Quyết định 14/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến đến năm 2020
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
thuộc tính Quyết định 14/2007/QĐ-TTg
Cơ quan ban hành: | Thủ tướng Chính phủ |
Số công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Số hiệu: | 14/2007/QĐ-TTg |
Ngày đăng công báo: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Loại văn bản: | Quyết định |
Người ký: | Nguyễn Tấn Dũng |
Ngày ban hành: | 25/01/2007 |
Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | |
Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Lĩnh vực: | Khoa học-Công nghệ |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Xem chi tiết Quyết định14/2007/QĐ-TTg tại đây
tải Quyết định 14/2007/QĐ-TTg
QUYẾT ĐỊNH
CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ 14/2007/QĐ-TTg NGÀY 25 THÁNG 01 NĂM 2007
VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT “ĐỀ ÁN PHÁT TRIỂN VÀ ỨNG DỤNG
CÔNG NGHỆ SINH HỌC TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP
CHẾ BIẾN ĐẾN NĂM 2020”
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 04 tháng 3 năm 2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
Căn cứ Quyết định số 188/2005/QĐ-TTg ngày 22 tháng 7 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 04 tháng 3 năm 2005 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp,
QUYẾT ĐỊNH:
Nghiên cứu tạo ra các công nghệ sinh học tiên tiến ở trong nước, kết hợp với việc nhập khẩu các công nghệ sinh học hiện đại của nước ngoài, ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả các công nghệ này trong lĩnh vực công nghiệp chế biến thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng nhằm nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của các sản phẩm chế biến, phục vụ tốt nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
- Nghiên cứu tạo ra các công nghệ sinh học tiên tiến ở trong nước, kết hợp với việc nhập khẩu và làm chủ các công nghệ sinh học hiện đại trong lĩnh vực công nghiệp chế biến của nước ngoài phù hợp với điều kiện sản xuất ở nước ta; ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả các công nghệ này vào sản xuất để chủ động tạo ra các sản phẩm công nghiệp chế biến có chất lượng tốt và sức cạnh tranh cao trên thị trường;
- Sản xuất ở quy mô công nghiệp các sản phẩm enzym (kể cả enzym tái tổ hợp), protein, axít hữu cơ, axít amin, các chế phẩm vi sinh (bao gồm cả các sản phẩm biến đổi gen), các hoạt chất sinh học, chất phụ gia, nhiên liệu sinh học… đáp ứng nhu cầu phát triển ngành công nghiệp chế biến, phục vụ tốt các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thuỷ sản và y tế;
- Xây dựng và phát triển mạnh công nghệ sinh học phục vụ lĩnh vực công nghiệp chế biến để sản xuất ở quy mô công nghiệp các sản phẩm chế biến thực phẩm, hàng tiêu dùng có chất lượng tốt, sức cạnh tranh cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu;
- Tăng cường mạnh tiềm lực cho nghiên cứu khoa học, phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, bao gồm: đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao, đào tạo kỹ thuật viên để triển khai và ứng dụng công nghệ sinh học tại các cơ sở sản xuất, chế biến; tuyển chọn, công nhận đơn vị chủ trì và tiến hành xây dựng phòng thí nghiệm trọng điểm công nghệ vi sinh, hoàn thành và đưa vào sử dụng có hiệu quả phòng thí nghiệm trọng điểm công nghệ enzym và protein; đầu tư chiều sâu để nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, mở rộng và hiện đại hóa mạng lưới các phòng thí nghiệm công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến.
- Ứng dụng mạnh mẽ các công nghệ sinh học hiện đại trong lĩnh vực công nghiệp chế biến; tiếp cận, làm chủ và phát triển nhanh công nghệ sinh học hiện đại để tạo ra các chủng vi sinh vật mới có chất lượng tốt, hiệu suất lên men cao và ổn định trong sản xuất ở quy mô công nghiệp; sản xuất các loại enzym tái tổ hợp; đưa công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến của nước ta phát triển đạt trình độ khá trong khu vực;
- Phát triển mạnh và bền vững ngành công nghệ sinh học phục vụ lĩnh vực công nghiệp chế biến; tạo lập thị trường thuận lợi để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và dịch vụ các sản phẩm, hàng hoá chủ lực của công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu;
- Tăng cường được một bước quan trọng về tiềm lực, bao gồm đào tạo nguồn nhân lực và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến;
- Công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến đóng góp từ 20 đến 25% tổng số đóng góp của khoa học và công nghệ vào giá trị gia tăng của ngành công nghệ chế biến.
- Đưa công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến của nước ta đạt trình độ các nước tiên tiến trong khu vực, một số lĩnh vực đạt trình độ các nước phát triển trên thế giới;
- Công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến đóng góp trên 40% tổng số đóng góp của khoa học và công nghệ vào giá trị gia tăng của ngành công nghệ chế biến.
- Nghiên cứu tạo ra và hoàn thiện các quy trình công nghệ, thiết bị lên men vi sinh ở quy mô vừa và nhỏ để sản xuất, chế biến thực phẩm (bia rượu, nước chấm, nước giải khát, thịt, cá và các nông, lâm, thuỷ, hải sản khác), thức ăn chăn nuôi, các chất phụ gia, hoá chất, nguyên liệu hoá dược, nhiên liệu sinh học, hàng tiêu dùng... bảo đảm chất lượng ổn định và có sức cạnh tranh cao trên thị trường;
- Nghiên cứu ứng dụng các công nghệ sinh học để sản xuất thử nghiệm sản phẩm và sản xuất ở quy mô công nghiệp các chế phẩm vi sinh (sinh khối vi sinh vật, các chất bảo quản, phụ gia, mầu thực phẩm, axít hữu cơ, axit amin, protein đơn bào và đa bào...) phục vụ công nghiệp chế biến thực phẩm, thức ăn chăn nuôi, các chất phụ gia, hoá chất, nguyên liệu hoá dược, nhiên liệu sinh học, hàng tiêu dùng...; kiểm soát được chất lượng nguyên liệu và các sản phẩm, hàng hoá có nguồn gốc từ công nghệ biến đổi gen trong công nghiệp chế biến;
- Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học hiện đại để phân lập và tạo ra các chủng vi sinh vật mới, có chất lượng tốt, ổn định, hiệu suất lên men cao góp phần phát triển mạnh ngành công nghệ chế biến;
- Ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả các công nghệ vi sinh đã được nghiên cứu, tạo ra ở trong nước hoặc nhập khẩu nhằm nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm và tăng sức cạnh tranh trên thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến.
- Nghiên cứu tạo ra và hoàn thiện các quy trình công nghệ, thiết bị ứng dụng công nghệ enzym ở quy mô vừa và nhỏ để sản xuất, chế biến thực phẩm (các loại đường, tinh bột, bia rượu, nước chấm, nước giải khát và các nông, lâm, thuỷ, hải sản khác); thức ăn chăn nuôi, các chất phụ gia, hoá chất, nguyên liệu hoá dược, nhiên liệu sinh học, hàng tiêu dùng... bảo đảm chất lượng ổn định và có sức cạnh tranh cao trên thị trường;
- Nghiên cứu ứng dụng các công nghệ sinh học để sản xuất thử nghiệm sản phẩm và sản xuất ở quy mô công nghiệp các chế phẩm enzym, protein phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, sản xuất thức ăn chăn nuôi, các chất phụ gia, hoá chất, nguyên liệu hoá dược, nhiên liệu sinh học và hàng tiêu dùng;
- Nghiên cứu ứng dụng công nghệ sinh học hiện đại để sản xuất thử nghiệm một số enzym tái tổ hợp phục vụ công nghiệp chế biến;
- Nghiên cứu và sản xuất dây chuyền thiết bị đồng bộ ứng dụng enzym và protein trong công nghiệp chế biến ở quy mô vừa và nhỏ;
- Ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả các công nghệ enzym và protein đã được nghiên cứu, tạo ra ở trong nước hoặc nhập khẩu nhằm nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm và tăng sức cạnh tranh trên thị trường, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến.
- Thành lập và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tăng cường đầu tư vào các hoạt động tiếp nhận và chuyển giao công nghệ sinh học để phát triển bền vững ngành công nghệ chế biến; ứng dụng rộng rãi và có hiệu quả các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới để sản xuất, kinh doanh và dịch vụ các sản phẩm, hàng hoá chủ lực do công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến tạo ra, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu;
- Hình thành và phát triển mạnh ngành công nghiệp sinh học phục vụ công nghiệp chế biến, tạo lập thị trường thuận lợi, thông thoáng để thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư vào các dự án sản xuất, kinh doanh và dịch vụ các sản phẩm chế biến.
- Đào tạo ngắn hạn với thời gian từ 6 đến 12 tháng tại các nước có nền công nghệ sinh học phát triển để nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ khoa học công nghệ đã có bằng tiến sĩ, thạc sĩ;
- Gửi các nghiên cứu sinh đến các nước có nền công nghệ sinh học phát triển để đào tạo mới bậc tiến sĩ và thạc sĩ theo nội dung nghiên cứu của Đề án;
- Đào tạo tại Việt Nam các kỹ sư công nghệ; đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ về công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến theo các nội dung của Đề án;
- Đào tạo kỹ thuật viên có tay nghề cao về công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến để triển khai thực hiện các nội dung của Đề án tại các doanh nghiệp, địa phương;
- Bồi dưỡng kiến thức và nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý nhà nước ở các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến;
- Đến năm 2015 việc đào tạo nguồn nhân lực về công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến cần đạt: đào tạo ngắn hạn để nâng cao trình độ chuyên môn là 20 - 30 cán bộ; đào tạo mới 30 - 40 tiến sĩ, 50 - 60 thạc sĩ, 200 - 250 kỹ sư thực hành và 400 - 500 kỹ thuật viên.
- Đầu tư chiều sâu để nâng cấp và hiện đại hoá các cơ sở nghiên cứu, cơ sở đào tạo công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến; bổ sung và hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật, máy móc, thiết bị cho các phòng thí nghiệm thuộc hệ thống trên nhằm tăng cường năng lực nghiên cứu, triển khai ứng dụng có hiệu quả các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn sản xuất;
- Bổ sung, đầu tư mới phòng thí nghiệm trọng điểm công nghệ vi sinh đặt tại Viện Công nghiệp Thực phẩm, Bộ Công nghiệp và phòng thí nghiệm trọng điểm công nghệ enzym và protein dành cho các tỉnh phía Nam (từ Đà Nẵng trở vào);
- Xây dựng website, nối mạng và đưa vào hoạt động hệ thống cơ sở dữ liệu, thông tin quốc gia về công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến để cung cấp và chia sẻ kịp thời, đầy đủ các thông tin cơ bản nhất, mới nhất về công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến cho các đơn vị và cá nhân có liên quan.
- Chủ động tiếp nhận, làm chủ và chuyển giao các công nghệ sinh học mới, hiện đại của thế giới để ứng dụng có hiệu quả vào sản xuất thuộc ngành công nghiệp chế biến ở Việt Nam;
- Thực hiện khoảng 30 đề tài, dự án hợp tác quốc tế với các tổ chức, cá nhân nhà khoa học công nghệ nước ngoài để phát triển và ứng dụng có hiệu quả công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến ở nước ta.
- Đẩy mạnh việc thực hiện các đề tài nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ (R - D) để tạo ra các công nghệ mới, triển khai các dự án sản xuất thử nghiệm (dự án P), các dự án hợp tác quốc tế, dự án sản xuất ở quy mô công nghiệp các sản phẩm, hàng hoá chủ lực trong lĩnh vực công nghiệp chế biến;
- Khuyến khích việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào sản xuất; đẩy mạnh các hoạt động chuyển giao công nghệ trong nước và nhập khẩu các công nghệ sinh học mới, tiên tiến, hiện đại trong lĩnh vực công nghiệp chế biến từ nước ngoài nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và dịch vụ các sản phẩm, hàng hoá chủ lực trong lĩnh vực công nghiệp chế biến;
- Tạo lập thị trường thuận lợi cho phát triển công nghệ sinh học, thúc đẩy việc thành lập các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và khuyến khích họ đầu tư để ứng dụng mạnh mẽ công nghệ sinh học vào lĩnh vực công nghiệp chế biến. Nhà nước có những chính sách ưu đãi về vốn tín dụng, thuế, quyền sử dụng đất... cho các doanh nghiệp đầu tư vào phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến.
Bộ Công nghiệp lập kế hoạch vốn ngân sách nhà nước dài hạn và từng năm để thực hiện các nội dung của Đề án, gửi các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để các Bộ này tổng hợp, trình Chính phủ phê duyệt.
- Đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, hiện đại hoá thiết bị, máy móc cho hệ thống các phòng thí nghiệm và cơ quan nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến;
- Quy hoạch các cơ sở trong ngành công nghiệp chế biến theo hướng phát triển bền vững, khép kín từ khâu nghiên cứu giống, kỹ thuật canh tác, xây dựng vùng nguyên liệu tập trung, tổ chức sản xuất, chế biến đến việc kinh doanh, dịch vụ và thương mại sản phẩm;
- Đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng ở các trình độ: tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân, kỹ sư công nghệ và kỹ thuật viên, đáp ứng đủ nhu cầu nhân lực để quản lý và thực hiện có hiệu quả các nội dung của Đề án, đồng thời phục vụ tốt sự phát triển bền vững ngành công nghiệp chế biến tại Việt Nam.
- Đẩy mạnh việc xây dựng, ban hành và hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật về phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến. Các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà công nghệ, doanh nhân và các tổ chức, cá nhân khác có hoạt động liên quan đến phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến được hưởng những chính sách ưu đãi với trần cao nhất về vốn vay, tín dụng, mức thuế đóng vào ngân sách nhà nước, quyền sử dụng đất đai, chính sách kích cầu và các chính sách khác có liên quan theo quy định hiện hành của pháp luật;
- Thực thi đầy đủ và nghiêm túc các quy định về sở hữu trí tuệ trong việc bảo hộ quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp đối với chủng vi sinh vật, quy trình công nghệ, máy móc, thiết bị, phát minh, sáng chế... về công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến.
Tăng cường hợp tác song phương, mở rộng hợp tác đa phương với các nước có nền công nghệ sinh học phát triển, với các tổ chức, cá nhân nước ngoài giàu tiềm lực để học hỏi kinh nghiệm trong việc phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến. Chủ động xây dựng và thực hiện các chương trình, đề tài, dự án hợp tác quốc tế, nhất là với các nước có nền công nghệ sinh học tiên tiến để tranh thủ sự giúp đỡ về kinh nghiệm, trí lực, tài lực, vật lực và thu hút đầu tư nhằm phát triển và ứng dụng có hiệu quả công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến ở nước ta.
Bộ trưởng Bộ Công nghiệp thành lập Ban Điều hành “Đề án phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong lĩnh vực công nghiệp chế biến” (sau đây gọi tắt là Ban Điều hành Đề án) do Bộ trưởng Bộ Công nghiệp làm Trưởng ban, Thứ trưởng Bộ Công nghiệp phụ trách lĩnh vực làm Phó trưởng ban, đại diện lãnh đạo Vụ Khoa học công nghệ làm ủy viên thư ký. Các thành viên khác của Ban Điều hành là đại diện các cơ quan chức năng của Bộ Công nghiệp và đại diện cấp vụ (sở) của một số Bộ, ngành và địa phương có liên quan (Văn phòng Chính phủ; các Bộ: Khoa học và Công nghệ, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Giáo dục và Đào tạo, Thuỷ sản, Y tế; các Ủy ban nhân dân: thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh). Ban Điều hành Đề án làm việc theo Quy chế hoạt động do Bộ trưởng Bộ Công nghiệp kiêm Trưởng Ban Điều hành Đề án ban hành.
Bộ trưởng Bộ Công nghiệp phê duyệt hoặc quyết định hỗ trợ đầu tư cho các đề tài, dự án, nhiệm vụ của Đề án trên cơ sở đề nghị của Ban Điều hành Đề án và ý kiến đánh giá, thẩm định của Hội đồng tư vấn khoa học công nghệ. Việc tuyển chọn, tổ chức triển khai thực hiện, đánh giá, nghiệm thu kết quả của các đề tài, dự án, nhiệm vụ phải tuân thủ đúng các quy định hiện hành của pháp luật về hoạt động khoa học và công nghệ.
THỦ TƯỚNG
Nguyễn Tấn Dũng
THE PRIME MINISTER OF GOVERNMENT | SOCIALIST REPUBLIC OF VIET NAM |
No: 14/2007/QD-TTg | Hanoi, January 25, 2007 |
DECISION
APPROVING THE SCHEME ON BIOTECHNOLOGY DEVELOPMENT AND APPLICATION IN THE PROCESSING INDUSTRY UP TO 2020
THE PRIME MINISTER
Pursuant to the December 25, 2001 Law on Organization of the Government;
Pursuant to Directive No. 50-CT/TW of March 4, 2005, of the Party Central Committee's Secretariat on accelerating biotechnology development and application in service of national industrialization and modernization;
Pursuant to the Prime Minister's Decision No. 188/2005/QD-TTg of July 22, 2005, promulgating the Government's program of action for the implementation of Directive No. 50-CT/TW of March 4, 2005, of the Party Central Committee's Secretariat on accelerating biotechnology development and application in service of national industrialization and modernization;
At the proposal of the Minister of Industry,
DECIDES:
Article 1.- To approve the Scheme on biotechnology development and application in the processing industry up to 2020 (hereinafter referred to as the Scheme for short), with the following principal contents:
I. OBJECTIVES
1. General objectives
To research into and create advanced biotechnologies in the country in combination with importing modern biotechnologies from foreign countries for wide and effective application to food processing and consumer goods production in order to raise the quality and competitiveness of processed products and better meet the domestic consumption and export demands.
2. Specific objectives:
a/ From now to 2010:
- To conduct researches into and create advanced biotechnologies in the country in combination with importing and mastering foreign modern biotechnologies in the processing industry which are suitable to our production conditions; to widely and effectively apply these technologies to production in order to turn out processed products of high quality and high competitiveness on the market.
- To turn out on an industrial scale enzyme products (including recombinant enzymes), proteins, organic acids, amino acids, microbiological preparations (including genetically modified products), bioactive substances, additives and biofuels which meet development requirements of the processing industry and better serve other industries, agriculture, fisheries and healthcare;
- To create and strongly develop biotechnologies in the processing industry in order to turn out on an industrial scale processed foodstuff and consumer goods of high quality and high competitiveness, meeting the domestic consumption and export demands;
- To strongly develop potentials for biotechnology research, development and application in the processing industry, including training human resources of high qualifications and technicians for biotechnology development and application in production and processing establishments; selecting and accrediting a unit to take charge of and building a key laboratory for microbiological technology, and completing the building of and putting into effective use a key laboratory for enzyme and protein technology; making intensive investment to upgrade techno-material foundations of, and expand and modernize, biotechnological laboratories in the processing industry.
b/ The 2011-2015 period:
- To widely apply modern biotechnologies in the processing industry; to approach, master and quickly develop modern biotechnologies in order to create new strains of microorganisms of high quality, high fermentation rates and stability for industrial production; to produce assorted recombinant enzymes; and to elevate our biotechnology in the processing industry to the regional advanced level;
- To strongly and sustainably develop biotechnologies for the processing industry; to create a favorable market for accelerating the production of and trading in, and provision of services related to, key products and goods turned out by biotechnologies of the processing industry, meeting the domestic consumption and export demands;
- To make an important step in developing potentials, including training of human resources and building of techno-material foundations for biotechnology development and application in the processing industry;
- Biotechnologies will make contributions representing 20-25% of the total contribution of science and technology to the processing industry's added value.
c/ Vision toward 2020:
- To elevate our biotechnology in the processing industry to the level of advanced regional countries and, in some domains, to the level of developed countries in the world;
- Biotechnologies will make contributions representing more than 40% of the total contribution of science and technology to the processing industry's added value.
II. MAJOR TASKS
1. Basic research, applied research, scientific research and technology development (R-D) and pilot production (P) in service of biotechnology development in the processing industry
a/ Microbiological technology
- To research into, create and perfect technological processes and equipment for microbiological fermentation on a small or medium scale in order to produce and process foodstuffs (beer, alcohol, sauces, beverages, meat, fish and other agricultural, forestry and aquatic products), animal feeds, additives, chemicals, pharmaco-chemical materials, biofuels and consumer goods of stable quality and high competitiveness on the market;
- To research into and apply biotechnologies for pilot and industrial production of microbiological preparations (microorganic biomass, preservatives, additives, food colors, organic acids, amino acids, unicellular and polycellular proteins) in service of the processing of foodstuffs, animal feeds, additives, chemicals and pharmaco-chemical materials, biofuels and consumer goods; to control the quality of raw materials, products and goods turned out by genetic modification technology in the processing industry;
- To research into and apply modern biotechnologies in order to single out and create new strains of microorganism of high quality and high fermentation rates so as to strongly develop the processing industry;
- To widely and effectively apply local or imported microbiological technologies in order to diversify, and raise the quality and competitiveness of, products, meeting the domestic consumption and export demands and contributing to boosting the development of the processing industry.
b/ Enzyme and protein technology:
- To research into, create and perfect technological processes and equipment for the application of enzyme technology to small- and medium-scale production and processing of foodstuff (assorted hydrocarbons, starches, beer, alcohol, sauces, beverages and other agricultural, forestry and aquatic products), animal feeds, additives, chemicals and pharmaco-chemical materials, biofuels and consumer goods of stable quality and high competitiveness on the market;
- To research into and apply biotechnologies for pilot and industrial production of enzyme and protein products in service of food processing and production of animal feeds, additives, chemicals, pharmaco-chemical materials, biofuels and consumer goods;
- To research into and apply modern biotechnologies for pilot production of some types of recombinant enzymes in service of the processing industry;
- To research into and manufacture small- and medium-sized complete equipment chains using enzymes and proteins in the processing industry;
- To widely and effectively apply local or imported enzyme and protein technologies in order to diversify and raise the quality and competitiveness of products, meeting the consumption and export demands and boosting the development of the processing industry.
2. Forming and developing a bio-industry to accelerate the production of and trading in, and provision of services related to, key products and goods of the processing industry
- To establish and encourage enterprises of all economic sectors to increase their investment in receiving and transferring biotechnologies for the sustainable development of the processing industry; to widely and effectively apply technical advances and new technologies to the production of and trading in, and provision of services related to, key products and goods turned out biotechnology in the processing industry, meeting the consumption and export demands;
- To form and strongly develop a bio-industry in service of the processing industry, create a favorable and open market to encourage enterprises to invest in projects on production of and trading in, and provision of services related to, processed products.
3. Developing potentials for biotechnology development and application in the processing industry
a/ Training of human resources:
- To send scientists and technologists who have a master's or doctor's degree to countries with a developed biotechnological level for short-term training of between 6-12 months;
- To send research students to countries with a developed biotechnological level for master or doctorate training according to the Scheme's research contents.
- To train technological engineers in Vietnam; to conduct master and doctorate training in biotechnology in the processing industry according to the Scheme's contents;
- To train skilled technicians in biotechnology in the processing industry for the implementation of the Scheme's contents in enterprises and localities;
- To re-train cadres of ministries, branches, localities and enterprises in order to improve their qualifications and knowledge on biotechnology development and application in the processing industry;
- By 2015, 20-30 officials will be provided with short-term training to improve their professional qualifications; 30-40 doctors, 50-60 masters, 200-250 practicing engineers and 400-500 technicians will be trained under the plan on the training of human resources in biotechnology in the processing industry.
b/ Building techno-material foundations and modernizing machinery and devices
- To make intensive investment to upgrade and modernize establishments researching into or providing training in biotechnology in the processing industry; to further supply and modernize techno-material foundations, machinery and devices for laboratories within the above system in order to enhance their research capacity and effectively apply research results to practical production.
- To build and invest in a key microbiological laboratory located at the Foodstuff Industry Institute, the Industry Ministry, and key a enzyme- and protein-technology laboratory for the southern region (from Da Nang city southward);
- To build and run a website with a national database on biotechnology in the processing industry in order to promptly and fully supply and share the most basic and latest information on biotechnology in the processing industry to concerned units and individuals.
4. Performing international cooperation for biotechnology development in the processing industry
- To take the initiative in receiving, mastering and transferring new and modern biotechnologies in the world for effective application to production activities of the processing industry in Vietnam;
- To carry out about 30 schemes and projects in cooperation with foreign scientific organizations or scientists for development and effective application of biotechnology in the processing industry in Vietnam.
III. MAJOR SOLUTIONS:
1. Accelerating the application of research results to production, encouraging technology transfer, creating a favorable investment environment for, and strongly developing, the bio-industry in the processing industry
- To accelerate basic research, applied research, scientific research and technological development (R-D) in order to create new technologies, execute pilot production projects (P projects), international cooperation projects and projects on industrial production of key products and goods in the processing industry.
- To encourage the application of scientific research and technological development results to production; accelerate technology transfer within the country and the import of new, advanced and modern biotechnologies in the processing industry to boost the production of and trading in, and provision of services related to, key products and goods of the processing industry.
- To create a favorable market for biotechnology development, boost the establishment of enterprises of all economic sectors and encourage them to invest in the application of biotechnologies to the processing industry. The State shall adopt preferential policies regarding credit capital, taxes and land use rights for enterprises that invest in biotechnology development and application in the processing industry.
2. Intensifying investment in and diversifying capital sources for the effective implementation of the Scheme
a/ The total fund for the implementation of the Scheme shall be determined on the basis of the fund for each specific scheme, project and tasks approved by competent authorities. Annually, the State shall gradually increase investment capital allocated from the budget for the implementation of the Scheme. Investment capital shall be increased and diversified for biotechnology development and application in the processing industry from such sources as domestic as well as foreign enterprises, organizations and individuals, foreign capital (ODA, FDI) and related international cooperation capital sources;
b/ The total state budget capital for the implementation of the scheme in the period up to 2015 is estimated at about VND 500 billion (an average of VND 50 billion for each year). The state budget shall be spent on basic research and applied research; scientific research and technological development (R-D); technological research and renewal to raise productivity, quality and competitiveness of products; support of pilot production (P projects are entitled to the retrieval rate of 60% of their total funds); support of technology transfer for industrial production of key products and goods (econo-technical projects); intensive investment in building techno-material foundations for laboratories and modernizing machinery and equipment; training of human resources; international cooperation and some other contents of the Scheme.
The Industry Ministry shall elaborate long-term and annual plans on state budget capital for the implementation of the Scheme and send these plans to the Investment and Planning Ministry and the Finance Ministry for synthesis and submission to the Government for approval.
c/ Enterprises shall contribute investment capital for development of the processing industry based on the application of biotechnologies to the production of key products and goods of high quality and competitiveness on the market, meeting the consumption and export demands.
3. Developing potentials for biotechnology in the processing industry in terms of techno-material foundations and human resource training
- To accelerate the building of techno-material foundations and modernization of equipment and machinery for laboratories and agencies engaged in biotechnological research and application in the processing industry;
- To make a planning on establishments in the processing industry along the line of sustainable development, and engagement in all stages from variety research, cultivation techniques, formation of concentrated raw material areas, organization of production and processing activities to services and trading of products;
- To accelerate the training of high-quality human resources of postgraduate and graduate level, technological engineers and technicians, who meet the requirements for effective management and implementation of the Scheme and, at the same time, well serve the sustainable development of the processing industry in Vietnam.
4. Accelerating the formulation and perfection of mechanisms, policies and legal documents on biotechnology development and application in the processing industry
- To accelerate the elaboration, promulgation and perfection of mechanisms, policies and legal documents on biotechnology development and application in the processing industry. Research institutes, universities, enterprises, scientists, technologists, entrepreneurs and other organizations and individuals engaged in biotechnology develop-ment and application in the processing industry are entitled to the highest preferences in terms of loans, credits, taxes payable to the state budget, land use right, demand-pulling policies and other relevant policies in accordance with current provisions of law.
- To fully and strictly abide by intellectual property regulations on the protection of copyright and industrial property rights of microorganic strains, technological processes, machines, equipments, inventions and innovations concerning biological technologies in the processing industry.
5. Expanding and enhancing international cooperation in order to learn experience on biotechnology development and application in the processing industry
To enhance bilateral cooperation and expand multilateral cooperation with countries with an advanced biotechnological level as well as foreign organizations and individuals with rich potential to learn their experience on biotechnology development and application in the processing industry. To take the initiate in formulating and implementing programs, schemes and projects on international cooperation, especially with countries with an advanced biotechnological level in order to make the fullest use of their assistance in terms of experience, intellectual and financial resources and investment for biotechnology development and application in the processing industry in Vietnam.
IV. ORGANIZATION OF IMPLEMENTATION
1. The Industry Ministry shall assume the prime responsibility for, and coordinate with the Science and Technology Ministry, concerned ministries, branches and localities in, organizing the effective implementation of the Scheme, and annually report the results to the Prime Minister.
The Industry Minister shall set up an Executive Board for the Scheme on biotechnology development and application in the processing industry (hereinafter referred to as the Scheme Executive Board for short), with the Industry Minister as its head, a Vice Minister of Industry in charge of the domain as its deputy head, and a representative of leadership of the Science and Technology Department as its secretary. Remaining members of the Executive Board are representatives of functional agencies under the Industry Ministry and departmental-level representatives of some concerned ministries, branches and localities (the Government Office, the Ministries of Science and Technology; Agriculture and Rural Development; Planning and Investment; Finance; Training and Education; Fisheries; and Health, and the People’s Committees of Hanoi and Ho Chi Minh cities). The Scheme Executive Board shall work under its operation regulation promulgated by the Industry Minister, who is also its head.
The Industry Minister shall approve or decide on the level of investment support for schemes, projects and tasks under the Scheme on the basis of the request of the Scheme Executive Board and evaluation and appraisal opinions of the Scientific and Technological Advisory Council. The selection, implementation, evaluation and pre-acceptance test of these schemes, projects and tasks shall be conducted according to current provisions of law on scientific and technological activities.
2. The Planning and Investment Ministry and the Finance Ministry shall arrange and allocate enough capital under long-term and annual plans for the Industry Ministry to organize the implementation of the Scheme in an effective manner as scheduled.
3. The Science and Technology Ministry shall coordinate with the Industry Ministry in building and developing techno-material foundations, machinery and equipment for establishments engaged in biotechnology research, development and application in the processing industry; elaborate preferential mechanisms and policies for biotechnology transfer, development and application in the processing industry.
4. The Agriculture and Rural Development Ministry, the Fisheries Ministry and the Health Ministry shall coordinate with the Industry Ministry in planning and organizing the implementation of schemes, projects and tasks on biotechnology development and application in the processing industry under their respective line management.
5. The Education and Training Ministry shall assume the prime responsibility for, and coordinate with the Industry Ministry and Finance Ministry in, allocating capital and training human resources in biotechnology in the processing industry under the Scheme.
6. Ministries, branches, localities and enterprises that wish to participate in the implementation of the Scheme's contents which are related to their functions, tasks and powers shall register with the Industry Ministry and the Scheme Executive Board.
Article 2.- This Decision takes effect 15 days after its publication in "CONG BAO."
Article 3.- The Industry Minister, ministers, heads of ministerial-level agencies and government-attached agencies, presidents of provincial/municipal People's Committees, and concerned organizations and individuals shall implement this Decision.
| THE PRIME MINISTER |
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Nâng cao để xem đầy đủ bản dịch.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây
Lược đồ
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây