Nghị quyết 23/NQ-TW 2018 chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến 2030
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
thuộc tính Nghị quyết 23/NQ-TW
Cơ quan ban hành: | Bộ Chính trị |
Số công báo: | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 23/NQ-TW |
Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Nghị quyết |
Người ký: | Nguyễn Phú Trọng |
Ngày ban hành: | 22/03/2018 |
Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | |
Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Lĩnh vực: | Công nghiệp, Chính sách |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Cụ thể, phấn đấu đến năm 2030, tỷ trọng công nghiệp trong GDP đạt trên 40%; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 30%, trong đó công nghiệp chế tạo đạt trên 20%; Tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt tối thiểu 45%. Bên cạnh đó, Bộ Chính trị cũng đặt mục tiêu, tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp đạt bình quân trên 8,5%/năm, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt bình quân trên 10%/năm….
Để đạt được những mục tiêu trên, Bộ Chính trị chủ trương trong giai đoạn đến năm 2030, tập trung ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp như: Công nghệ thông tin và viễn thông, công nghiệp điện tử ở trình độ tiên tiến của thế giới, đáp ứng được yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 nhằm tạo ra nền tảng công nghệ số cho các ngành công nghiệp khác; công nghiệp năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, năng lượng thông minh; công nghiệp chế biến, chế tạo phục vụ nông nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.
Tiếp đó, giai đoạn 2030-2045 sẽ tập trung ưu tiên phát triển các thế hệ mới của ngành công nghiệp công nghệ thông tin và viễn thông; phổ cập công nghệ kỹ thuật số, tự động hóa, thiết bị cao cấp, vật liệu mới, công nghệ sinh học.
Xem chi tiết Nghị quyết23/NQ-TW tại đây
tải Nghị quyết 23/NQ-TW
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG Số: 23-NQ/TW | ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Hà Nội, ngày 22 tháng 3 năm 2018 |
NGHỊ QUYẾT
CỦA BỘ CHÍNH TRỊ
VỀ ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP QUỐC GIA ĐẾN NĂM 2030, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2045
I- TÌNH HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành và lãnh đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, chính sách góp Phần quan trọng tạo nên những thành tựu phát triển công nghiệp đất nước. Công nghiệp là ngành kinh tế quan trọng, những năm gần đây có đóng góp lớn nhất cho ngân sách nhà nước, trở thành ngành xuất khẩu chủ đạo với tốc độ tăng trưởng ở mức cao. Cơ cấu các ngành công nghiệp có sự chuyển biến tích cực, một số ngành công nghiệp như: điện, điện tử, công nghệ thông tin và viễn thông, chế tạo thiết bị năng lượng, dệt may, da giày, xây dựng… đã có những bước phát triển mạnh mẽ, góp Phần tích cực trong giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất và nâng cao đời sống của nhân dân.
Tuy nhiên, nền công nghiệp nước ta thời gian qua phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chủ yếu phát triển theo Mục tiêu ngắn hạn, thiếu tính bền vững; nội lực của nền công nghiệp còn yếu, phụ thuộc nhiều vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; trình độ công nghệ còn lạc hậu, chậm được đổi mới; chất lượng sản phẩm, năng suất lao động ngành công nghiệp còn thấp; phát triển công nghiệp chưa gắn kết chặt chẽ với các ngành kinh tế khác; còn quá chú trọng vào lao động giá rẻ, chưa tận dụng tốt được lợi thế trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng...
Hiệu quả hoạt động của đa số doanh nghiệp công nghiệp nhà nước thấp, nhiều dự án công nghiệp quy mô lớn thua lỗ; hầu hết các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân trong nước là doanh nghiệp vừa và nhỏ; việc cơ cấu lại các ngành công nghiệp thực hiện còn chậm; năng lực cạnh tranh, khả năng tham gia vào chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu còn rất hạn chế, sản xuất công nghiệp chủ yếu là gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp; chưa có ngành công nghiệp mũi nhọn đóng vai trò dẫn dắt; nhiều ngành công nghiệp ưu tiên phát triển không đạt Mục tiêu đề ra; công nghiệp hỗ trợ kém phát triển, tỉ lệ nội địa hóa của các ngành công nghiệp ở mức thấp; tình trạng ô nhiễm môi trường từ phát triển công nghiệp ngày càng trầm trọng...
Những hạn chế, yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Nhận thức của các cấp uỷ, chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng về chính sách công nghiệp quốc gia có nơi, có lúc còn chưa đầy đủ, bị ảnh hưởng bởi lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm, tư duy nhiệm kỳ, chưa tạo được nhận thức chung và quyết tâm hành động thống nhất trong toàn hệ thống chính trị.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc của nhiều cấp ủy còn thụ động, thiếu quyết liệt; tư duy và cách tiếp cận trong xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách công nghiệp quốc gia còn bị ảnh hưởng bởi cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp. Quản lý của Nhà nước đối với một số lĩnh vực công nghiệp còn chồng chéo, có lúc bị buông lỏng, chưa quản lý và giám sát tốt về năng suất, chất lượng và hiệu quả đầu tư trong công nghiệp.
Chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển công nghiệp còn thiếu tổng thể, đồng bộ; chưa có nghị quyết chuyên đề về chính sách phát triển công nghiệp quốc gia qua các thời kỳ. Chính sách phát triển công nghiệp có nhiều nội dung chưa sát với thực tế, không phù hợp; chưa gắn kết chặt chẽ với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và lợi thế quốc gia; chưa xác định đúng vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp; thiếu chính sách đủ mạnh để tăng cường năng lực doanh nghiệp công nghiệp tư nhân; chưa tạo lập được môi trường kinh doanh thực sự thuận lợi, minh bạch, ổn định, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng; việc lựa chọn phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn còn dàn trải; chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ thiếu đồng bộ, tính khả thi thấp.
Chính sách huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực cho phát triển công nghiệp thiếu hiệu quả, chưa có bước đột phá. Chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp thiếu trọng tâm, trọng điểm, chưa đáp ứng được yêu cầu. Chính sách khoa học và công nghệ chưa trở thành động lực quan trọng nhất cho phát triển nhanh và bền vững ngành công nghiệp. Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chậm được đổi mới...
II- QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ MỤC TIÊU
A- Quan điểm chỉ đạo
- Nhận thức đầy đủ, tôn trọng, vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, phù hợp với các Điều kiện phát triển của đất nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, kiên quyết chống mọi biểu hiện duy ý chí, quan liêu, bao cấp trong quá trình xây dựng, thực thi chính sách công nghiệp quốc gia; bám sát, kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển công nghiệp và kinh nghiệm công nghiệp hóa của thế giới.
- Chính sách công nghiệp quốc gia là một bộ phận hữu cơ của chiến lược, chính sách phát triển đất nước, gắn liền với chính sách phát triển các ngành kinh tế khác, đặc biệt là chính sách thương mại quốc gia, tài chính-tiền tệ, khoa học, công nghệ, đào tạo, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp với chiến lược tổng thể phát triển công nghiệp, giữa chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp với chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành kinh tế khác để hình thành các vùng công nghiệp, cụm liên kết ngành công nghiệp, khu công nghiệp, các mạng sản xuất, chuỗi giá trị công nghiệp, trong đó cụm liên kết ngành công nghiệp là trọng tâm.
- Kết hợp hài hòa giữa phát triển công nghiệp theo cả chiều rộng và chiều sâu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, tạo bước đột phá trong nâng cao năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp. Tận dụng tối đa lợi thế của nước đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, khai thác triệt để thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, lợi thế thương mại để phát triển nhanh, chuyên sâu một số ngành công nghiệp nền tảng, chiến lược, có lợi thế cạnh tranh. Phát triển công nghiệp công nghệ thông tin, công nghiệp điện tử là con đường chủ đạo; phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo là trung tâm; phát triển công nghiệp chế tạo thông minh là bước đột phá; chú trọng phát triển công nghiệp xanh.
- Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo giữ vị trí then chốt, là khâu đột phá trong chính sách công nghiệp quốc gia; tận dụng hiệu quả lợi thế của nước đi sau trong công nghiệp hóa, đặc biệt là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 để có cách tiếp cận, đi tắt, đón đầu một cách hợp lý trong phát triển các ngành công nghiệp. Việc lựa chọn các ngành công nghiệp ưu tiên phải khách quan, dựa trên các nguyên tắc, hệ thống tiêu chí rõ ràng, phù hợp với từng giai đoạn công nghiệp hóa của đất nước, phát huy tốt nhất lợi thế quốc gia.
- Nhà nước giữ vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế cho phát triển công nghiệp, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh công nghiệp thuận lợi, ổn định, minh bạch, cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất trong công nghiệp.
- Phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh theo hướng lưỡng dụng, thực sự trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia; tăng cường tiềm lực, tận dụng và phát triển liên kết công nghiệp quốc phòng, an ninh và công nghiệp dân sinh.
B- Mục tiêu
1- Mục tiêu tổng quát
- Đến năm 2030, Việt Nam hoàn thành Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công nghiệp, trong đó một số ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
- Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại.
2- Mục tiêu cụ thể đến năm 2030
- Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đạt trên 40%; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt Khoảng 30%, trong đó công nghiệp chế tạo đạt trên 20%.
- Tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt tối thiểu 45%.
- Tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp đạt bình quân trên 8,5%/năm, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo đạt bình quân trên 10%/năm.
- Tốc độ tăng năng suất lao động công nghiệp đạt bình quân 7,5%/năm.
- Chỉ số hiệu suất cạnh tranh công nghiệp (CIP) nằm trong nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN.
- Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ đạt trên 70%.
- Xây dựng được một số cụm liên kết ngành công nghiệp, doanh nghiệp công nghiệp trong nước có quy mô lớn, đa quốc gia, có năng lực cạnh tranh quốc tế.
III- ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP QUỐC GIA
1- Chính sách phân bố không gian và chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp
- Thực hiện Điều chỉnh phân bố không gian công nghiệp phù hợp với yêu cầu cơ cấu lại các ngành công nghiệp và phát triển các ngành kinh tế trên từng vùng, từng địa phương theo hướng tập trung, không dàn đều theo địa giới hành chính, bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường, quốc phòng, an ninh. Có chính sách thúc đẩy việc dịch chuyển các ngành công nghiệp chủ yếu dựa vào tài nguyên và lao động, tác động xấu đến môi trường sang các ngành công nghiệp công nghệ cao, thân thiện với môi trường. Chống mọi biểu hiện duy ý chí, lợi ích cục bộ trong phân bố không gian công nghiệp.
- Xây dựng các tiêu chí, Điều kiện, cơ chế cụ thể để xác định và phát triển các cụm liên kết ngành công nghiệp, bảo đảm tập trung, trọng tâm, trọng điểm, trước hết ưu tiên lựa chọn phát triển tại các vùng, địa phương đã bước đầu hình thành các cụm liên kết ngành công nghiệp hoặc có lợi thế về giao thông, địa kinh tế, tài nguyên, lao động, logistics, có khả năng trở thành động lực tăng trưởng. Triển khai cơ chế, chính sách xây dựng thí điểm về cụm liên kết ngành công nghiệp đối với một số sản phẩm trong các ngành công nghiệp ưu tiên theo lợi thế cạnh tranh, chuyên môn hóa và chuỗi giá trị.
Các chính sách hỗ trợ của Nhà nước về phát triển cụm liên kết ngành công nghiệp tập trung vào tạo dựng môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, xây dựng kết cấu hạ tầng, khuyến khích mọi thành Phần kinh tế tham gia phát triển các cụm liên kết ngành công nghiệp. Xây dựng tiêu chí và phương pháp đánh giá hoạt động của cụm liên kết ngành công nghiệp, khu công nghiệp, khu công nghệ cao.
- Xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và mức độ thông minh. Đẩy nhanh tích hợp công nghệ thông tin và tự động hóa trong sản xuất công nghiệp nhằm tạo ra các quy trình sản xuất thông minh, mô hình nhà máy thông minh, phát triển sản xuất các sản phẩm, thiết bị thông minh. Xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn công nghệ, kỹ thuật sản xuất thông minh.
2- Chính sách phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên
- Lựa chọn một số ngành công nghiệp để ưu tiên phát triển theo hướng phải đáp ứng các nguyên tắc: Dựa trên kết quả phân tích khách quan lợi thế của đất nước; là ngành có khả năng tham gia sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu; có ý nghĩa nền tảng, có tác động lan tỏa cao đến các ngành kinh tế khác; sử dụng các công nghệ sạch, thân thiện môi trường; có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao; một số ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động mà Việt Nam vẫn đang có lợi thế. Việc xác định các ngành công nghiệp ưu tiên phải có tính động và linh hoạt cần thiết, định kỳ phải đánh giá hiệu quả hoạt động theo các tiêu chí để có Điều chỉnh phù hợp.
- Giai đoạn đến năm 2030, tập trung ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp như: Công nghệ thông tin và viễn thông, công nghiệp điện tử ở trình độ tiên tiến của thế giới, đáp ứng được yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 nhằm tạo ra nền tảng công nghệ số cho các ngành công nghiệp khác; công nghiệp năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, năng lượng thông minh; công nghiệp chế biến, chế tạo phục vụ nông nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Ưu tiên phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh, kết hợp với công nghiệp dân sinh theo hướng lưỡng dụng. Tiếp tục phát triển công nghiệp dệt may, da giày nhưng ưu tiên tập trung vào các khâu tạo giá trị gia tăng cao gắn với các quy trình sản xuất thông minh, tự động hóa. Ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực cơ khí như: ôtô, máy nông nghiệp, thiết bị công trình, thiết bị công nghiệp, thiết bị điện, thiết bị y tế…
- Giai đoạn 2030-2045, tập trung ưu tiên phát triển các thế hệ mới của ngành công nghiệp công nghệ thông tin và viễn thông; phổ cập công nghệ kỹ thuật số, tự động hóa, thiết bị cao cấp, vật liệu mới, công nghệ sinh học.
- Các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với các ngành công nghiệp ưu tiên phải theo cơ chế thị trường, tuân thủ các Điều Khoản cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết; có thời hạn cụ thể (trung bình là 5 năm nhưng không quá 10 năm). Đầu tư của Nhà nước vào các ngành công nghiệp ưu tiên chủ yếu đóng vai trò hỗ trợ, khuyến khích khu vực tư nhân tham gia. Tránh dàn trải trong lựa chọn các ngành công nghiệp ưu tiên, bảo đảm đủ các nguồn lực cần thiết.
3- Chính sách tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển công nghiệp
- Thực thi các chính sách bảo đảm ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô để tạo Điều kiện thu hút đầu tư và phát triển công nghiệp. Hoàn thiện các chính sách tài chính, tiền tệ, thuế để hỗ trợ và thúc đẩy phát triển công nghiệp. Đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại thị trường tài chính, bảo đảm cơ cấu hợp lý giữa thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Phát triển thị trường chứng khoán trở thành kênh huy động quan trọng vốn trung và dài hạn cho phát triển công nghiệp. Có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp công nghiệp đủ Điều kiện phát hành cổ phiếu và trái phiếu, niêm yết trên thị trường chứng khoán trong nước và quốc tế.
Điều hành chính sách tỷ giá linh hoạt, hướng đến thúc đẩy và hỗ trợ xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp ưu tiên của đất nước. Có cơ chế đặc thù và đẩy mạnh tín dụng hỗ trợ, khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp có giá trị gia tăng cao, các ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp phụ trợ. Hoàn thiện các chính sách tín dụng cho vay theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị trong sản xuất công nghiệp, cho vay trên cơ sở hiệu quả của các dự án đầu tư. Xây dựng cơ chế hoạt động hiệu quả đối với các quỹ đầu tư mạo hiểm.
Thực hiện chính sách miễn, giảm thuế ở mức hợp lý và có thời hạn phù hợp đối với các ngành công nghiệp ưu tiên, các ngành công nghiệp thông minh. Đẩy nhanh kết nối liên thông giữa quản lý thuế và hải quan, giữa các cơ quan có liên quan theo cơ chế một cửa quốc gia và kết nối một cửa ASEAN. Hoàn thiện các quy định về chống chuyển giá, chống trốn thuế phù hợp với thông lệ quốc tế.
Nâng cao khả năng tiếp cận tài chính, tín dụng (kể cả vốn vay từ nước ngoài) đối với các doanh nghiệp công nghiệp, nhất là các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp đổi mới sáng tạo. Xoá bỏ triệt để các rào cản, bất bình đẳng trong tiếp cận tài chính, tín dụng của các doanh nghiệp công nghiệp thuộc các thành Phần kinh tế.
- Tổ chức lại thị trường các sản phẩm công nghiệp. Đẩy nhanh việc thực hiện cơ chế giá thị trường theo lộ trình đối với các hàng hóa thiết yếu (như xăng dầu, than, điện, nước,...). Xây dựng và thực thi hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật trong ngành công nghiệp phù hợp để bảo vệ sản xuất và người tiêu dùng trong nước. Hướng dẫn và có các biện pháp hỗ trợ phù hợp để các doanh nghiệp công nghiệp tham gia có hiệu quả các hiệp định thương mại tự do đã ký kết. Tích cực tháo gỡ các rào cản, chống các hành vi độc quyền, cạnh tranh không lành mạnh. Phát triển các loại hình và phương thức kinh doanh thương mại hiện đại; xây dựng và thực thi Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia đối với các sản phẩm công nghiệp.
Đa dạng hóa thị trường nhập khẩu nguyên liệu, thiết bị phục vụ phát triển công nghiệp, tránh phụ thuộc vào một số thị trường. Tăng cường công tác kiểm tra chất lượng hàng công nghiệp nhập khẩu và sử dụng các hàng rào kỹ thuật để bảo vệ hợp lý thị trường trong nước phù hợp với các cam kết và thông lệ quốc tế.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường. Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, vi phạm quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực công nghiệp, bảo đảm môi trường sản xuất kinh doanh lành mạnh.
- Xây dựng chính sách đột phá tạo lập môi trường khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, nhất là khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Triển khai đồng bộ và quyết liệt các đề án, Chương trình hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia.
4- Chính sách phát triển doanh nghiệp công nghiệp
- Đẩy nhanh việc sắp xếp, đổi mới các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp thông qua việc triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XII. Nhà nước chỉ nắm giữ cổ Phần chi phối đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực công nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế gắn với quốc phòng, an ninh. Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, đa sở hữu trong lĩnh vực công nghiệp, có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới.
- Phát triển các doanh nghiệp công nghiệp tư nhân trong nước thực sự trở thành một động lực quan trọng cho phát triển công nghiệp đất nước trên cơ sở triển khai thực hiện quyết liệt Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XII. Chú trọng xây dựng và triển khai các chính sách nâng cao năng lực công nghệ, quản trị cho các doanh nghiệp công nghiệp trong nước. Có chính sách khuyến khích và hỗ trợ hình thành các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp tư nhân có quy mô lớn trong lĩnh vực công nghiệp.
- Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp công nghiệp nhỏ và vừa, các doanh nghiệp hỗ trợ thuộc mọi thành Phần kinh tế. Hình thành và phát triển hệ thống các doanh nghiệp dịch vụ tư vấn phát triển công nghiệp. Xây dựng tiêu chí ưu tiên trong lựa chọn phát triển công nghiệp hỗ trợ, tập trung vào các khâu còn yếu của chuỗi giá trị sản phẩm hoặc công đoạn quyết định đến chất lượng, giá trị sản phẩm của ngành. Hỗ trợ phát triển các nhà cung ứng trong các ngành công nghiệp ưu tiên, coi đây là cốt lõi của chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ.
- Đổi mới chính sách và đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào công nghiệp, nhất là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Chuyển mạnh chính sách thu hút FDI trong lĩnh vực công nghiệp từ số lượng sang chất lượng và có trọng tâm, trọng điểm. Định hướng lựa chọn và khuyến khích dự án FDI vào các ngành công nghiệp đến năm 2030 theo hướng: Ưu tiên các dự án sử dụng công nghệ "cao, mới, sạch, tiết kiệm", sử dụng nhiều nguyên liệu, linh phụ kiện sản xuất trong nước, có tỷ lệ chi cho nghiên cứu và phát triển khoa học-công nghệ trong nước cao, có cam kết chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực tại chỗ; ưu tiên hình thức liên doanh, liên kết sản xuất với các doanh nghiệp trong nước; ưu tiên các công ty đa quốc gia có thương hiệu quốc tế và có năng lực cạnh tranh cao, các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ.
Quy định chặt chẽ về chế độ báo cáo thông tin của các doanh nghiệp FDI với các cơ quan quản lý nhà nước, tăng cường bảo đảm quốc phòng, an ninh kinh tế. Xây dựng và công khai danh Mục các dự án đầu tư công nghiệp quốc gia và triển khai các hoạt động xúc tiến đầu tư để thu hút FDI có chất lượng cao. Nghiên cứu, xây dựng các mô hình mới thu hút FDI trong lĩnh vực công nghiệp.
5- Chính sách phát triển nguồn nhân lực công nghiệp
- Nghiên cứu, thực hiện cơ chế, chính sách phát triển nhân lực công nghiệp, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4.
- Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nhằm tạo ra nguồn nhân lực công nghiệp có khả năng làm chủ và tiếp nhận các công nghệ sản xuất mới. Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học thuộc lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật. Tập trung phát triển một số cơ sở đào tạo bậc đại học và dạy nghề về công nghệ, kỹ thuật đạt trình độ quốc tế. Đẩy mạnh xã hội hoá đào tạo kỹ thuật, công nghệ. Triển khai mô hình đào tạo về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM), ngoại ngữ, tin học ngay từ Chương trình giáo dục phổ thông. Khuyến khích khu vực tư nhân và các doanh nghiệp tham gia đào tạo nhân lực công nghiệp chất lượng cao, gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu, đào tạo với hoạt động sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động công nghiệp.
- Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động công nghiệp cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành nghề. Có cơ chế, chính sách để định hướng dịch chuyển lao động, nhất là lao động nông nghiệp sang lao động công nghiệp, phân bổ hợp lý lao động theo vùng.
- Rà soát, Điều chỉnh, bổ sung các chính sách bảo đảm phúc lợi xã hội cho người lao động trong lĩnh vực công nghiệp, bao gồm cả chính sách về tiền lương, bảo hiểm, bảo hộ lao động. Đổi mới chính sách tiền lương, tiền công theo nguyên tắc thị trường, phù hợp giữa tăng tiền lương và tăng năng suất lao động. Hoàn thiện chính sách về nhà ở và các công trình phúc lợi công cộng cho cán bộ có trình độ kỹ thuật cao và công nhân tại các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao. Có chính sách thu hút và sử dụng nhân tài có trình độ kỹ thuật chuyên môn cao, có năng lực đổi mới sáng tạo, nhất là đội ngũ chuyên gia là người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
- Tăng cường xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân công nghiệp Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ doanh nhân có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng quản lý, quản trị hiện đại, có đạo đức kinh doanh và tinh thần trách nhiệm đối với quốc gia, dân tộc.
- Chú trọng xây dựng đội ngũ công nhân Việt Nam có tác phong công nghiệp, ý thức tổ chức kỷ luật, tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; gắn bó mật thiết với nhân dân, đất nước.
6- Chính sách khoa học và công nghệ cho phát triển công nghiệp
- Phát triển mạnh mẽ tạo sự bứt phá về hạ tầng, ứng dụng công nghệ thông tin-truyền thông, nhất là hạ tầng kết nối số (4G, 5G) bảo đảm an toàn, đồng bộ đáp ứng yêu cầu Internet kết nối con người và kết nối vạn vật. Xây dựng Chiến lược chuyển đổi số quốc gia. Khuyến khích đầu tư, phát triển xây dựng các trung tâm dữ liệu lớn; đẩy mạnh phát triển khoa học phân tích, quản lý và xử lý dữ liệu lớn nhằm tạo ra các sản phẩm, tri thức mới. Tạo mọi Điều kiện cho người dân và doanh nghiệp dễ dàng, thuận lợi, bình đẳng trong tiếp cận các cơ hội phát triển nội dung số. Xây dựng và thực hiện Chiến lược tiếp cận và chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 của Việt Nam.
- Ưu tiên nguồn lực, tiếp tục triển khai có hiệu quả Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020, Chương trình phát triển một số ngành công nghiệp công nghệ cao, Chương trình quốc gia nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hoá của doanh nghiệp Việt Nam đến năm 2020. Đẩy nhanh việc thực hiện Đề án ứng dụng khoa học và công nghệ trong quá trình tái cơ cấu ngành công thương giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
- Đổi mới, phát triển mạnh mẽ và đồng bộ thị trường khoa học-công nghệ. Tăng cường bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ, nhất là sở hữu trí tuệ trong thời đại số. Có chính sách đủ mạnh để hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, các viện nghiên cứu, trường đại học, các doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ vào sản xuất kinh doanh; xác định doanh nghiệp là lực lượng quan trọng và là trung tâm trong phát triển và ứng dụng khoa học-công nghệ; tập trung nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp.
Tăng cường hợp tác trong nước và quốc tế trong nghiên cứu phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, mua bán, chuyển giao các sản phẩm khoa học, công nghệ. Đẩy mạnh thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu khoa học, công nghệ. Hình thành cơ sở dữ liệu quốc gia về công nghệ, chuyên gia công nghệ. Phát triển các dịch vụ tư vấn, thẩm định, môi giới, định giá sản phẩm khoa học và công nghệ. Ban hành cơ chế, chính sách thúc đẩy hợp tác, chuyển giao công nghệ giữa công nghiệp quốc phòng, an ninh và công nghiệp dân sinh.
Có cơ chế, chính sách phù hợp để định hướng và kiểm soát chặt chẽ công nghệ đối với các ngành công nghiệp trên nguyên tắc kết hợp giữa tranh thủ công nghệ tiên tiến, lợi thế của nước đi sau, đi tắt đón đầu với cách tiếp cận tiệm tiến nhằm tận dụng tối đa lợi thế của thời kỳ cơ cấu "dân số vàng" và khai thác có hiệu quả năng lực sản xuất hiện có; quản lý chặt chẽ việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ công nghiệp, bảo đảm chất lượng và hiệu quả cao.
- Đổi mới căn bản, đồng bộ cơ chế quản lý tài chính đối với các tổ chức và hoạt động khoa học-công nghệ; phương thức sử dụng ngân sách nhà nước cho khoa học-công nghệ. Đẩy mạnh cơ chế hợp tác công-tư trong việc triển khai các dự án đổi mới công nghệ, nghiên cứu và phát triển; mở rộng hình thức nhà nước đặt hàng nhiệm vụ khoa học-công nghệ và mua kết quả nghiên cứu. Rà soát, sửa đổi các quy định nhằm tạo Điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hình thành quỹ nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học-công nghệ đủ lớn để đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ. Áp dụng chính sách thuế, hỗ trợ tài chính, tiếp cận các nguồn lực phù hợp nhằm khuyến khích nghiên cứu, đổi mới, hiện đại hóa công nghệ.
- Hỗ trợ xây dựng và phát triển các doanh nghiệp khoa học-công nghệ trong công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp ưu tiên. Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp khoa học-công nghệ trong các lĩnh vực, ngành công nghiệp chủ lực, ưu tiên.
7- Chính sách khai thác tài nguyên, khoáng sản và chính sách bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu trong quá trình phát triển công nghiệp
- Đẩy mạnh Điều tra cơ bản địa chất, tìm kiếm, thăm dò, đánh giá trữ lượng tài nguyên trên đất liền và thềm lục địa của đất nước. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên, khoáng sản. Chỉ cho phép áp dụng các công nghệ khai thác, chế biến khoáng sản hiện đại, tiết kiệm, bảo vệ môi trường, mang lại hiệu quả kinh tế-xã hội bền vững. Điều chỉnh chính sách, pháp luật về đất đai, tạo Điều kiện cho doanh nghiệp công nghiệp tiếp cận thuận lợi theo cơ chế thị trường, phù hợp với quy hoạch.
- Thực hiện lồng ghép các yêu cầu thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai, bảo vệ môi trường trong tất cả các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, Chương trình, dự án phát triển công nghiệp. Ban hành chính sách khuyến khích các dự án đầu tư sử dụng tiết kiệm năng lượng, tài nguyên và bảo vệ môi trường. Rà soát, sửa đổi các quy chuẩn kỹ thuật về môi trường của các ngành công nghiệp; quy định rõ trách nhiệm bảo vệ môi trường của các cơ sở sản xuất công nghiệp và có chế tài xử lý nghiêm vi phạm. Xây dựng chính sách khuyến khích phát triển mạnh ngành công nghiệp môi trường; đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường.
8- Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và triển khai thực hiện chính sách phát triển công nghiệp quốc gia
- Nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp uỷ đảng và chính quyền về vai trò và nội dung của chính sách công nghiệp quốc gia trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước. Xác định việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách công nghiệp quốc gia là một trong những nội dung lãnh đạo quan trọng của các cấp uỷ đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương. Gắn các Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển công nghiệp phù hợp với các Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, của từng ngành và từng cấp.
- Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực công nghiệp. Thực hiện cơ cấu lại hệ thống quản lý công nghiệp từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm tập trung, thông suốt, hiệu quả, có phân công, phân cấp rõ ràng. Phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và quản lý sản xuất kinh doanh trong công nghiệp phù hợp với đặc trưng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương trong hoạch định và thực thi chính sách; khắc phục kịp thời tình trạng không thống nhất, thực thi kém hiệu quả các quy định pháp luật.
- Mở rộng sự tham gia thiết thực, có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội, xã hội-nghề nghiệp, các đối tượng chịu tác động của chính sách vào quá trình hoạch định và giám sát thực thi chính sách công nghiệp quốc gia. Kiên quyết chống lợi ích nhóm, quan hệ thân hữu, tham nhũng, lãng phí trong xây dựng và thực thi chính sách phát triển công nghiệp quốc gia.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Các ban đảng Trung ương, các ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương tổ chức nghiên cứu, quán triệt và xây dựng kế hoạch thực hiện Nghị quyết phù hợp với tình hình của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; xây dựng Chương trình, kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết với lộ trình và phân công cụ thể; bổ sung các chỉ tiêu nêu trong Nghị quyết vào kế hoạch năm của ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị; định kỳ kiểm tra, đánh giá việc thực hiện.
2- Đảng đoàn Quốc hội chỉ đạo bổ sung Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, ưu tiên các dự án luật trực tiếp phục vụ triển khai thực hiện Nghị quyết; tăng cường giám sát của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội về xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách công nghiệp quốc gia.
3- Ban cán sự đảng Chính phủ chủ trì rà soát, nghiên cứu bổ sung hoặc xây dựng mới Chiến lược phát triển công nghiệp; Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp phù hợp với yêu cầu của Nghị quyết.
4- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội xây dựng Chương trình, kế hoạch giám sát việc thực hiện Nghị quyết.
5- Ban Tuyên giáo Trung ương chủ trì, phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương tổ chức hướng dẫn, tuyên truyền sâu rộng về nội dung Nghị quyết và kết quả thực hiện.
6- Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với Văn phòng Trung ương Đảng, các ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương thường xuyên theo dõi, giám sát, kiểm tra, đôn đốc việc triển khai thực hiện Nghị quyết; định kỳ sơ kết, tổng kết, báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
| TM BỘ CHÍNH TRỊ TỔNG BÍ THƯ (đã ký) Nguyễn Phú Trọng |
THE CENTRAL COMMITTEE No. 23-NQ/TW |
THE COMMUNIST PARTY OF VIETNAM
Hanoi, March 23, 2018 |
RESOLUTION
OF THE POLITICAL BUREAU
ON THE ORIENTATION TO FORMULATE THE NATIONAL INDUSTRIAL DEVELOPMENT TOWARDS 2030 WITH THE VISION TOWARD 2045
I. THE SITUATION AND CAUSES
Over the past time, our Party and State have issued and directed the implementation of many guidelines and policies which has an importance role in the contribution to the achievements of industrial development of the country. Industry is an important economic economic sector, which in recent years, has made the biggest contribution to the State budget, becoming the main export sector with high growth rate. The structure of industry has had positive changes, with some industries such as: electricity, electronics, information technology and telecommunications, manufacturing energy equipment, textiles, footwear, construction... have made major development stages, positively contributing to job creation, labor restructuring, increasing productivity and improving people's living standards.
However, the development of the national industrial in the past time has not met the requirement of national industrialization and modernization, generally develop toward short-term goals and lack of sustainability. the internal strength of the industry is remain low powered, heavily dependent on foreign invested enterprises; Technology standard is backward and be improved slowly; quality of products and labor productivity of industry remain low; industry development is not closely attach to other economic sectors; the cheap labor has been emphasized, lead to the lack of making good use of the advantages in the period of golden population structure…
The operating efficiency of the majority of state owned industrial enterprises is low with many large scale industrial projects suffer losses; almost domestic private industrial enterprises is small- and medium-sized enterprise; the restructure of industrial sectors is still slow; the competing capability and the ability to join the regional and international value chain is restrictive, industrial production contain mostly machining and assembly with low added value; there is a lack of the key industry which plays the role of leading industry; many of industries with priority development did not reach the set goals; the supportive industry is underdevelopment; the rate of localization of industries is still low; the issue of environment pollution caused by industry development becomes worse...
The limitations and weaknesses mentioned above are due to many reasons, but subjective reason is the major one. Awareness of committees, authorities, businesses and communities on industrial policy is sometimes insufficient and affected by local interests, group benefits and term-based thinking, has not yet created common awareness and determination to act consistently in the entire political system.
The leadership, direction, inspection and urging of many committees are still passive, lacking drastic manner; the mindset and approaches in the formulation and implementation of national industrial policy are still affected by central planning regime and subsidies. State management on a number of industrial sectors is overlapping, sometimes loosen, and has not been well managed and supervised in terms of productivity, quality and investment efficiency in industry.
The guidelines and policies of the Party and the State on industrial development are not untied and synchronous; the thematic resolution on national industrial development policy for each period of time has not been promulgated yet. Policy on industrial development contains plenty of contents which is unpractical and not suitable; not closely linked to the strategy, planning, master plans for socio-economic development of the country and national advantages; the role of state-owned enterprises in implementing the industrial development strategy has not been properly defined; lack of powerful policies to strengthen the capacity of private industrial enterprises; has not yet created a really favorable, transparent, stable, wholesome and fair business environment; the selection of development of priority industries and key industries is still widespread; supporting industry development policies are not synchronous, low feasibility.
Policies on mobilizing, distributing and using resources for industrial development are ineffective and have not had a breakthrough. The industrial human resource development policy lacks of focus and center and has not met the requirements. Science and technology policy has not yet become the most important driving force for the speedy and sustainable development of the industry. Policies to attract foreign direct investment (FDI) are slowly being reformed...
II. DIRECTIONS AND OBJECTIVES
A. Directions
- Fully aware, respect, and properly apply the objective laws of the market economy in compliance with development conditions of the country, promote the synergy of the entire political system, resolutely oppose all manifestations of willpower, bureaucracy and subsidies in the process of formulating and implementing national industrial policies; closely follow, selectively inherit the achievements of industrial development and industrialization of the world.
- National industrial policy is an integral part of national development strategies and policies, associated with the development policy of other economic sectors, especially policy on national trade, finance-currency, science, technology, training, environmental protection and climate change response. Ensure close linkage between the planning for industrial development and the overall strategy for industrial development; between the strategies and planning for the development of industries and strategies and plans for the development of other economic sectors to establish industrial regions, industrial clusters, industrial zones, production networks, industrial value chains, in which industrial clusters are focused.
- Harmoniously combine industrial development in both width and depth, focusing on in-depth development, creating a breakthrough in improving productivity, quality and competitiveness of industrial products. Make the most of the advantages of the country in the period of golden population structure, fully exploit the achievements of the Fourth Industrial Revolution, commercial advantages for rapid and intensive development of a number of platform, strategic and have competitive advantage industries. The development of the information technology industry and the electronics industry shall be the key schedule; processing and manufacturing industry development shall be the central; the development of smart manufacturing shall be a breakthrough as well as focus on green industry development.
- Science and technology, education and training shall hold a key position and be a breakthrough in national industrial policy; to effectively take advantage of the latecomers' in industrialization, especially the Fourth Industrial Revolution to approach and to take short cut in a reasonable anticipation in the development of industries. The selection of priority industries must be objective, based on clear principles and criteria system, suitable to each stage of the country's industrialization, and promote the national advantage in the best way.
- The State shall play the role of orientation, formulation and perfecting institutions for industrial development, creating a favorable, stable, transparent, fair and healthy competition; the market shall play the major role in efficiency mobilization and decentralization of resources, be the key driver to unleash the productive force in industry.
- To develop defense and security industries in the direction of dual use, to truly become the key industry of national industry; strengthen potentials, make use of and develop links between defense, security and civil industry.
B. Objectives
1. Overall objectives:
- To 2030, Vietnam complete the goal of industrialization and modernization, basically becoming an industrial country in the direction of modernization; belongs to the group of three leading ASEAN countries in industry, with a number of industries are internationally competitive and deeply involved in the global value chain.
- The vision towards 2045 shall be that Vietnam become a modern industrialized country.
2. Specific objectives towards 2030:
- The industrial sector will account for over 40% of GDP, in which manufacturing and processing industries will make up about 30% and the manufacturing industry alone will account for over 20%.
- The proportion of the value of high-tech industrial products in the processing and manufacturing industries will reach at least 45%.
- The average annual growth rate of industrial added value will increase by over 8.5%, in which that of the processing and manufacturing industries will be over 10%.
- The average growth rate of labor productivity in the industrial sector will be 7.5%.
- The Competitiveness Industrial Performance (CIP) index will be among the top three ASEAN countries.
- The proportion of labor in the industrial and service sectors will surpass 70%.
- To build a number of industrial clusters combination and domestic industrial enterprises with large-scale, multinational which have international competitiveness.
III. ORIENTATION OF FORMULATION OF POLICY TO DEVELOP NATIONAL INDUSTRY
1. Policy for spatial redistribution and industrial structure shift
- To adjust the distribution of industrial space to suit the requirements of restructuring industries and developing economic sectors in each region and locality in the direction of concentration, unevenly according to administrative boundaries, meeting the requirements of environmental protection, national defense and security. To adopt policies to promote the shift of industries that rely heavily on labor and resources, with negative environmental impacts, to high-tech, environmentally friendly industries. To against all manifestations of rationalism, local interests in the distribution of industrial space
- To develop specific criteria, conditions and mechanisms for identifying and developing industry clusters, to ensure concentration and focus, first of all, to choose development in regions and localities where industrial clusters have initially been formed or where advantages in transport infrastructure, geo-economics, natural resources, labor and logistics exist, that are capable of becoming the engine of growth. Implement mechanisms and policies to pilot industrial linkage clusters for a number of products in priority industries according to competitive advantage, specialization and value chain.
State supportive policies for industrial cluster development focus on creating favorable investment and business environment, building infrastructure, encouraging all economic sectors to participate in development industrial linkage clusters. On that basis, formulate criteria and plan to assess operations of industrial linkage clusters, industrial parks and hi-tech zones.
- To develop mechanisms and policies to promote the structural transformation of the industry in the direction of increasing added value and intelligence level. Accelerate the integration of information technology and automation in industrial production in order to create smart production processes, smart factory models, develop and manufacture smart products and devices. Develop and issue technology standards and smart technique for production.
2. Development policies for priority industries
- To select a number of industry for priority development towards the direction of which principles must be met: Based on the results of an objective analysis of the country's advantages; is an industry capable of deeply participating in the global production network and value chain; has fundamental significance, has a high spillover effect on other economic sectors; use clean and environmentally friendly technologies; capable of creating high added value; some industries use a lot of labor in which Vietnam still has advantages. The identification of priority industries must have the necessary dynamism and flexibility, and shall be periodically evaluated in term of performance according to the criteria for appropriate adjustment.
- In the period from now to 2030, to prioritize the development of a number of industries such as: Information technology, telecommunications and electronic industry shall be at the advanced level of the world, meeting the requirements of the Fourth Industrial Revolution to create the digital platform for other industries; clean energy industry, renewable energy, smart energy; processing and manufacturing industries for agriculture to meet international standards. Prioritize the development of defense and security industries, combining with civil industry in the direction of dual use. Continue to develop the textile and footwear industries, but prioritize and focus on stages of creating high added value associated with smart and automated production processes. Prioritize the development of a number of mechanical branches and fields such as: automobile, agricultural machine, construction equipment, industrial equipment, electrical equipment, medical equipment...
- In the period 2030-2045, to give priority to developing new generations of information technology and telecommunications industries; universalizing digital technology, automation, high-end equipment, new materials, and biotechnology.
- The State's support policies for priority industries must follow the market mechanism and comply with the terms of international commitments to which Vietnam is a signatory; have a specific term (with the average of 05 years but no longer than 10 years). The State investment in priority industries shall mainly plays a supporting role, to encourage the private sector to participate. To avoid spreading in the selection of priority industries, ensuring all the necessary resources.
3. Policy to create a favorable investment and business environment for the development of industries
- To implement policies to ensure stable macroeconomic stability to facilitate investment attraction and develop the industry. To finalize financial, monetary and tax policies to support and promote industrial development. To accelerate the process of restructuring financial markets, ensuring a reasonable structure between money markets and capital markets. To develop the stock market to become an important channel to mobilize medium and long-term capital for industrial development. To formulate policies to support industrial enterprises which eligible to issue shares and bonds to list on domestic and international stock markets.
To operate the exchange rate policy flexibly, aiming to promote and support the export of the country's priority industrial products. To adopt a specific mechanism and promote credit to support and encourage investment in high value-added industries, priority industries, high-tech industries, and supporting industries. To finalize credit policies for lending by production network, value chain in industrial production, lending on the basis of efficiency of investment projects. To develop an effective mechanism for venture capital funds.
To implement tax exemption and reduction policies at a reasonable level and time for priority industries, smart industries. To accelerate the interconnection between tax administration and customs, between relevant agencies according to the national single-window mechanism and ASEAN single-window connection. To finalize regulations on anti-transfer pricing and anti-tax evasion in line with international practices.
To improve access to finance and credit (including foreign loan capitals) for industrial enterprises, especially small- and medium-sized industrial enterprises and innovative enterprises. To completely remove barriers and inequalities in access to finance and credit of industrial enterprises of all economic sectors.
- To reorganize the market of industrial products. To accelerate the implementation of the market price mechanism according to a specific road map for essential goods (such as petroleum, coal, electricity, water...). To develop and enforce a system of appropriate industrial standards and technical standards to protect domestic producers and consumers. To provide guidance and appropriate support measures for industrial enterprises to effectively participate in the signed free trade agreements. To actively remove barriers, fight against monopolistic practices and unfair competition. To develop modern commercial trading types and methods; to build and implement the Program on national trade promotion for industrial products.
To diversify the import market of raw materials and equipment for industrial development, avoiding dependence on a number of markets. To strengthen quality control of imported industrial goods and use technical barriers to reasonably protect the domestic market in consistent with international commitments and practices.
To increase the quality and effectiveness of market inspection and control. To promote the combating of smuggling, commercial fraud, counterfeit goods and violations of regulation on intellectual property in the industry field, ensure the healthy environment for production and business.
- To develop breakthrough policies to create a startup environment in the industrial sector, especially innovative start-ups. To implement synchronously and drastically projects and programs to support national innovation startups.
4. Policy for the development of industrial enterprises
- To accelerate the reorganization and renewal of state enterprises in the industrial sector through the effective implementation of the Resolution No. 12-NQ/TW, dated June 03, 2017 of the XIIth Central Committee of the Communist Party of Vietnam. The State shall only holds dominant shares of enterprises operating in industrial sectors and fields that are of particular importance in economic terms associated with national defense and security. To adopt policies to encourage, support and promote the formation of large, multi-owned economic groups in the industrial sector, capable of competing in the regional and international markets.
- To develop domestic private industrial enterprises to become an important driving force for the country's industrial development on the basis of the drastic implementation of the Resolution No. 10-NQ/TW dated June 03, 2017 of the XII Central Committee of the Communist Party of Vietnam. To pay attention to formulating and implementing policies to improve technology and governance capacity for domestic industrial enterprises. To adopt policies to encourage and support the formation of economic groups and large-scale private enterprises in the industrial sector.
- To encourage the development of small- and medium-sized industrial enterprises and supporting enterprises of all economic sectors. To form and develop a system of industrial development consulting service businesses. To establish priority criteria in the selection of supporting industry development, focusing on weak stages of the product value chain or the stage that determines the quality and value of products of the industry. Providers in priority industries shall be supported, and such policy shall be considered as the core policy for supporting industry development.
- To renovate policies and promoting foreign direct investment (FDI) attraction into the industry, especially the processing and manufacturing industries. Strongly shifting policies to attract FDI in the industrial sector from quantity to quality with focus and centered point. The orientation to select and encourage FDI projects in industries by 2030 shall be implemented in the direction that: Prioritizing projects applying “high, new, clean and economical” technologies, using a lot of domestically produced raw materials and accessories, with a high proportion of spending on scientific and technological research and development in the country, with a commitment on technology transfer, on-site human resource training; giving priority to form of joint venture and production association with domestic enterprises; to give priority to multinational companies with international brands and high competitive capacity, and foreign enterprises participating in supporting industries.
- To closely stipulate on the reporting regime of FDI enterprises and state management agencies, ensuring the national defense and economic security; to formulate and publicizing the list of national industrial investment projects and implementing investment promotion activities to attract high-quality FDI. Researching and building new models to attract FDI in the industry field.
5. Policy for the development of human resources for the industrial sector
- To study and implement mechanisms and policies to develop industrial human resources to meet the requirements of industrialization and modernization, especially the requirements of the Fourth Industrial Revolution.
- To restructure, renew and improve the quality of training institutions in order to create industrial human resources capable of mastering and receiving new production technologies. To re-plan the network of vocational education and higher education institutions in the fields of technology and engineering. To concentrate on developing a number of higher and vocational training institutions in terms of technology and engineering to reach the international level. To promote the socialization of technical and technology training. To implement an education model in science, technology, engineering and math (STEM), foreign languages and informatics in the general education program. To encourage private sectors and enterprises to train high-quality industrial human resources to closely link the research and training with production and business activities and the demand of the industrial labor market.
- To finalize mechanisms and policies to synchronously develop and connect the industrial labor market in terms of scale, quality of labor and occupation structure. To adopt mechanisms and policies to orient the labor movement, especially agricultural labor to industrial labor, and reasonably allocate labor by region.
- To review, adjust and supplement policies to ensure social welfare for employees in the industrial sector, including policies on wages, insurance, and labor protection. To renew the salary and wage policies according to the market principles with a consistency between salary increase and labor productivity increase. To complete policies on housing and public welfare works for cadres with high technical qualifications and workers in industrial zones, export processing zones, industrial clusters, and high-tech zones. To adopt policies to attract and use talents with high professional technical qualifications and creative capacity, especially the experts who are foreigners and Vietnamese living aboard.
- To strengthen the establishment and promote the role of the contingent of Vietnamese industrial entrepreneurs in the period of accelerating industrialization, modernization and international integration. To focus on training, fostering and developing a contingent of entrepreneurs with high professional qualifications, modern management and administration skills, with business ethics and a sense of responsibility toward the nation and the peoples.
To focus on assembling a contingent of Vietnamese workers with industrial style, sense of discipline, high skills, ability to absorb and create new technologies with high productivity, quality and efficiency; closely attached to the people and the country.
6. Science and technology policy for industrial development
- To strongly develop to creates a breakthrough in infrastructure, application of information and communication technology, especially infrastructure for digital connection (4G and 5G), ensuring their safety and synchronization to meet the requirement of connection to people and things via the Internet. To develop a National Digital Transformation Strategy. To encourage investment, development of big data centers; promoting the development of the science of big data analysis, management and processing in order to create new products and knowledge. To create all conditions for people and businesses to easily, conveniently and equally access digital content development opportunities. To develop and implement the Strategy to approach and pro actively participate in Vietnam's 4th Industrial Revolution.
- To prioritize resources, continue to effectively implement the National Technology Innovation Program toward 2020, the Program to develop a number of high-tech industries, the National Program to improve product and goods productivity and quality of Vietnamese enterprises toward 2020. To accelerate the implementation of the Project of science and technology application in the process of restructuring the industry and trade in the period to 2025, with a vision to 2030.
- To innovate, strongly develop and synchronously the science and technology market. To strengthen the protection and enforcement of intellectual property rights, especially intellectual property in the digital age. To adopt the powerful policy to support and encourage organizations, individuals, research institutes, universities, and enterprises to invest in research, development, technology transfer, and application of advanced scientific and technology into production and business; to identify that enterprises are an important force and the center in the development and application of science and technology; to focus on improving technology absorption capacity of enterprises.
- To enhance domestic and international cooperation in research and development, application of science and technology, and purchase, sale and transfer of scientific and technological products. To step up the commercialization of scientific and technological research outcomes. To establish national database on technology and technology experts. To develop consultancy, appraisal, brokerage and pricing services for scientific and technological products. To promulgate mechanisms and policies to promote cooperation and technology transfer between defense and security industries and civil industries.
To adopt appropriate mechanisms and policies to orient and strictly control technology for industries on the principle of combining the use of advanced technology, the advantages of the latecomers, and the proactive shortcut to take a progressive approach in order to make the most advantages of the “golden population structure” period and effectively exploit existing production capacity; to strictly manage the import of machines, equipment, industrial technology, ensure high quality and efficiency.
- To fundamentally renew and synchronize the financial management mechanism for science and technology organizations and activities; modes of using the state budget for science and technology. To promote public-private cooperation mechanism in implementing technology innovation, research and development projects; to expand the form in which the state orders science- technology tasks and purchases research results. To check and amend regulations to facilitate enterprises to implement, develop and apply science and technology research in an adequate scale that meet the requirement of technology innovation. To apply tax policies, provide financial assistance, and access appropriate resources to encourage technology research, innovation and modernization.
- To support the establishment and development of science and technology enterprises in the industrial sectors, particularly in the priority industries. To adopt mechanisms and policies to promote the development of incubators of technologies and science and technology enterprises in key and priority industries, sectors.
7. Policy on exploitation of natural resources and minerals, policy on environmental protection, and adaptation to climate change in the course of industrial development
- To promote basic geological investigation, search, exploration and assessment of natural resources on the mainland and continental shelf of the country. - To develop strategy, planning, management plan, efficient exploitation and use of natural resources and minerals. Only allowed to apply mineral mining and processing technologies which are modern, economical, environmental protection and sustainable socio-economic efficiency. To adjust policies and laws on land, create favorable conditions for industrial enterprises to access smoothly under the market mechanism, in accordance with the planning.
To integrate the requirements on adaptive to climate change, natural disaster prevention and fighting, and environmental protection in all industrial development strategies, plans, programs and projects. To promulgate policies to encourage investment projects to save energy, natural resources and protect the environment. To review and revise industrial technical regulations on the term of environment; clearly stipulating responsibility for environmental protection of industrial production establishments and having strictly sanctioning for handling violations. To develop policies to encourage strong development of environmental industry; promote the socialization of environmental protection.
8. Enhance the Party's leadership capacity, the effectiveness and efficiency of the State's management, promote people's mastery in the formulation and implementation of the national industrial development policy.
- To raise the awareness and responsibility of the party committees and authorities at all levels about the role and content of the national industrial policy in the industrialization and modernization of the country. The formulation and implementation of the national industrial policy are determined as one of the important leadership of the party committees and authorities from the central to local levels. Industrial development objectives and tasks are associated with socio-economic development objectives and tasks of the whole country and each branch and level.
- To strengthen the effectiveness and efficiency of state management in the industrial sector. To implement the restructuring of the industrial management system synchronously from the central to local levels, ensure centralization, transparency, efficiency, with clear assignment and decentralization. To clearly define functions of the state management and the production and business management in the industry in accordance with the characteristics of the socialist-oriented market economy. To establish a mechanism for close coordination among ministries, branches and localities in policy formulation and implementation; to promptly overcome the situation of inconsistency and ineffective enforcement of legal provisions.
- To expand the practical and effective participation of the Vietnam Fatherland Front, socio-political organizations and socio-professional organizations, and those affected by policies in the planning and monitoring the implementation of the national industrial policy. To resolutely fight group interests, friendly relations, corruption, and wastefulness in the formulation and implementation of the national industrial development policy.
IV. IMPLEMENTATION ORGANIZATION
1. The Central Party Committees divisions, the Communist Party Staff Committee, the Party union, the provincial Party Committees, the municipal Party Committees, the central affiliated Party Committees shall organize to study, grasp and develop plans to implement this Resolution in accordance with the situation of the branches, localities, agencies and units; to develop action plans and programs to implement the Resolution with specific road map and assignments; to add the targets stated in the Resolution to the annual plans of branches, localities, agencies and units; periodically inspect and evaluate the implementation.
2. The Party Committees of the National Assembly shall direct and supplement the Law and Ordinance formulation Program, giving priority to law projects directly serving the implementation of this Resolution; strengthen supervision of the National Assembly, the National Assembly Standing Committee, the Ethnic Council, and other Committees of the National Assembly on the formulation and implementation of national industrial policies.
3. The Communist Party Staff Committee of the Government shall assume the prime responsibility for reviewing, supplementing research or formulating new industrial development strategies; master plan for the development of industries in line with the requirements of this Resolution.
4. The Vietnam Fatherland Front and socio-political organizations shall develop programs and plans to supervise the implementation of the Resolution.
5. The Central Propaganda Department of the Communist Party of Vietnam shall assume the prime responsibility for, and coordinate with the Party Central Committee's Economic Commission in, guiding and widely propagating the Resolution's contents and implementation results.
6. The Party Central Committee's Economic Commission shall assume the prime responsibility and coordinate with the Officer of the Party Central Committee, the Communist Party Staff Committees, the center affiliated Party Committee to regularly monitoring, supervising, inspecting and urging the implementation of this Resolution; periodically reviewing the implementation and reporting the results to the Political Bureau and the Secretariat.
On Behalf of the Political Bureau
The General Secretary
Nguyen Phu Trong
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Nâng cao để xem đầy đủ bản dịch.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây
Lược đồ
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây