pneumonia without any signs of shock.

- To ensure nutrition and improve health, supplement vitamins if necessary. For severe - critical cases, to apply nutrition instruction issued by the Association of Emergency, Intensive Care Medicine and Clinical Toxicology.

- In case of high temperature, to reduce fever by paracetamol with a dose of 10 - 15 mg/kg/time, but not more than 60 mg/kg/day for children and no more than 2 grams/day for adults.

- To relieve/block the cough by common antitussives if needed.

- To evaluate, treat, and predict associated chronic medical conditions (if any).

- To counsel, provide psychological support, and motivate the patient.

- To closely monitor clinical signs, progression of lung lesions on chest X-ray and/or chest CT, especially around 07 - 10 days of disease, to detect signs of severe progression such as respiratory distress, circulatory failure to take timely intervention measures.

- There should be minimal first aid equipment and tools at treatment establishments, such as oxygen saturation monitor, oxygen supply system/bottle, oxygen breathing device (nasal cannula, simple masks, and masks with reservoir bags), squeeze ball, masks, and equipment for endotracheal intubation that are appropriate for all ages.

3. Treatment of respiratory distress syndrome

3.1. Oxygen therapy and monitoring

- To give supplemental oxygen therapy immediately to patients with severe acute respiratory infection and respiratory distress, hypoxaemia or shock and target SpO2> 94%.

- Adults with emergency signs (physical exertion, chest recession, cyanosis, or hypoventilation) should receive airway management and oxygen therapy during resuscitation to target SpO2≥ 94%. - To give oxygen through the nasal cannulas (1-4 liters/minute), or simple masks, or masks with reservoir bags with initiate oxygen therapy at 5 liters/minute and increase to 10 - 15 liters/minute if necessary.  Once patient is stable, the target is ≥ 90% SpO2in adults and ≥ 92 - 95% in pregnant patients.

- Children with emergency signs such as obstructed or absent breathing, cyanosis, shock, coma or convulsions, etc. should receive oxygen therapy during resuscitation to target SpO2≥ 94%. Once patient is stable, the target SpO2is ≥ 90%.

- To closely monitor the patient conditions to detect severe signs, or failure with oxygen therapy for timely intervention measures.

3.2. Treatment of critical respiratory distress and ARDS

- In case where oxygen therapy fails to alleviate hypoxemia SpO2≤ 92% or/and respiratory effort: The High Flow Nasal Oxygen, Continuous Positive Airway Pressure (CPAP) or Bilevel Positive Airway Pressure (BiPAP) can be considered.

- Not to use the method of non-invasive positive pressure ventilation for patients with hemodynamic disorder, multiple organ dysfunction, and impaired consciousness.

- It is necessary to closely monitor the patient to detect signs of failure for timely intervention. After using non-invasive respiratory support measures, if the hypoxia does not improve, endotracheal intubation and invasive mechanical ventilation should be used.

- Endotracheal intubation must be performed by experienced persons, measures to prevent airborne transmission when placing the endotracheal tube must be applied.

- Respiratory support: Applying respiratory support regimen in ARDS treatment for adults and children. Attention:

+ Mechanical ventilation: To apply the mechanical ventilation strategy for lung protection, with low tidal volume (4-8 ml/kg ideal body weight) and low inlet pressure (to keep plateau pressure or Pplateau <30 cmH2O, for children, to keep Pplateau <28 cmH2O). Initial tidal volume 6 ml/kg, adjusted according to response of patient and treatment goals.

+ To increase CO2, to keep the pH target of ≥ 7.20.

+ In cases of severe ARDS cases in adults, to consider applying mechanical ventilation in prone position for 12-16 hours/day (if possible).

Higher PEEP can be applied for severe and medium ARDS cases. It depends on the compliance of the lung to set a suitable PEEP.

To avoid disconnecting the patient from the ventilator, leading to loss of PEEP and atelectasis. A closed endotracheal suction system should be used.

For children and infants, it is possible to use High Frequency Oscillatory Ventilation-HFOV early (if any), or when it fails to use conventional mechanical ventilation. Not to use HFOV for adults.

+ To ensure appropriate sedation, pain relief upon mechanical ventilation. In the case of medium to severe ARDS, muscle relaxants can be used, but should not be used routinely.

- To tightly control fluid balance, avoid fluid overload, especially outside the period of rehydration and cardiopulmonary resuscitation.

- In cases of severe, persistent hypoxemia, failing with conventional treatments, to consider indication and use extracorporeal membrane oxygenation (ECMO) for each specific case and carry out in which this technique is available.

ECMO can only be performed in a few large medical facilities. Therefore, if ECMO is considered, it is necessary for establishments to contact, transport patients early, and comply with the patient transportation procedure specified by the Ministry of Health.

4. Treatment of septic shock

To apply treatment regimens for septic shock for adults and children. Attention:

4.1. Fluid resuscitation

- To use a type of isotonic crystalloid solution such as physiological saline or Ringer s lactate. To avoid using hypotonic crystalloid solutions such as HAES-steril or Gelatin for fluid resuscitation.

- Dosage:

+ For adults: To give 250-500 ml crystalloid fluid as rapid bolus, in the first 15-30 minutes, to evaluate signs of fluid overload after each bolus.

+ For children: To give 10-20 ml/kg crystalloid fluid as a bolus in the first 30–60 minutes and to evaluate for signs of fluid after each bolus.

- It is necessary to closely monitor signs of fluid overload during fluid resuscitation such as more severe respiratory failure, enlarged liver, tachycardia, jugular venous distension, moist rales in lungs, pulmonary edema, etc. If the above signs present, to reduce or discontinue fluid administration.

To monitor signs of improvement of perfusion: mean arterial pressure> 65 mgHg for adults and age-appropriate targets in children; urine output (> 0.5 ml/kg/hr in adults, and> 01 ml/kg/hr in children), and improvement of duration of capillary refill, skin color, status of consciousness and the concentration of blood lactate.

4.2. Vasopressors

If hemodynamic status, perfusion have not been improved, to early give vasopressors.

-For adults: Noradrenaline is the initial choice. To adjust the dosage for the target of mean arterial pressure (MAP) ≥ 65 mmHg and improvement of perfusion. If signs of blood pressure and poor perfusion persist or there arises cardiac dysfunction despite achieving MAP target with fluids and vasopressors, to consider dobutamine.

-For children: Adrenalin is the initial choice. Dopamine or dobutamine can be given. To consider adding noradrenaline in cases of vasodilator shock (pulse pressure or the difference between the maximum and minimum blood pressure >40 mmHg). To adjust vasopressors to achieve the target of MAP > 50thpercentile by age.

- To use the central venous catheter to administer vasopressors. If the central venous catheter is not available, either peripherally inserted central catheter or intraosseous line can be used. To monitor signs of rhexis and necrosis.

Depending on the conditions of each establishment, either invasive or non-invasive hemodynamic probes can be used to assess and monitor the hemodynamic status to adjust fluid and vasopressors according to the patient s condition.

4.3. Blood culture and empirical broad-spectrum antibioticswithin 01 hour from the determination of septic shock.

4.4. To controlblood sugar, (to keep blood sugar from 8-10 mmol/L), calcemia, albumin concentration, (to give albumin when albumin concentration <30 g/L, to keep albumin concentration ≥ 35 g/L).

4.5. If there are risk factorsfor acute adrenal insufficiency, or catecholamine-dependent shock: May give low-dose Hydrocortisone: For adults: to give Hydrocortisone 50 mg every 06 hours, using intravenous therapy; for children: to give 02 mg/kg/first dose, then 0.5-1.0 mg/kg every 06 hours.

4.6. Transfusion of packed red cells as needed, to keep hemoglobin concentration ≥ 10 g/dl.

5. Treatment to support organ function

Depending on the specific situation of each patient to give appropriate support measures.

- To support kidney function:

+ To ensure hemodynamics, fluid and electrolyte balance, diuretics when necessary.

+ In cases of severe renal impairment, multiple organ dysfunction and/or fluid overload, to indicate the application of alternative kidney measures such as continuous dialysis, intermittent hemodialysis, or peritoneal dialysis, depending on conditions of the treatment establishment.

- To support liver function: In cases of liver failure

- To adjust coagulopathy: To transfuse platelet, fresh plasma, coagulation factors if necessary. If D-Dimer increases from 500 to 1000 µg/L, to use enoxaparine with prophylactic doses; If D-Dimer increases to above 1000 µg/L, to use enoxaparin with therapeutic doses.

6. Other treatment therapies

6.1. Antibiotics

- Not to use routine antibiotics for simple upper respiratory tract infections.

- For cases of pneumonia, to conduct blood cultures and bacterial sputum cultures and consideration of appropriate antibiotic use based on experience in working with bacterial agents that can cause pneumonia co-infection (depending on age, epidemiology for etiology). To adjust the appropriate antibiotic according to antimicrobial susceptibility pattern when the bacterial isolation result is available.

- If there arises sepsis, empirical broad-spectrum antibiotics should be early given within one hour after determining the sepsis. To adjust the appropriate antibiotic upon results of bacteria and antimicrobial susceptibility pattern.

- For cases of secondary infection, depending on the etiology, epidemiological characteristics, and antibiotic resistance to select appropriate antibiotics.

6.2. Antiviral drugs

Recently, there is no specific drug for SARS-CoV-2 treatment and evidence of effect and safety of reverse transcriptase inhibitors (Antiretroviral or ARV) or of other antiviral drugs (such as Chloroquine/Hydroxychloroquine, Remdesivir, Ribavirin). The Ministry of Health shall give relevant recommendation after considering clinical trial results of Vietnam and the global

6.3. Systemic corticosteroids

- Not to use routine systemic corticosteroids for upper respiratory tract infections or viral pneumonia unless otherwise indicated.

- For septic shock cases, to use low-dose Hydrocortisone if indicated (to see the treatment of septic shock).

- Depending on clinical progression and chest X-ray images of each severe pneumonia cases, Dexamethasone may be used within 5-10 days.

6.4. Haemodialysis

Severe ARDS cases and/or severe septic shock cases that do not respond or respond poorly to conventional treatments.  Continuous haemodialysis shall be considered by dialyzers that absorb cytokines.

6.5. Intravenous immunoglobulin (IVIG)

Depending on specific cases, IVIG may be considered for severe cases and/or system inflammatory syndrome in children.

6.6. Interferon

Case-specific use of interferon (if any) or endogenous interferon stimulants may be considered.

6.7. Respiratory rehabilitation

To consider early rehabilitation treatment for patients with respiratory distress.

6.8. Detection and management of neurological and psychiatric manifestations.

- To evaluate and treat delirium, especially in severe cases: to apply delirium assessment scores, identify and treat the cause and take appropriate measures to treat delirium.

- To evaluate signs of anxiety and depression; take appropriate psychosocial support and intervention measures.

- To detect and treat sleep disturbance problems.

- To provide basic mental health and psychosocial support for all possible or confirmed COVID-19 cases.

7. Complication prevention

For severe cases treated in intensive care units, it is necessary to prevent the following common complications:

7.1. Ventilator-associated pneumonia

To apply and comply with measures to prevent ventilator-associated pneumonia:

- An oral endotracheal tube should be placed.

- To keep patient in semi-recumbent position (head of bed elevation 30 - 45º).

- To ensure dental hygiene.

- To use a closed suctioning system; periodically drain and discard condensate intubing.

- To use a new ventilator circuit for each patient; once patient is ventilated, change circuit if it is soiled or damaged, but not routinely.

- To change heat moisture exchanger when it malfunctions, when soiled, or every 5 - 7 days.

7.2. Reduce incidence of venous thromboembolism

- For Adults or children requiring admission, low molecular-weight heparin (dose according to age and weight) shall be used to inject under the skin, twice daily if there are no contraindications.

- For those with contraindications, to use mechanical prophylaxis.

- To monitor patients with COVID-19 if there are signs of suspicion of embolism such as stroke, deep embolism, pulmonary infarction, acute coronary syndrome. If there are signs of doubt, appropriate diagnostic and treatment measures should be taken.

7.3. Catheter-related bloodstream infection

To use a checklist to monitor the application of prophylactic packets when catheter insertion and care. To remove catheter if no longer needed.

7.4. Pressure ulcers

To regularly turn patients.

7.5. Stress ulcers and gastrointestinal (GI) bleeding

- To give early enteral nutrition (within 24 - 48 hours of admission).

- Administer histamine-2 receptor blockers or proton-pump inhibitors in patients with risk factors for GI bleeding. Risk factors for GI bleeding include mechanical ventilation for ≥ 48 hours, coagulopathy, renal replacement therapy, liver disease, multiple comorbidities, and multi-organ dysfunction.

7.6. Intensive care unit-acquired weakness

To actively mobilize the patient early in the course of illness when safe to do so.

8. Some special populations

8.1. Pregnant women:

When SARS-CoV-2 infection is suspected or confirmed, pregnant women shall be treated in accordance with the above-mentioned measures, however, attention should be paid to physiological changes during pregnancy.

8.2. The elderly:

The elderly with underlying medical conditions are at increased risk of serious illness and death. It is required coordination of specialists when providing care and treatment, physiological changes in the elderly, as well as drug interactions during treatment should be paid attention.

IX. HOSPITAL DISCHARGE STANDARDS

1. Patients shall be discharged from hospitals if they satisfy the following standards:

- Patients ends in at least 03 days.

- Clinical symptoms improved, overall good condition, stable vital signs, normal organ function, blood test returned to normal, chest X-ray improved.

- Three specimens (specimens taken at least 01 day apart) show negative test result for SARS-CoV-2 by real-time RT-PCR method.

2. Post-discharge follow-up

Patients should continue to be adequately isolated at home under the supervision of local health facilities and local CDCs for an additional 14 days and monitored their temperature 2 times/day at home. If their temperature is higher than 38°C for two consecutive measurements or other abnormal symptoms, the patients must be promptly examined at health establishments.

 

* All Appendices are not translated herein.

 

 

Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Nâng cao để xem đầy đủ bản dịch.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

Lược đồ

Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

Văn bản đã hết hiệu lực. Quý khách vui lòng tham khảo Văn bản thay thế tại mục Hiệu lực và Lược đồ.
văn bản TIẾNG ANH
Bản dịch LuatVietnam
Decision 3351/QD-BYT DOC (Word)
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiếng Anh hoặc Nâng cao để tải file.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

Decision 3351/QD-BYT PDF
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiếng Anh hoặc Nâng cao để tải file.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

* Lưu ý: Để đọc được văn bản tải trên Luatvietnam.vn, bạn cần cài phần mềm đọc file DOC, DOCX và phần mềm đọc file PDF.

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên

TẠI ĐÂY

văn bản cùng lĩnh vực
văn bản mới nhất

Thông tư 42/2024/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 04/2021/TT-NHNN ngày 05/4/2021 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về tái cấp vốn đối với tổ chức tín dụng sau khi tổ chức tín dụng cho Tổng công ty Hàng không Việt Nam - CTCP vay và việc cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giữ nguyên nhóm nợ, trích lập dự phòng rủi ro đối với khoản nợ của Tổng công ty Hàng không Việt Nam - CTCP do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19

Tài chính-Ngân hàng, Chính sách, COVID-19