Thông tư liên tịch 03/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC của Toà án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự khi bị cáo đã chết trong giai đoạn xét xử phúc thẩm
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
thuộc tính Thông tư liên tịch 03/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân tối cao; Viện kiểm sát nhân dân tối cao |
Số công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 03/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC |
Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Thông tư liên tịch |
Người ký: | Trần Thu; Trịnh Hồng Dương |
Ngày ban hành: | 25/12/2000 |
Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | |
Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Lĩnh vực: | Tư pháp-Hộ tịch |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Thông tư liên tịch 03/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO SỐ 03/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC
NGÀY 25 THÁNG 12 NĂM 2000 HƯỚNG DẪN THI HÀNH
CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ KHI BỊ CÁO
ĐÃ CHẾT TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ PHÚC THẨM
Trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, nếu bị cáo có kháng cáo hoặc bị kháng cáo, kháng nghị đã chết, thì theo quy định tại các Điều 220 và 223 Chương XXIII "Xét xử phúc thẩm" của Bộ luật tố tụng hình sự, Toà án cấp phúc thẩm vẫn phải mở phiên toà phúc thẩm xét xử vụ án. Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm phải theo đúng quy định tại Điều 216 và những người tham gia phiên toà phúc thẩm (trừ bị cáo đã chết) phải theo đúng quy định tại Điều 217 Bộ luật tố tụng hình sự. Kết thúc việc xét xử, Toà án cấp phúc thẩm phải ra bản án phúc thẩm.
Để nội dung đề nghị của Viện Kiểm sát khi tranh luận và nội dung quyết định trong bản án phúc thẩm được đúng với các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự cần phân biệt như sau:
- Quyết định về hình phạt chính và hình phạt bổ sung;
- Quyết định về kê biên tài sản để bảo đảm thi hành hình phạt tiền, hình phạt tịch thu tài sản;
- Quyết định về án phí hình sự sơ thẩm.
Ví dụ 1: A bị Toà án cấp sơ thẩm xử phạt 3 tháng tù về tội "cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn về phòng vệ chính đáng" và buộc A phải bồi thường cho B (người bị gây thương tích) số tiền 5 triệu đồng do sức khoẻ bị xâm phạm. A kháng cáo kêu oan nhưng đã chết trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. Tại phiên toà phúc thẩm, nếu xét thấy A gây thương tích cho B là thuộc trường hợp phòng vệ chính đáng, thì ngoài việc áp dụng điểm 4 Điều 220, điểm 2 Điều 89 và Điều 223 Bộ luật tố tụng hình sự huỷ quyết định của bản án sơ thẩm, tuyên bố A không phạm tội "cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng" và đình chỉ vụ án về phần hình sự đối với A, Viện Kiểm sát đề nghị Toà án cấp phúc thẩm huỷ quyết định của bản án sơ thẩm về phần bồi thường thiệt hại này.
Ví dụ 2: X bị Toà án cấp sơ thẩm xử phạt 6 tháng tù về tội "trộm cắp tài sản" và buộc X phải trả cho Y (người có tài sản bị chiếm đoạt) giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 3 triệu đồng. X kháng cáo kêu oan, nhưng đã chết trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. Tại phiên toà phúc thẩm, nếu xét thấy không có căn cứ để kết án X phạm tội trộm cắp tài sản (của Y), thì ngoài việc áp dụng điểm 4 Điều 220, điểm 2 Điều 89, và Điều 223 Bộ luật tố tụng hình sự huỷ quyết định của bản án sơ thẩm, tuyên bố X không phạm tội "trộm cắp tài sản" và đình chỉ vụ án về phần hình sự đối với X, Viện kiểm sát đề nghị và Toà án cấp phúc thẩm huỷ quyết định của bản án sơ thẩm về phần trả lại giá trị tài sản này.
Ví dụ: C bị Toà án cấp sơ thẩm xử phạt 6 tháng tù về tội "huỷ hoại tài sản" và buộc C phải bồi thường cho D (người có tài sản bị huỷ hoại) số tiền 400 ngàn đồng. Viện Kiểm sát nhân dân kháng nghị theo hướng C không có tội mà không kháng nghị đối với quyết định về bồi thường thiệt hại. C đã bị chết trong giai đoạn xét xử phúc thẩm. Tại phiên toà phúc thẩm, nếu xét thấy C có hành vi huỷ hoại tài sản của D với giá trị tài sản là 400 ngàn đồng, nhưng không gây hậu quả nghiêm trọng và C cũng chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này, chưa bị kết án về tội này, có nghĩa là C không phạm tội "huỷ hoại tài sản" nhưng quyết định của bản án sơ thẩm về bồi thường thiệt hại là đúng và không bị kháng nghị, thì Toà án cấp phúc thẩm áp dụng điểm 4 Điều 220, điểm 2 Điều 89 và Điều 223 Bộ luật tố tụng hình sự huỷ quyết định của bản án sơ thẩm, tuyên bố C không phạm tội "huỷ hoại tài sản" và đình chỉ vụ án về phần hình sự đối với C mà không xét quyết định này của bản án sơ thẩm về phần bồi thường thiệt hại, có nghĩa là quyết định này của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực thi hành; nếu quyết định này của bản án sơ thẩm về bồi thường thiệt hại bị kháng cáo, kháng nghị (cho rằng giá trị tài sản bị huỷ hoại không phải 400 ngàn đồng mà thấp hơn), nhưng vì lý do C đã chết mà chưa có người thừa kế tham gia tố tụng, thì ngoài việc quyết định về phần hình sự như hướng dẫn trên đây, Viện Kiểm sát đề nghị và Toà án cấp phúc thẩm áp dụng điểm 4 Điều 69, điểm a khoản 1 Điều 45 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án về phần bồi thường thiệt hại này, đồng thời uỷ thác cho Toà án cấp sơ thẩm xác minh có người thừa kế tham gia tố tụng hay không. Nếu kết quả xác minh cho thấy có người thừa kế tham gia tố tụng, thì Toà án cấp phúc thẩm tiến hành xét xử phúc thẩm (vì lý do của việc tạm đình chỉ không còn nữa) về phần bồi thường thiệt hại này. Nếu kết quả xác minh cho thấy không có người thừa kế tham gia tố tụng, thì Toà án cấp phúc thẩm áp dụng điểm 4 Điều 69 và điểm 1 Điều 46 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án về phần bồi thường thiệt hại này.
Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 10 tháng 1 năm 2001 và thay thế các văn bản trước đây của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự khi bị cáo đã chết trong giai đoạn xét xử phúc thẩm.
Trong quá trình thực hiện, nếu có gì vướng mắc cần được giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung, thì đề nghị phản ánh cho Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao để có sự giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung kịp thời.
Lược đồ
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây