Nghị định 64/2002/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần

thuộc tính Nghị định 64/2002/NĐ-CP

Nghị định 64/2002/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần
Cơ quan ban hành: Chính phủ
Số công báo:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Số hiệu:64/2002/NĐ-CP
Ngày đăng công báo:Đang cập nhật
Loại văn bản:Nghị định
Người ký:Phan Văn Khải
Ngày ban hành:19/06/2002
Ngày hết hiệu lực:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày hết hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Áp dụng:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản để xem Ngày áp dụng. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Tình trạng hiệu lực:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Lĩnh vực: Doanh nghiệp

TÓM TẮT VĂN BẢN

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

tải Nghị định 64/2002/NĐ-CP

LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết

NGHỊ ĐỊNH

CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 64/2002/NĐ-CP NGÀY 19 THÁNG 6 NĂM 2002
VỀ VIỆC CHUYỂN DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
THÀNH CÔNG TY CỔ PHẦN

CHÍNH PHỦ

 

Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;

Căn cứ Luật Doanh nghiệp ngày 12 tháng 6 năm 1999;

Căn cứ Luật Doanh nghiệp nhà nước ngày 20 tháng 4 năm 1995;

Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính,

NGHỊ ĐỊNH:

 

CHƯƠNG I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

 

Điều 1. Mục tiêu của việc chuyển doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần (sau đây gọi tắt là cổ phần hoá)

1. Góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp; tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và của doanh nghiệp.

2. Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp.

3. Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông; tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động.

 

Điều 2. Đối tượng áp dụng

1. Nghị định này áp dụng đối với các doanh nghiệp và đơn vị phụ thuộc của các doanh nghiệp quy định tại Điều 1 của Luật Doanh nghiệp nhà nước (trừ những doanh nghiệp Nhà nước cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn điều lệ), không phụ thuộc vào thực trạng kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ.

2. Việc cổ phần hoá đơn vị phụ thuộc của các doanh nghiệp thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này chỉ được tiến hành khi:

a) Đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp có đủ điều kiện hạch toán độc lập;

b) Không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng xấu đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hoặc các bộ phận còn lại của doanh nghiệp.

3. Những doanh nghiệp hạch toán độc lập thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này có vốn nhà nước trên sổ sách kế toán dưới 5 tỷ đồng nếu không cổ phần hoá được thì thực hiện giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê theo quy định của pháp luật.

 

Điều 3. Hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước

1. Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn.

2. Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.

3. Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.

4. Thực hiện các hình thức 2 hoặc 3 kết hợp với phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn.

 

Điều 4. Đối tượng và điều kiện mua cổ phần

1. Các đối tượng sau đây được quyền mua cổ phần ở các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá:

a) Các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân người Việt Nam ở trong nước (sau đây gọi tắt là nhà đầu tư trong nước);

b) Các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân người nước ngoài, kể cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài định cư ở Việt Nam (sau đây gọi tắt là nhà đầu tư nước ngoài).

2. Nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu mua cổ phần ở các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá phải mở tài khoản tại các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và tuân thủ pháp luật Việt Nam. Mọi hoạt động mua, bán cổ phần; nhận, sử dụng cổ tức và các khoản thu khác từ đầu tư mua cổ phần đều phải thông qua tài khoản này.

 

Điều 5. Quyền được mua cổ phần lần đầu tại các doanh nghiệp cổ phần hoá

Các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định này đều có quyền mua cổ phần lần đầu tại các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá với số lượng không hạn chế; nhưng phải bảo đảm các quy định hiện hành của Nhà nước về số lượng cổ đông tối thiểu, cổ phần chi phối của Nhà nước tại các doanh nghiệp mà Nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối.

Các nhà đầu tư nước ngoài được mua số lượng cổ phần có tổng giá trị không quá 30% vốn điều lệ của các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành nghề do Thủ tướng Chính phủ quy định.

 

Điều 6. Cổ phiếu và cổ đông sáng lập

1. Cổ phiếu là chứng chỉ do Công ty cổ phần phát hành xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của cổ đông góp vốn trong Công ty. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên nhưng phải có đủ nội dung chủ yếu quy định tại Điều 59 của Luật Doanh nghiệp.

Bộ Tài chính hướng dẫn mẫu cổ phiếu thống nhất để các doanh nghiệp in và quản lý theo quy định.

2. Cổ đông sáng lập của doanh nghiệp cổ phần hoá là những cổ đông có đủ các điều kiện sau:

a) Tham gia thông qua Điều lệ lần đầu của Công ty cổ phần;

b) Cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ thông được quyền chào bán;

c) Sở hữu số lượng cổ phần bảo đảm mức tối thiểu theo quy định tại Điều lệ Công ty.

Số lượng cổ phần tối thiểu của mỗi cổ đông sáng lập và số lượng cổ đông sáng lập do Đại hội đồng cổ đông quyết định và quy định tại Điều lệ Công ty.

 

Điều 7. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cổ phần hoá

1. Doanh nghiệp cổ phần hoá có trách nhiệm sắp xếp, sử dụng tối đa số lao động có tại thời điểm cổ phần hoá và giải quyết các chế độ cho người lao động theo quy định hiện hành.

Công ty cổ phần có trách nhiệm kế thừa mọi nghĩa vụ đối với người lao động từ doanh nghiệp nhà nước chuyển sang; có quyền tuyển chọn, bố trí sử dụng lao động và phối hợp với các cơ quan liên quan giải quyết chế độ cho người lao động theo quy định của pháp luật.

2. Công ty cổ phần được chủ động sử dụng toàn bộ tài sản, tiền vốn đã cổ phần hoá để tổ chức sản xuất kinh doanh; kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần hoá và có các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.

3. Doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty nhà nước cổ phần hoá mà Nhà nước giữ cổ phần chi phối (trên 50% vốn điều lệ) thì vẫn là thành viên của Tổng công ty.

 

Điều 8. Bảo hộ của Nhà nước đối với nhà đầu tư

Quyền sở hữu và mọi quyền, lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài mua cổ phần ở các doanh nghiệp cổ phần hoá được Nhà nước bảo hộ theo quy định của pháp luật.

 

CHƯƠNG II. XỬ LÝ TÀI CHÍNH VÀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP TRƯỚC KHI CỔ PHẦN HOÁ

 

Điều 9. Tài sản thuê, mượn, nhận góp vốn liên doanh, liên kết, tài sản không cần dùng, tài sản được đầu tư bằng Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi

Trước khi thực hiện cổ phần hoá, doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê, phân loại và chủ động xử lý theo quy định sau:

1. Đối với tài sản do doanh nghiệp thuê, mượn, nhận góp vốn liên doanh, liên kết và các tài sản khác không phải của doanh nghiệp: doanh nghiệp phải thanh lý hợp đồng hoặc thoả thuận với chủ sở hữu tài sản để Công ty cổ phần kế thừa các hợp đồng đã ký trước đây hoặc ký lại hợp đồng mới.

2. Đối với những tài sản của doanh nghiệp không cần dùng, ứ đọng, chờ thanh lý: doanh nghiệp thanh lý, nhượng bán hoặc báo cáo cơ quan có thẩm quyền để điều chuyển cho đơn vị khác theo quy định hiện hành. Trường hợp đến thời điểm cổ phần hoá chưa kịp xử lý thì không tính vào giá trị doanh nghiệp và uỷ quyền cho Công ty cổ phần tiếp tục bảo quản, xử lý hoặc chuyển cho tổ chức của Nhà nước có chức năng tiếp nhận, giải quyết.

3. Đối với những tài sản thuộc công trình phúc lợi: nhà trẻ, mẫu giáo, bệnh xá và các tài sản phúc lợi khác đầu tư bằng nguồn Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi thì chuyển giao cho tập thể người lao động trong Công ty cổ phần quản lý, sử dụng thông qua tổ chức công đoàn.

Riêng đối với nhà ở của cán bộ, công nhân viên, kể cả nhà ở được đầu tư bằng vốn ngân sách nhà nước, thì chuyển giao cho cơ quan nhà đất của địa phương để quản lý hoặc bán cho người đang sử dụng theo quy định hiện hành.

4. Đối với tài sản đang dùng trong sản xuất kinh doanh đầu tư bằng nguồn Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi của doanh nghiệp thì tính vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá và chuyển thành cổ phần thuộc sở hữu của người lao động trong doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá theo thời gian thực tế đã làm việc của từng người tại doanh nghiệp.

 

Điều 10. Các khoản nợ phải thu

Doanh nghiệp có trách nhiệm đối chiếu, xác nhận, thu hồi và xử lý các khoản nợ phải thu trước khi cổ phần hoá theo cơ chế hiện hành. Trường hợp đến thời điểm cổ phần hoá còn tồn đọng nợ phải thu khó đòi thì xử lý như sau:

1. Đối với các khoản nợ đã có đủ chứng cứ là không có khả năng thu hồi, không xác định được trách nhiệm cá nhân, tổ chức thì dùng nguồn dự phòng để bù đắp, nếu thiếu thì phần chênh lệch được trừ vào kết quả kinh doanh, giảm lãi tại thời điểm cổ phần hoá. Trường hợp các nguồn trên không đủ bù thì phần chênh lệch được trừ vào phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá.

2. Đối với các khoản nợ không có khả năng thu hồi do nguyên nhân chủ quan và đã quy được trách nhiệm thì xử lý trách nhiệm cá nhân, tổ chức để bồi thường. Phần tổn thất sau khi đã trừ phần thu hồi được xử lý như quy định tại khoản 1 Điều này.

3. Đối với những khoản nợ phải thu đã quá hạn thanh toán từ 3 năm trở lên, con nợ đang tồn tại nhưng không còn khả năng trả nợ, doanh nghiệp đã áp dụng nhiều giải pháp nhưng vẫn không thu hồi được thì xử lý như quy định tại khoản 1 Điều này.

4. Đối với các khoản nợ phải thu quá hạn khác thì doanh nghiệp có thể bán cho các tổ chức kinh tế có chức năng mua bán nợ. Phần tổn thất từ việc bán nợ được xử lý như quy định tại khoản 1 Điều này.

 

Điều 11. Các khoản nợ phải trả

1. Doanh nghiệp phải huy động các nguồn để thanh toán các khoản nợ đến hạn trả trước khi thực hiện cổ phần hoá hoặc thoả thuận với các chủ nợ để xử lý hoặc chuyển thành vốn góp cổ phần.

Việc chuyển nợ thành vốn góp cổ phần được xác định thông qua kết quả đấu giá bán cổ phần hoặc do doanh nghiệp và chủ nợ thoả thuận nhưng không thấp hơn giá bán cổ phần cho các đối tượng khác ngoài doanh nghiệp.

2. Trường hợp doanh nghiệp có khó khăn về khả năng thanh toán các khoản nợ quá hạn thì xử lý như sau:

a) Đối với các khoản nợ thuế và nợ ngân sách: doanh nghiệp được khoanh nợ, giãn nợ, xoá nợ hoặc hỗ trợ vốn đầu tư theo quy định của Chính phủ;

b) Đối với các khoản nợ đọng vay Ngân hàng thương mại: doanh nghiệp thoả thuận với Ngân hàng cho vay để được giãn nợ, khoanh nợ, xoá nợ, giảm lãi suất vay hoặc chuyển vốn vay thành vốn góp cổ phần.

Các Ngân hàng thương mại có trách nhiệm xử lý các khoản nợ đọng theo quy định hiện hành;

c) Đối với các khoản nợ nước ngoài có bảo lãnh thì người bảo lãnh và doanh nghiệp phải thoả thuận với chủ nợ để khoanh nợ, giãn nợ, giảm nợ và bố trí nguồn để trả nợ. Nếu không thoả thuận được, người bảo lãnh phải trả nợ cho chủ nợ. Doanh nghiệp có trách nhiệm hoàn trả cho người bảo lãnh hoặc thoả thuận với người bảo lãnh để chuyển thành vốn góp trong Công ty cổ phần;

d) Đối với các khoản nợ nước ngoài do doanh nghiệp tự vay không có bảo lãnh thì doanh nghiệp có trách nhiệm bố trí nguồn để thanh toán hoặc thoả thuận với chủ nợ để xử lý hoặc chuyển nợ thành vốn góp trong Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật.

 

Điều 12. Các khoản dự phòng và lãi chưa phân phối

Các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, nợ phải thu khó đòi, giảm giá chứng khoán, chênh lệch tỷ giá, dự phòng trợ cấp mất việc làm, dự phòng tài chính... và các khoản lãi chưa phân phối phải được xử lý theo quy định hiện hành trước khi xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Trường hợp doanh nghiệp còn số lỗ luỹ kế của các năm trước thì được dùng thu nhập trước thuế có đến thời điểm cổ phần hoá để bù đắp trước khi thực hiện các biện pháp quy định tại các điểm a, b khoản 2 Điều 11 Nghị định này.

 

Điều 13. Tài sản góp vốn liên doanh với nước ngoài

1. Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hoá kế thừa hoạt động liên doanh thì toàn bộ tài sản của doanh nghiệp đem góp vốn liên doanh được xác định theo nguyên tắc quy định tại Điều 18 Nghị định này để xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá.

2. Trường hợp các doanh nghiệp cổ phần hoá không kế thừa các hoạt động liên doanh thì báo cáo cơ quan có thẩm quyền để xử lý tài sản góp vốn liên doanh như sau:

a) Thoả thuận để mua hoặc bán lại vốn góp liên doanh;

b) Chuyển giao cho doanh nghiệp khác làm đối tác.

 

Điều 14. Số dư bằng tiền của Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi

Số dư bằng tiền của Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi được chia cho người lao động đang làm việc tại doanh nghiệp để mua cổ phần. Người lao động không phải nộp thuế thu nhập đối với khoản thu nhập này.

 

Điều 15. Giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá

1. Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp là giá trị thực tế của doanh nghiệp sau khi đã trừ các khoản nợ phải trả và số dư Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi.

2. Giá trị thực tế của doanh nghiệp cổ phần hoá không bao gồm:

a) Giá trị những tài sản quy định tại khoản 1 Điều 9 Nghị định này;

b) Giá trị những tài sản không cần dùng, chờ thanh lý;

c) Các khoản nợ phải thu khó đòi đã được trừ vào giá trị doanh nghiệp;

d) Chi phí xây dựng cơ bản dở dang của những công trình đã bị đình hoãn trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp;

đ) Các khoản đầu tư dài hạn vào doanh nghiệp khác được cơ quan có thẩm quyền quyết định chuyển cho đối tác khác;

e) Tài sản thuộc công trình phúc lợi được đầu tư bằng nguồn Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi của doanh nghiệp và nhà ở của cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp.

 

Điều 16. Các căn cứ xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp

1. Số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá.

2. Số lượng và chất lượng tài sản theo kiểm kê phân loại tài sản thực tế của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá.

3. Tính năng kỹ thuật của tài sản, nhu cầu sử dụng và giá thị trường tại thời điểm cổ phần hoá.

4. Giá trị quyền sử dụng đất, lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp về vị trí địa lý, uy tín của doanh nghiệp, tính chất độc quyền về sản phẩm, mẫu mã, thương hiệu (nếu có).

5. Khả năng sinh lời của doanh nghiệp xác định trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp.

 

Điều 17. Xác định chất lượng tài sản, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp

1. Xác định chất lượng tài sản của doanh nghiệp căn cứ vào khả năng bảo đảm an toàn trong vận hành và sử dụng tài sản; bảo đảm chất lượng sản phẩm và môi trường.

2. Giá trị quyền sử dụng đất:

a) Trước mắt, vẫn áp dụng chính sách thuê đất và giao đất theo quy định hiện hành.

Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm tính lại giá thuê đất ở những vị trí thuận lợi để áp dụng chung cho mọi loại hình doanh nghiệp;

b) Đối với diện tích đất Nhà nước giao cho doanh nghiệp để kinh doanh nhà và hạ tầng thì phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá. Giá trị quyền sử dụng đất nói trên được xác định theo khung giá chuyển quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền quy định và không thấp hơn chi phí đã đầu tư như: đền bù, giải phóng, san lấp mặt bằng...

3. Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp được xác định trên cơ sở tỷ suất lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp trên vốn nhà nước tại doanh nghiệp bình quân trong 3 năm liền kề trước khi cổ phần hoá so với lãi suất của trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm ở thời điểm gần nhất nhân với giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp tại thời điểm định giá.

Nếu doanh nghiệp có giá trị thương hiệu được thị trường chấp nhận thì xác định căn cứ vào thị trường.

 

Điều 18. Xác định giá trị tài sản góp vốn liên doanh

1. Giá trị tài sản góp vốn liên doanh tính vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá được xác định trên cơ sở:

a) Giá trị vốn chủ sở hữu được thể hiện trong báo cáo tài chính của Công ty liên doanh tại thời điểm gần nhất với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá, đã được tổ chức kiểm toán độc lập kiểm toán;

b) Tỷ lệ vốn góp của doanh nghiệp cổ phần hoá vào liên doanh;

c) Tỷ giá chuyển đổi giữa ngoại tệ góp vốn với đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm định giá đối với các Công ty liên doanh hạch toán bằng ngoại tệ.

2. Giá trị tài sản góp vốn liên doanh xác định trên cơ sở nêu trên là căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá; không điều chỉnh giá trị vốn góp liên doanh trên giấy phép đầu tư.

 

Điều 19. Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp

Tuỳ theo đặc điểm của ngành nghề hoạt động sản xuất kinh doanh và điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp, cho phép áp dụng các phương pháp khác nhau để xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.

 

Điều 20. Tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá

1. Cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp quyết định thành lập Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá hoặc lựa chọn Công ty kiểm toán, tổ chức kinh tế có chức năng định giá để doanh nghiệp cổ phần hoá ký hợp đồng xác định giá trị doanh nghiệp.

2. Thành phần Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp bao gồm:

a) Đại diện cơ quan quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp làm Chủ tịch Hội đồng;

b) Đại diện cơ quan tài chính;

c) Lãnh đạo doanh nghiệp cổ phần hoá và đại diện Tổng công ty nhà nước (nếu doanh nghiệp là thành viên của Tổng công ty).

Căn cứ vào thực trạng doanh nghiệp và yêu cầu cụ thể, Hội đồng được mời thêm các tổ chức hoặc các chuyên gia kỹ thuật, kinh tế tài chính trong và ngoài doanh nghiệp cần thiết cho việc đánh giá chất lượng và xác định giá trị thực tế của từng loại tài sản trong doanh nghiệp.

3. Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp có trách nhiệm:

a) Thẩm định kết quả kiểm kê, phân loại, đánh giá tài sản và xác định giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá theo các quy định hiện hành trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có Quyết định thành lập Hội đồng. Kết quả thẩm định của Hội đồng được lập thành biên bản, có đầy đủ chữ ký của các thành viên chính thức;

b) Xác định lại kết quả giá trị doanh nghiệp nếu cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp yêu cầu.

Hội đồng xác định giá trị doanh nghiệp chịu trách nhiệm về tính chính xác của kết quả xác định giá trị doanh nghiệp.

4. Công ty kiểm toán và tổ chức kinh tế thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp phải bảo đảm các quy định hiện hành và hoàn thành đúng thời hạn theo hợp đồng đã ký; phải chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính hợp pháp của kết quả định giá. Tiền thuê xác định giá trị doanh nghiệp được tính vào chi phí cổ phần hoá của doanh nghiệp.

5. Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp phải được gửi đến cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp để quyết định và công bố.

 

Điều 21. Sử dụng kết quả xác định giá trị doanh nghiệp

Kết quả xác định giá trị doanh nghiệp theo các quy định tại Nghị định này là cơ sở để xác định cơ cấu cổ phần bán lần đầu, thực hiện chính sách ưu đãi đối với người lao động trong doanh nghiệp, người sản xuất và cung cấp nguyên liệu, xác định mức giá "sàn" để tổ chức bán cổ phần cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp.

 

Điều 22. Điều chỉnh giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá

Cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp xem xét và quyết định việc điều chỉnh giá trị doanh nghiệp trong các trường hợp:

1. Doanh nghiệp có khó khăn trong việc bán cổ phần như quy định tại khoản 5 Điều 24 Nghị định này.

2. Xác định lại giá trị doanh nghiệp từ thời điểm định giá đến thời điểm doanh nghiệp chính thức chuyển thành Công ty cổ phần.

 

CHƯƠNG III. BÁN CỔ PHẦN VÀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG TIỀN THU TỪ BÁN PHẦN VỐN NHÀ NƯỚC TẠI DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN HOÁ

 

Điều 23. Xác định cơ cấu cổ phần lần đầu

Cơ cấu cổ phần lần đầu của doanh nghiệp cổ phần hoá được xác định theo thứ tự như sau:

1. Giữ lại số lượng cổ phần của Nhà nước ở những doanh nghiệp thuộc đối tượng mà Nhà nước cần nắm giữ cổ phần.

2. Dành cổ phần để bán theo giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp theo quy định tại các khoản 1 và 2 Điều 27 Nghị định này.

3. Dành cổ phần để bán theo giá ưu đãi cho người sản xuất và cung cấp nguyên liệu ở những doanh nghiệp chế biến hàng nông, lâm, thủy sản theo quy định tại khoản 1 Điều 29 Nghị định này.

4. Dành tối thiểu 30% số cổ phần còn lại (nếu có) để bán cho các đối tượng ngoài doanh nghiệp, trong đó ưu tiên bán cho nhà đầu tư có tiềm năng về công nghệ, thị trường, vốn và kinh nghiệm quản lý.

 

Điều 24. Bán cổ phần lần đầu

1. Cổ phần được bán công khai tại doanh nghiệp cổ phần hóa hoặc tại các tổ chức tài chính trung gian theo cơ cấu cổ phần lần đầu đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt trong phương án cổ phần hóa. Trong đó:

a) Việc bán cổ phần và thực hiện chính sách ưu đãi về giá bán cổ phần cho người lao động trong doanh nghiệp, người sản xuất và cung cấp nguyên liệu do doanh nghiệp cổ phần hóa đảm nhận;

b) Việc bán cổ phần cho các đối tượng ngoài doanh nghiệp được thực hiện thông qua các tổ chức tài chính trung gian do cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hóa doanh nghiệp lựa chọn và thực hiện bằng hình thức đấu giá hoặc bảo lãnh phát hành theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.

Nếu doanh nghiệp cổ phần hóa có số lượng cổ phần bán ra bên ngoài thấp hoặc điều kiện bán thông qua các tổ chức tài chính trung gian có khó khăn, chi phí bán cổ phần vượt quá mức hoa hồng cho phép thì cơ quan quyết định cổ phần hóa giao cho doanh nghiệp tổ chức bán cổ phần ra bên ngoài theo hình thức đấu giá.

2. Các tổ chức tài chính được lựa chọn bán cổ phần lần đầu ra ngoài của các doanh nghiệp cổ phần hóa, trong thời hạn 30 ngày trước khi bán phải thực hiện thông báo công khai tại doanh nghiệp và trên các phương tiện thông tin đại chúng về thời gian, địa điểm, hình thức bán, điều kiện tham gia, số lượng cổ phần dự kiến bán và các vấn đề khác có liên quan đến việc bán cổ phần.

3. Việc bán cổ phần cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài được thực hiện thống nhất bằng đồng Việt Nam. Trường hợp mua bằng ngoại tệ thì phải chuyển đổi thành đồng Việt Nam theo quy định về quản lý ngoại hối của Nhà nước Việt Nam.

Việc bán cổ phần theo giá ưu đãi cho người sản xuất và cung cấp nguyên liệu đối với các doanh nghiệp chế biến hàng nông, lâm, thủy sản được thực hiện theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.

Trường hợp các bên tham gia đấu giá cổ phần có giá trả bằng nhau thì các nhà đầu tư có tiềm năng về công nghệ, thị trường, vốn, kinh nghiệm quản lý và các đối tượng chuyển nợ thành cổ phần được ưu tiên mua cổ phần. Các nhà đầu tư nước ngoài không có điều kiện trực tiếp tham gia đấu giá được thoả thuận với bên bán về giá mua bán cổ phần nhưng không thấp hơn giá bán cho các nhà đầu tư trong nước và phải bảo đảm các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 4 và Điều 5 Nghị định này.

4. Doanh nghiệp cổ phần hóa có tình hình tài chính phù hợp với điều kiện niêm yết trên thị trường chứng khoán thì phương án bán cổ phần ra bên ngoài phải bảo đảm các điều kiện để được niêm yết trên thị trường chứng khoán sau khi chuyển thành Công ty cổ phần.

5. Sau 60 ngày, kể từ ngày quyết định phê duyệt phương án cổ phần hóa, nếu số lượng cổ phần dự kiến bán trong doanh nghiệp chưa bán hết (kể cả cổ phần bán theo giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp, người sản xuất và cung cấp nguyên liệu) thì cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hoá quyết định bán số cổ phần còn lại rộng rãi ra ngoài doanh nghiệp.

Sau 30 ngày áp dụng biện pháp trên mà vẫn không bán hết thì cơ quan quyết định cổ phần hoá quyết định điều chỉnh giá trị doanh nghiệp và phương án bán cổ phần để chuyển doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần.

 

Điều 25. Quản lý và sử dụng số tiền thu từ bán cổ phần.

1. Số tiền thu được từ bán phần vốn Nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, sau khi trừ chi phí cổ phần hóa được chuyển về:

a) Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của Trung ương đối với trường hợp cổ phần hóa toàn bộ doanh nghiệp hoặc đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp độc lập trực thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ;

b) Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với trường hợp cổ phần hóa toàn bộ doanh nghiệp hoặc đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp độc lập trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;

c) Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước của Tổng công ty nhà nước đối với trường hợp cổ phần hóa đơn vị phụ thuộc hoặc toàn bộ doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty.

2. Số tiền thu được từ bán phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần hóa được sử dụng theo thứ tự ưu tiên như sau:

a) Hỗ trợ doanh nghiệp thanh toán trợ cấp cho người lao động thôi việc, mất việc tại thời điểm cổ phần hóa;

b) Hỗ trợ doanh nghiệp thanh toán trợ cấp cho người lao động thôi việc, mất việc sau khi đã chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang làm việc tại Công ty cổ phần theo quy định tại khoản 6 Điều 27 Nghị định này;

c) Hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo lại lao động dôi dư tại thời điểm cổ phần hoá để bố trí việc làm mới trong Công ty cổ phần;

d) Đầu tư cho các doanh nghiệp đã cổ phần hóa để bảo đảm tỷ trọng vốn chi phối của nhà nước đối với loại doanh nghiệp mà Nhà nước phải nắm giữ cổ phần chi phối;

đ) Hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước trước khi cổ phần hoá có khó khăn về khả năng thanh toán để xử lý các khoản nợ quá hạn, nợ bảo hiểm xã hội;

e) Hỗ trợ thanh toán các khoản nợ của các doanh nghiệp khi Nhà nước bán doanh nghiệp có số thu từ việc bán doanh nghiệp không đủ để thanh toán;

g) Hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh và phát triển doanh nghiệp.

 

CHƯƠNG IV. CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VÀ NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG DOANH NGHIỆP CỔ PHẦN HÓA

 

Điều 26. Chính sách đối với doanh nghiệp cổ phần hóa

1. Được hưởng ưu đãi về thuế theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước như đối với doanh nghiệp thành lập mới mà không cần phải làm thủ tục cấp chứng nhận ưu đãi đầu tư.

2. Được miễn lệ phí trước bạ đối với việc chuyển những tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa thành sở hữu của Công ty cổ phần.

3. Được tiếp tục kinh doanh những ngành nghề đã đăng ký và miễn lệ phí cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh khi chuyển từ doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần.

4. Được duy trì các hợp đồng thuê nhà cửa, vật kiến trúc của các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp khác hoặc được ưu tiên mua lại theo giá thị trường tại thời điểm cổ phần hoá để ổn định hoạt động sản xuất, kinh doanh.

5. Được hưởng các quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai trong trường hợp giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa đã bao gồm cả giá trị quyền sử dụng đất.

6. Được tiếp tục vay vốn tại Ngân hàng thương mại, Công ty tài chính, các tổ chức tín dụng khác của Nhà nước theo cơ chế và lãi suất như đối với doanh nghiệp nhà nước.

7. Được duy trì và phát triển quỹ phúc lợi dưới dạng hiện vật như: các công trình văn hóa, câu lạc bộ, bệnh xá, nhà điều dưỡng, nhà trẻ để bảo đảm phúc lợi cho người lao động trong Công ty cổ phần. Những tài sản này thuộc sở hữu của tập thể người lao động do Công ty cổ phần quản lý với sự tham gia của tổ chức Công đoàn.

8. Được trừ vào tiền bán cổ phần thuộc vốn nhà nước các khoản chi phí thực tế, hợp lý và cần thiết cho quá trình chuyển doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần (bao gồm cả phí thuê tư vấn, định giá) theo mức quy định của Bộ Tài chính; trường hợp cổ phần hóa theo hình thức quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định này thì được trừ vào vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.

 

Điều 27. Chính sách đối với người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa

1. Người lao động có tên trong danh sách thường xuyên của doanh nghiệp cổ phần hoá tại thời điểm quyết định cổ phần hoá được Nhà nước bán tối đa 10 cổ phần cho mỗi năm đã làm việc thực tế tại khu vực nhà nước với giá giảm 30% so với mệnh giá ban đầu. Trị giá một cổ phần là 100.000 đồng.

Trường hợp cổ phần hoá theo hình thức quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định này thì giá trị ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp được trừ vào phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp.

Tổng giá trị ưu đãi, kể cả giá trị ưu đãi cho người sản xuất và cung cấp nguyên liệu không vượt quá giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp sau khi đã trừ giá trị cổ phần Nhà nước nắm giữ.

Người lao động sở hữu số cổ phần được mua theo giá ưu đãi có quyền để thừa kế và các quyền khác của cổ đông theo quy định của pháp luật và Điều lệ tổ chức, hoạt động của Công ty cổ phần. Cổ phiếu của loại cổ phần này là cổ phiếu ghi tên và chỉ được chuyển nhượng sau 3 năm kể từ khi mua. Trường hợp đặc biệt cần chuyển nhượng số cổ phần này trước thời hạn trên thì phải được Hội đồng quản trị Công ty chấp thuận. Công ty cổ phần ưu tiên mua lại theo giá thị trường tại thời điểm bán.

2. Người lao động nghèo trong doanh nghiệp cổ phần hoá được mua chịu cổ phần theo giá ưu đãi, được hoãn trả trong 3 năm đầu và trả dần tối đa trong 7 năm tiếp theo không phải chịu lãi suất. Số cổ phần mua trả dần dành cho người lao động nghèo không quá 20% tổng số cổ phần Nhà nước bán theo giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp. Cổ phiếu của loại cổ phần này là cổ phiếu ghi tên. Người sở hữu cổ phần này chỉ được chuyển nhượng sau 3 năm kể từ khi mua và đã trả hết nợ cho Nhà nước.

3. Người lao động chuyển sang làm việc tại Công ty cổ phần được tiếp tục tham gia và hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội theo quy định hiện hành.

4. Người lao động đã có đủ điều kiện để hưởng chế độ hưu trí tại thời điểm cổ phần hóa được giải quyết quyền lợi theo chế độ hiện hành.

5. Người lao động mất việc, thôi việc tại thời điểm cổ phần hóa được thanh toán trợ cấp mất việc, thôi việc theo quy định của pháp luật.

6. Sau khi doanh nghiệp nhà nước chuyển thành Công ty cổ phần, nếu do nhu cầu tổ chức lại hoạt động kinh doanh, thay đổi công nghệ dẫn đến người lao động ở doanh nghiệp nhà nước chuyển sang bị mất việc hoặc thôi việc, kể cả trường hợp người lao động tự nguyện thôi việc, thì được giải quyết như sau:

a) Trong 12 tháng kể từ ngày Công ty cổ phần được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, nếu người lao động bị mất việc do cơ cấu lại thuộc đối tượng hưởng chính sách đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước theo Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2002 của Chính phủ thì được Quỹ hỗ trợ lao động dôi dư hỗ trợ.

Các đối tượng lao động mất việc, thôi việc còn lại thì được hưởng trợ cấp mất việc, thôi việc theo quy định của pháp luật lao động hiện hành và được Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước hỗ trợ.

b) Trường hợp người lao động bị mất việc, thôi việc trong 4 năm tiếp theo thì Công ty cổ phần có trách nhiệm thanh toán 50% tổng mức trợ cấp theo quy định của Bộ Luật Lao động, số còn lại được Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thanh toán. Hết thời hạn trên, Công ty cổ phần chịu trách nhiệm thanh toán toàn bộ trợ cấp cho người lao động.

7. Đối với số lao động dôi dư tại thời điểm cổ phần hoá cần được đào tạo, đào tạo lại để bố trí việc làm mới trong Công ty cổ phần thì Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho Công ty cổ phần để tổ chức đào tạo, đào tạo lại từ Quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.

 

CHƯƠNG V. QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CỔ ĐÔNG LÀ NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀ NGƯỜI SẢN XUẤT VÀ CUNG CẤP NGUYÊN LIỆU CHO CÁC DOANH NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG, LÂM, THỦY SẢN

 

Điều 28. Quyền và nghĩa vụ của cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài

1. Được quyền tham gia quản lý Công ty cổ phần theo quy định của pháp luật và Điều lệ tổ chức, hoạt động của Công ty cổ phần.

2. Được sử dụng cổ phiếu để cầm cố trong các quan hệ tín dụng ở Việt Nam.

3. Được đổi các khoản thu về cổ tức, tiền chuyển nhượng cổ phần tại Việt Nam thành ngoại tệ để chuyển ra nước ngoài sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ về thuế theo quy định của pháp luật.

Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài dùng cổ tức thu được để tái đầu tư tại Việt Nam thì được hưởng các ưu đãi theo quy định của Luật Khuyến khích đầu tư trong nước.

4. Được quyền tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam và có nghĩa vụ tuân thủ quy định của Chính phủ Việt Nam về việc tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam sau khi Công ty cổ phần đã thực hiện niêm yết trên thị trường chứng khoán.

5. Có quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật Việt Nam và Điều lệ tổ chức, hoạt động của Công ty cổ phần.

 

Điều 29. Quyền và nghĩa vụ của người sản xuất và cung cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản

1. Được mua cổ phần, kể cả cổ phần mua theo giá ưu đãi tại doanh nghiệp đã tham gia cung cấp nguyên liệu với giá giảm 30% so với mệnh giá ban đầu. Tổng giá trị cổ phần ưu đãi không quá 10% giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Cổ phiếu của những cổ phần này là cổ phiếu ghi tên, chuyển nhượng có điều kiện như quy định đối với việc chuyển nhượng cổ phần mua theo giá ưu đãi của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá.

2. Được sử dụng cổ phiếu để cầm cố trong các quan hệ tín dụng ở Việt Nam.

3. Có trách nhiệm cung cấp nguyên liệu cho doanh nghiệp theo đúng hợp đồng đã ký kết.

4. Có các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ tổ chức, hoạt động của Công ty cổ phần.

 

CHƯƠNG VI. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

 

Điều 30. Quyền hạn và trách nhiệm của các Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hội đồng quản trị Tổng công ty nhà nước

1. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Hội đồng quản trị Tổng công ty 91 có trách nhiệm xây dựng phương án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp nhà nước thuộc phạm vi quản lý, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện. Trường hợp không thực hiện phương án đã được phê duyệt thì Thủ trưởng các cơ quan quản lý doanh nghiệp phải chịu các hình thức kỷ luật theo quy định hiện hành.

2. Trên cơ sở phương án sắp xếp doanh nghiệp nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt:

a) Hội đồng quản trị Tổng công ty nhà nước chỉ đạo xây dựng phương án cổ phần hoá các doanh nghiệp thành viên Tổng công ty, báo cáo Bộ trưởng Bộ quản lý ngành kinh tế kỹ thuật hoặc Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định.

b) Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định cổ phần hoá các doanh nghiệp thuộc phạm vi quản lý, tổ chức xác định giá trị doanh nghiệp; quyết định giá trị doanh nghiệp; phê duyệt phương án cổ phần hoá để chuyển doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần theo hướng dẫn của các cơ quan có liên quan. Đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá mà Nhà nước cần giữ cổ phần đặc biệt thì phải trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.

3. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định giá trị doanh nghiệp hoặc điều chỉnh giá trị doanh nghiệp. Trường hợp giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhỏ hơn so với giá trị ghi trên sổ sách kế toán từ 500 triệu đồng trở lên phải được Bộ trưởng Bộ Tài chính chấp thuận bằng văn bản trước khi quyết định.

4. Hồ sơ xác định giá trị doanh nghiệp, phương án cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và các văn bản về cổ phần hoá của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các Tổng công ty nhà nước phải gửi về Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, Bộ Tài chính để theo dõi, tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

5. Ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, Bộ Tài chính chịu trách nhiệm giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, đôn đốc các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các Tổng công ty nhà nước thực hiện công tác cổ phần hoá theo quy định của pháp luật và phương án sắp xếp doanh nghiệp nhà nước đã được phê duyệt.

 

Điều 31. Đăng ký kinh doanh của Công ty cổ phần

Doanh nghiệp nhà nước sau khi bán cổ phần và tổ chức Đại hội cổ đông theo đúng quy định của Luật Doanh nghiệp phải đăng ký kinh doanh theo quy định tại Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 năm 2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

 

Điều 32. Quản lý phần vốn nhà nước tại Công ty cổ phần

1. Phần vốn nhà nước tại Công ty cổ phần được quản lý theo quy định tại Nghị định số 73/2000/NĐ-CP ngày 06 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý phần vốn nhà nước ở doanh nghiệp khác. Người đang làm việc tại doanh nghiệp nhà nước đến thời điểm cổ phần hoá được giao trực tiếp quản lý phần vốn nhà nước tại Công ty cổ phần có quyền mua cổ phần như những người lao động khác trong doanh nghiệp.

2. Đối với doanh nghiệp cổ phần hoá không thuộc diện Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt thì cơ quan đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại Công ty cổ phần được quyền quyết định việc bán tiếp cổ phần thuộc sở hữu nhà nước tại Công ty cổ phần sau 3 năm kể từ ngày Công ty cổ phần hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.

 

Điều 33. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm giải quyết những vướng mắc cho các doanh nghiệp cổ phần hoá theo thẩm quyền được giao trong thời hạn tối đa 15 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ. Trường hợp vượt quá thẩm quyền thì có trách nhiệm kịp thời báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

 

CHƯƠNG VII. ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH

 

Điều 34. Nghị định này thay thế Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29 tháng 6 năm 1998 của Chính phủ và có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày ký. Các quy định trước đây về cổ phần hoá trái với Nghị định này đều không còn hiệu lực thi hành.

 

Điều 35. Bộ Tài chính, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Tổng cục Địa chính, các Bộ và cơ quan khác có liên quan có trách nhiệm hướng dẫn thực hiện Nghị định này.

 

Điều 36. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Hội đồng quản trị Tổng công ty 91 chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.

LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết

THE GOVERNMENT
-------

SOCIALISTREPUBLIC OF VIET NAM
Independence - Freedom - Happiness
------------

No: 64/2002/ND-CP

Hanoi, June 19, 2002

 

DECREE

ON THE TRANSFORMATION OF STATE ENTERPRISES INTO JOINT-STOCK COMPANIES

THE GOVERNMENT

Pursuant to the December 25, 2001 Law on Organization of the Government;

Pursuant to the June 12, 1999 Enterprise Law;

Pursuant to the April 20, 1995 State Enterprise Law;

At the proposal of the Finance Minister,

DECREES:

Chapter I

GENERAL PROVISIONS

Article 1.-Objectives of the transformation of State enterprises into joint-stock companies (hereinafter referred to as equitization for short)

1. To make an important contribution to raising the efficiency and competitiveness of enterprises; to create a type of enterprises with multiple owners, including the majority of laborers; to generate a vigorous motive force and a dynamic managerial mechanism for enterprises to use efficiently the State capital and assets as well as their own capital.

2. To mobilize the capital of the entire society, including individuals, economic and social organizations at home and abroad, for investment in renewing technologies and developing enterprises.

3. To promote the genuine mastery of laborers and shareholders, to enhance the supervision by investors over enterprises; to ensure the harmony between the interests of the State, enterprises, investors and laborers.

Article 2.-Objects of application

1. This Decree shall apply to enterprises and their dependent units as prescribed in Article 1 of the State Enterprise Law (excluding those enterprises where the State needs to hold 100% of their charter capital), regardless of the enterprises production and business results. The list of classified State enterprises shall be decided by the Prime Minister in each period.

2. The equitization of dependent units of the enterprises specified in Clause 1 of this Article shall be carried out only when:

a/ These dependent units meet all the conditions for independent cost-accounting;

b/ No difficulty or adverse impact shall be caused to the production and/or business efficiency of the enterprises or their remaining components.

3. For enterprises with independent cost-accounting, which fall into the subjects specified in Clause 1 of this Article and have, as reflected on their accounting books, a State capital amount of under VND 5 billion, if they cannot be equitized, they shall be transferred, sold, commercially contracted, or leased according to law provisions.

Article 3.-Forms of equitization of State enterprises

1. Maintaining the existing State capital portion in the enterprise and issuing share certificates to attract more capital.

2. Selling part of the existing State capital amount in the enterprise.

3. Selling the whole of the existing State capital amount in the enterprise.

4. Effecting the second or third form above in combination with issuing share certificates to attract more capital.

Article 4.-Subjects and conditions for buying shares

1. The following subjects shall be entitled to buy shares of equitized State enterprises:

a/ Vietnamese economic organizations, social organizations and individuals residing in the country (hereinafter called domestic investors for short);

b/ Foreign economic organizations, social organizations and individuals, including overseas Vietnamese and foreigners residing in Vietnam (hereinafter called foreign investors for short);

2. Foreign investors that wish to buy shares of equitized State enterprises must open accounts at the payment service-providing organizations that are currently operating on the Vietnamese territory and observe the Vietnamese law. All operations of buying and selling shares, receiving and using dividends and other revenues from the investment in buying shares must be effected via these accounts.

Article 5.-The right to buy first-time shares at equitized enterprises

The subjects specified in Clause 1, Article 4 of this Decree shall all be entitled to buy the equitized State enterprises first-time shares with unlimited quantities but must ensure the State’s current regulations on the minimum number of shareholders and on the State’s dominant shares at those enterprises where the State needs to hold dominant shares.

Foreign investors may buy shares of a total value not exceeding 30% of the charter capital of the enterprises operating in the business lines stipulated by the Prime Minister.

Article 6.-Share certificates and founding shareholders

1. Share certificates are certificates issued by the joint-stock companies to certify the right to own one or a number of shares by shareholders contributing capital to the companies. They may be registered or bearer certificates but must contain the full principal contents as prescribed in Article 59 of the Enterprise Law.

The Finance Ministry shall provide guidance on the uniform forms of share certificates so that the enterprises can print and manage them according to regulations.

2. Founding shareholders of equitized enterprises are shareholders that meet all the following conditions:

a/ Participating in adopting the first charter of the joint-stock company;

b/ Jointly holding at least 20% of the number of ordinary shares eligible for sale offer;

c/ Owning a minimum number of shares as prescribed in the company’s charter.

Each founding shareholder’s minimum number of shares and the number of founding shareholders shall be decided by the shareholdersgeneral meetings and prescribed in the companies charters.

Article 7.-Rights and obligations of equitized enterprises

1. The equitized enterprises shall have to arrange and employ to the maximum the number of laborers available at the time of equitization and settle the regimes for them according to current regulations.

The joint-stock companies shall have to take over all obligations towards the laborers transferred from the State enterprises; be entitled to recruit, arrange and employ laborers and coordinate with the concerned agencies in settling the regimes for the laborers according to law provisions.

2. The joint-stock companies may take initiative in using all equitized assets and capital for organizing production and/or business; take over all the State enterprises interests, obligations and responsibilities before their equalization, and have other rights and obligations as prescribed by law.

3. Member enterprises of equitized State corporations where the State holds dominant shares (over 50% of their charter capital) shall remain members of the corporations.

Article 8.-The States protection of investors

The ownership and all rights and legitimate interests of domestic and foreign investors that buy shares of equitized enterprises shall be protected by the State according to law provisions.

Chapter II

FINANCIAL HANDLING AND VALUATION OF TO BE-EQUITIZED ENTERPRISES

Article 9.-Assets leased, borrowed and accepted as joint-venture and association capital, unneeded assets, assets invested from the reward and/or welfare funds

Before equitization, the enterprises must inventory, classify and take initiative in handling, their assets according to the following regulations:

1. For assets which they have leased, borrowed or accepted as joint-venture and/or association capital, and other assets not under their ownership: The enterprises must liquidate the contracts or reach agreements with the asset owners so that the joint-stock companies can take over the already signed contracts or sign new ones.

2. For assets which are no longer needed by the enterprises, unused and awaiting liquidation: The enterprises shall liquidate or sell them or report to competent agencies for transferring them to other units according to current regulations. For those assets which have not yet been handled by the time of equitization, they shall not be calculated into the enterprises value and the joint-stock companies shall be authorized to continue preserving and handling them or to transfer them to functional State organizations for reception and settlement.

3. For assets belonging to welfare facilities: creches, kindergartens, infirmaries and other welfare assets invested from the reward and/or welfare funds, they shall be transferred to the laborers collectives in the joint-stock companies for management and use through the trade union organizations.

Particularly for dwelling houses of officials, employees and workers, including those invested with the State budget capital, they shall be transferred to the local land and housing agencies for management or sale to the present occupiers according to current regulations.

4. For assets being used in production or business, which were invested from the reward funds and/or welfare funds of the enterprises, they shall be calculated into the value of the equitized enterprises and converted into shares to be owned by laborers working in these enterprises at the time of equitization according to the actual working duration of each laborer.

Article 10.-Receivable debts

The enterprises shall have to compare, certify, recover and handle receivable debts before they are equitized under the current mechanisms. Where there remain bad debts at the time of equitization, they shall be handled as follows:

1. For debts which are adequately evidenced to be irrecoverable and neither personal nor collective responsibility can be identified, they shall be offset by the reserve sources; if the reserve sources are not enough, the deficit shall be deducted into the business results and profits at the time of equitization. Where the above-said sources are still not enough, the deficit shall be deducted into the State capital portions at the enterprises before they are equitized.

2. For those debts which are irrecoverable due to subjective causes and the responsibility therefor has been imputed to some individuals and/or organizations, such individuals and/or organizations shall be handled and must pay compensation therefor. If there remains any loss as the debts cannot be fully recovered, it shall be handled under the provisions in Clause 1 of this Article.

3. For receivable debts which have been overdue for 3 or more years, the debtors still exist but are unable to repay them, and the enterprises cannot recover them though they have taken many measures, they shall be handled under the provisions in Clause 1 of this Article.

4. For other overdue receivable debts, the enterprises may sell them to organizations with the debt-buying and -selling function. The loss resulting from the debt sale shall be handled under the provisions in Clause 1 of this Article.

Article 11.-Payable debts

1. The enterprises must mobilize every source of capital to pay due debts before they are equitized or negotiate with the creditors on how to handle them or convert them into equity capital.

The conversion of debts into equity capital shall be determined through the results of the auctions of shares, or be agreed upon by the enterprises and creditors but they must not be lower than the prices of shares sold to other subjects outside the enterprises.

2. Where the enterprises meet with difficulties in repaying overdue debts, such debts shall be handled as follows:

a/ For tax and budget debts: The enterprises shall have them frozen, rescheduled or written off or receive investment capital supports under the Government’s stipulations;

b/ For outstanding debts owed to commercial banks: The enterprises shall reach agreement with the lending banks in order to have such debts rescheduled, frozen, written off or their interest rates lowered, or to convert the loans into equity capital.

The commercial banks shall have to handle outstanding debts according to current regulations;

c/ For guaranteed foreign debts, the guarantors and the enterprises must reach agreement with the creditors so as to freeze, reschedule or reduce them, and arrange sources of capital for repaying them. If they fail to reach agreement thereon, the guarantors must pay the debts to the creditors. The enterprises shall then have the responsibility to make repayment to the guarantors or reach agreement with them on converting such debts into capital contributed to the joint-stock companies;

d/ For foreign debts which the enterprises have borrowed by themselves without guarantee, the enterprises shall have to arrange sources to repay them or reach agreement with the creditors on handling them or converting them into capital contributed to the joint-stock companies according to law provisions.

Article 12.-Reserves and undistributed profits

The reserves for inventory price decrease, bad debts, securities price decrease, exchange rate difference, job-loss allowances, financial reservesand undistributed profits must be handled under current regulations before the valuation of to be-equitized enterprises. Where the enterprises have previous years accumulated losses, they shall be allowed to use the pre-tax incomes earned up to the time of equitization to offset them before taking the measures prescribed at Points a and b, Clause 2, Article 11 of this Decree.

Article 13.-Assets contributed as capital to joint ventures with foreign countries

1. Where the equitized enterprises take over joint-venture activities, all of their assets contributed as joint-venture capital shall be determined on the principles laid down in Article 18 of this Decree so as to valuate the equitized enterprises.

2. Where the equitized enterprises do not take over joint-venture activities, they shall report such to competent agencies so as to handle the assets contributed as joint-venture capital as follows:

a/ Reaching agreement on buying or selling the contributed joint venture capital;

b/ Transferring them to other enterprises to act as new partners.

Article 14.-Cash balances of the reward and welfare funds

The cash balances of the reward and/or welfare funds shall be distributed to the laborers currently working at the enterprises to buy shares. Laborers shall not have to pay income tax on these incomes.

Article 15.-Value of equitized enterprises

1. The actual value of an enterprise shall be the value of all the existing assets of the enterprise at the time of equitization, taking into account its profitability acceptable by both share buyers and sellers. The actual value of the State capital portion at an enterprise is its actual value minus the payable debts and the reward and/or welfare fund balances.

2. The actual value of an equitized enterprise shall not include:

a/ The value of the assets specified in Clause 1, Article 9 of this Article;

b/ The value of assets no longer needed or assets awaiting liquidation;

c/ Bad debts already deducted into the enterprise’s value;

d/ Expenses for uncompleted capital construction of projects which were suspended prior to the time of valuation of the enterprise;

e/ Long-term investments in other enterprises, which competent agencies have decided to transfer to other partners;

f/ Assets belonging to welfare works invested from the enterprise’s reward and/or welfare funds, and dwelling houses of its officials, employees and workers.

Article 16.-Bases for determining the actual value of enterprises

1. Data on the enterprise’s accounting books at the time of equitization.

2. The quantity and quality of assets based on the inventory and classification of actual assets of the enterprise at the time of equitization.

3. Technical properties of assets, their use demands and market prices at the time of equitization.

4. The enterprise’s land use right value, business advantages regarding its geographical location and prestige, monopolistic nature of its products, designs and trademarks (if any).

5. The enterprise’s profitability determined on the basis of the ratio between profits and the owner’s capital of the enterprise.

Article 17.-Determination of the quality of assets, the land use right value and the value of business advantages of enterprises

1. The quality of an enterprise’s assets shall be determined on the basis of the capability to ensure safety in their operation and use, the product quality and the environment.

2. The land use right value:

a/ For the immediate future, the land lease and assignment policies shall still apply according to current regulations.

The People’s Committees of the provinces and centrally-run cities shall have to re-calculate the land rents at convenient locations for uniform application to all types of enterprises.

b/ For land areas assigned by the State to the enterprises for dealing in housing and infrastructures, the land use right value must be included into the value of the equitized enterprises. This land use right value shall be determined according to the land use right-transfer levy bracket set by competent agencies and must not be lower than the costs already spent on compensation, ground clearance and leveling

3. The value of an enterprise’s business advantages shall be determined on the basis of the average ratio between the after-enterprise income tax profits and the State capital at the enterprise, averaged in three years preceding the equitization as compared with the interest rate of the Government’s bonds with a ten-year term at the nearest time, and multiplied by the value of the State capital portion at the enterprise at the time of valuation.

If the value of the enterprise’s trademark is accepted by the market, it shall be determined according to the market value.

Article 18.-Determination of the value of assets contributed as joint-venture capital

1. The value of assets contributed as joint-venture capital which is calculated into the value of the equitized enterprise shall be determined on the basis of:

a/ The value of the owner’s capital reflected on the financial statements of the joint-venture company at the time closest to the time of valuation of the equitized enterprise, which has been audited by an independent auditing organization;

b/ The equitized enterprise’s percentage of capital contributed to the joint venture;

c/ The rate of exchange between the foreign currency contributed as joint-venture capital and Vietnam dong, based on the average transaction rate on the inter-bank market announced by the State Bank of Vietnam at the valuation time for application to joint-venture companies applying accounting in foreign currencies.

2. The value of assets contributed as joint-venture capital, which is determined on the aforesaid bases, shall serve as the basis for valuating the equitized enterprises; the value of the joint-venture capital contribution on the investment licenses shall not be adjusted.

Article 19.-Methods of valuation of enterprises

Depending on the characteristics of the business and/or production lines as well as the practical conditions of each enterprise, different methods shall be allowed to be applied to valuate the equitized enterprises under the guidance of the Finance Ministry.

Article 20.-Organizing the valuation of equitized enterprises

1. The agencies competent to decide on the enterprise equitization shall decide to set up councils for valuation of equitized enterprises or select auditing companies or economic organizations with the valuating function so that the equitized enterprises can sign contracts therewith for determining their value.

2. A council for valuation of an enterprise shall be composed of:

a/ A representative of the agency which has decided on the enterprise equitization, as its chairman;

b/ A representative of the finance agency;

c/ Leading officials of the to be-equitized enterprise and a representative of the State corporation (if the enterprise in question is a corporation member).

Basing itself on the actual situation of the enterprise as well as specific requirements, the council may invite more organizations or technical, economic and/or financial specialists inside and outside the enterprise necessary for evaluating the quality and determining the actual value of assets of each type in the enterprise.

3. The councils for valuation of enterprises shall have the responsibilities to:

a/ Evaluate the results of asset inventory, classification and assessment and determine the value of the to be-equitized enterprises according to current regulations within 15 days as from the date the decisions to set up the councils are issued. The councils’ evaluation results shall be recorded in written minutes which are signed by all full-fledged members of the councils;

b/ Re-determine the results on the enterprise’s value if so requested by the agencies competent to decide on the enterprise equitization.

The councils for valuation of enterprises shall be accountable for the accuracy of the results of the enterprise valuation.

4. Auditing companies and economic organizations which have valuated the enterprises must ensure the current regulations and completed their jobs according to the schedule set in the signed contracts, must be accountable for the accuracy and validity of the valuation results. The costs paid for hiring the enterprise valuation shall be calculated into the equitization costs of the enterprises.

5. The enterprise valuation results must be sent to the agencies competent to decide on the enterprise equitization for decision and publicization.

Article 21.-Use of the enterprise valuation results

The results of valuation of enterprises under the provisions of this Decree shall serve as the basis for determining the structure of the sale of first-time shares, for realizing the preferential treatment policies for laborers in the enterprises, the raw-material producers and suppliers, and for determining the "floor" prices so as to hold the sale of shares to subjects outside the enterprises.

Article 22.-Adjustment of the value of equitized enterprises

The agencies competent to decide on the enterprise equitization shall consider and decide on the adjustment of the enterprises value in the following cases where:

1. Enterprises meet with difficulties in selling shares under the provisions of Clause 5, Article 24 of this Decree.

2. The enterprises value is re-determined during the period from the time of valuation to the time the enterprise is officially transformed into a joint-stock company.

Chapter III

SALEOF SHARES AND MANAGEMENT AND USE OF THE PROCEEDS FROM THE SALE OF THE STATE CAPITAL PORTIONS AT EQUITIZED ENTERPRISES

Article 23.-Determination of the structure of the first-time shares

The structure of first-time shares of equitized enterprises shall be determined in the following order:

1. Retaining the number of the State’s shares in the enterprises where the State needs to hold shares.

2. Sparing shares for sale at preferential prices to the laborers in the enterprises under the provisions of Clauses 1 and 2, Article 27 of this Decree.

3. Sparing shares for sale at preferential prices to the raw-material producers and suppliers in the enterprises engaged in processing agricultural, forest and aquatic commodities under the provisions in Clause 1, Article 29 of this Decree.

4. Sparing at least 30% of the remaining shares (if any) for sale to the subjects outside the enterprises, with priority given to the investors that have potentials in technology, market, capital and/or managerial experiences.

Article 24.-Sale of first-time shares

1. Shares shall be publicly sold at the equitized enterprises or at intermediary financial institutions according to the first-time share structure already approved by competent agencies in the equitization plans, in which:

a/ The sale of shares and the implementation of the preferential policy on the prices of shares sold to the laborers in the enterprises, to the raw-material producers and suppliers shall be effected by the equitized enterprises;

b/ The sale of shares to the subjects outside the enterprises shall be effected through intermediary financial institutions selected by the agencies competent to decide on the enterprise equitization, and in the form of auction or issuance underwriting under the guidance of the Finance Ministry.

If the equitized enterprises have small numbers of shares sold externally, conditions for sale of shares through intermediary financial institutions are difficult or the costs of sale of shares are in excess of the permitted commission levels, the equitization-deciding agencies shall assign the enterprises to sell their shares to outsiders in the auctioning form.

2. The financial institutions which are selected to sell outside the equitized enterprisesfirst-time shares shall, within 30 days before effecting the sale, must publicly announce at the enterprises and on the mass media the time, place and form of sale, participation conditions, the estimated number of shares on sale, and other matters related to the sale.

3. The sale of shares to domestic and foreign investors shall be effected uniformly in the Vietnamese currency. Where shares are bought in foreign currencies, they must be converted into the Vietnam dong according to the Vietnamese States regulations on foreign exchange management.

The sale of shares at preferential prices to the producers and suppliers of raw materials for the enterprises engaged in processing agricultural, forest and aquatic products shall comply with the Prime Ministers regulations.

Where the participants to the share auctions offer equal prices, those investors that have potentials in technologies, markets, capital and/or managerial experiences and the subjects that agree to convert debts into shares shall be given priority to buy shares. Foreign investors that do not have conditions to directly participate in the auctions may negotiate with the sellers on the buying prices of shares which, however, must not be lower than those applicable to the domestic investors, and must ensure the conditions prescribed in Clause 2, Article 4 and Article 5 of this Decree.

4. For the equitized enterprises with their financial situations meeting the conditions for listing on the securities market, their plans on the outside sale of shares must ensure the conditions for being listed on the securities market after they are transformed into joint-stock companies.

5. If, past 60 days after the date the decisions approving the equitization plans are issued, the number of shares planned to be sold within the enterprises has not yet been sold out (including the shares sold at preferential prices to the laborers in the enterprises, the raw-material producers and suppliers), the agencies competent to decide on the equitization shall decide to sell the remaining shares widely outside the enterprises.

If, past 30 days after the above-said measure has been taken, the shares have still not yet been sold out, the equitization-deciding agencies shall adjust the enterprises value as well as the plans on the sale of shares for transforming State enterprises into joint-stock companies.

Article 25.-Management and use of the proceeds from the sale of shares

1. The proceeds from the sale of the State capital portion at the equitized State enterprises, after the equitization costs have been deducted therefrom, shall be transferred into:

a/ The fund for support of the arrangement and equitization of central State enterprises, for cases of equitization of the entire enterprises or dependent units of independent enterprises which are directly attached to ministries, ministerial-level agencies and agencies attached to the Government.

b/ The fund for support of the arrangement and equitization of State enterprises of the provinces and centrally-run cities, for cases of equitization of the entire enterprises or of dependent units of independent enterprises which are directly attached to provinces or centrally-run cities;

c/ The fund for support of the arrangement and equitization of State enterprises of the State corporations, for cases of equitization of the corporations dependent units or of entire member enterprises practicing independent cost-accounting.

2. The proceeds from the sale of the State capital portion at the equitized enterprises shall be used in the following priority order:

a/ Supporting the enterprises in paying allowances to the laborers who terminate or lose their jobs at the time of equitization;

b/ Supporting the enterprises in paying allowances to the laborers who terminate or lose their jobs after they have been transferred from State enterprises to work at joint-stock companies under the provisions in Clause 6, Article 27 of this Decree;

c/ Supporting the enterprises in re-training redundant laborers at the time of equitization so as to arrange new jobs for them in the joint-stock companies;

d/ Investing in the equitized enterprises so as to ensure the proportion of the State’s dominant capital in the enterprises where the State must hold dominant shares;

e/ Providing capital support to the to be-equitized State enterprises which meet with difficulties in paying overdue debts and social insurance debts;

f/ Supporting the enterprises in paying their debts when the State sells these enterprises but the proceeds therefrom are not enough to pay such debts;

g/ Providing support capital to the State enterprises for investment in renewing technologies, raising their competitiveness and developing themselves.

Chapter IV

POLICIES TOWARDS EQUITIZED ENTERPRISES AND LABORERS THEREIN

Article 26.-Policies towards equitized enterprises

1. They shall enjoy tax preferences under the Domestic Investment Promotion Law like newly-established enterprises, without having to carry out the procedures for being granted the investment preference certificates.

2. They shall be exempt from registration fee for the transfer of assets under their management and use to the joint-stock companies ownership.

3. They shall be allowed to continue dealing in the already registered business lines and be exempt from the fee for being granted the business registration certificates when they are transformed into joint-stock companies.

4. They shall be allowed to maintain the contracts for renting houses and/or architectural objects of State agencies and other enterprises or be given priority to re-purchase them at the market prices at the time of equitization in order to stabilize their production and/or business activities.

5. They shall enjoy the land use rights under the provisions of the Land Law in cases where their value already includes the land use right value.

6. They shall be allowed to continue borrowing capital from commercial banks, financial companies and other credit institutions of the State under the mechanisms and at the interest rates applicable to State enterprises.

7. They shall be allowed to maintain and develop welfare funds in kind, such as cultural facilities, clubs, health stations, sanatoriums and creches, so as to ensure welfare for the laborers in the joint-stock companies. These assets shall come under the laborers collective ownership and be managed by the joint-stock companies with the participation of the trade union organizations.

8. They shall be allowed to deduct from the proceeds from the sale of shares belonging to the State capital the actual, reasonable and necessary expenses for the process of transformation into joint-stock companies (including the expenses for hiring consultants and for valuation) at the levels set by the Finance Ministry. Where they are equitized in the form prescribed in Clause 1, Article 3 of this Decree, such expenses shall be deducted into the State capital amounts available at the enterprises.

Article 27.-Policies towards laborers in equitized enterprises

1. Laborers named on the regular lists of the equitized enterprises at the time the equitization is decided shall be sold by the State 10 shares at most for each year they have actually worked in the State sector with a 30% discount from the original face value of such shares. The value of each share is VND 100,000.

Where the equitization is effected in the form prescribed in Clause 1, Article 3 of this Decree, the preferential value granted to the laborers in the enterprises shall be deducted into the existing State capital portions at the enterprises.

The total preferential value, including the preferential value granted to the raw-material producers and suppliers, shall not exceed the value of the State capital portions at the enterprises, after subtracting the value of shares held by the State.

The laborers who own the shares bought at preferential prices shall be entitled to bequeath them and enjoy other rights of shareholders under the provisions of law and the joint-stock companiesorganization and operation charters. Share certificates of this type of shares shall be the registered ones and can be transferred only 3 years after their purchase. In special cases where it is necessary to transfer such shares ahead of the aforesaid time limit, the consent of the companiesmanaging boards must be obtained. The joint-stock companies shall be given priority to re-purchase them at the market prices at the time of sale.

2. Poor laborers in the equitized enterprises shall be allowed to buy shares on credit at preferential prices, shall be granted a grace period of the first three years before making interest-free installment payments within seven subsequent years. The number of shares purchased on installment payments reserved for poor laborers must not exceed 20% of the total number of the States shares sold at preferential prices to laborers in the enterprises. The share certificates of this type of shares shall be registered ones. The owners of these shares can transfer them only three years after they have purchased them and paid up all debts to the State.

3. The laborers who have been transferred to work at the joint-stock companies shall be allowed to continue participating in social insurance and enjoying interests therefrom under current regulations.

4. The laborers eligible for retirement at the time of equitization shall have their interests settled according to current regulations.

5. The laborers who have lost or terminated there jobs at the time of equitization shall be paid job-loss or severance allowances according to law provisions.

6. After the State enterprises have been transformed into joint-stock companies, if due to the needs to reorganize business activities and/or renew technologies, which leads to the situation that the laborers who have been transferred from the State enterprises lose or terminate their jobs, including cases where they terminate their jobs voluntarily, they shall be settled as follows:

a/ Within 12 months as from the date the joint-stock companies are granted the business registration certificates, if the laborers who lose their jobs as a result of the restructuring fall into the subjects enjoying the policy towards laborers who are left redundant as a result of the re-arrangement of State enterprises under the Governments Decree No. 41/2002/ND-CP of April 11, 2002, they shall be supported from the fund for support of redundant laborers.

The other laborers who also lose or terminate their jobs shall enjoy the job loss or severance allowances under the current provisions of the labor legislation and shall be supported by the fund for support of the arrangement and equitization of State enterprises.

b/ Where the laborers lose or terminate their jobs for four subsequent years, the joint-stock companies shall have to pay 50% of the total allowance amounts under the provisions of the Labor Code, the remainder shall be borne by the fund for support of the arrangement and equitization of State enterprises. Past the aforesaid time limit, the joint-stock companies shall have to pay fully the allowances to the laborers.

7. For the number of redundant laborers at the time of equitization who should be trained or retrained before they can be given new jobs in the joint-stock companies, the State shall support part of the funding for the joint-stock companies to organize training and retraining from the fund for support of the arrangement and equitization of State enterprises under the guidance of the Finance Ministry.

Chapter V

RIGHTS AND OBLIGATIONS OF SHAREHOLDERS BEING FOREIGN INVESTORS AND OF PRODUCERS AND SUPPLIERS OF RAW MATERIALS FOR ENTERPRISES ENGAGED IN PROCESSING AGRICULTURAL, FOREST AND AQUATIC PRODUCTS

Article 28.-Rights and obligations of shareholders being foreign investors

1. To be entitled to participate in managing the joint-stock companies according to the provisions of law and the joint-stock companies organization and operation charters.

2. To be entitled to pledge their share certificates in credit relations in Vietnam.

3. To be entitled to change revenues being dividends, money amounts earned from the transfer of shares in Vietnam into foreign currencies for remittance abroad after having fulfilled tax obligations according to law provisions.

Where foreign investors use their earned dividends for reinvestment in Vietnam, they shall be entitled to preferences under the provisions of the Domestic Investment Promotion Law.

4. To be entitled to participate in transactions on the Vietnamese securities market and be obliged to observe the Vietnamese Government’s stipulations on the foreign parties participation in the Vietnamese securities market after the joint-stock companies have effected their listings on the securities market.

5. To have other rights and obligations as prescribed by Vietnamese laws and the joint-stock companies organization and operation charters.

Article 29.-Rights and obligations of the producers and suppliers of raw materials for enterprises engaged in processing agricultural, forest and aquatic products

1. To be entitled to buy shares, including those at preferential prices, in the enterprises they have supplied raw materials for, with a 30% discount from the original face value of such shares. The total value of preferential shares shall not exceed 10% of the value of the State capital portions at the enterprises. Share certificates of these shares shall be the registered ones and subject to the conditionally transfer as prescribed for the transfer of the shares bought at preferential prices by the laborers in the equitized enterprises.

2. To be entitled to pledge share certificates in credit relations in Vietnam.

3. To be responsible for supplying raw materials for enterprises under the signed contracts.

4. To have other rights and obligations as prescribed by law and the joint-stock companies organization and operation charters.

Chapter VI

ORGANIZATION OF IMPLEMENTATION

Article 31.-Powers and responsibilities of the ministries, the provincial/municipal People’s Committees and the managing boards of State corporation

1. The ministers, the heads of the ministerial-level agencies, the heads of the agencies attached to the Government, the presidents of the People’s Committees of the provinces and centrally-run cities, and the managing boards of corporations 91 shall have to formulate overall schemes on the arrangement of State enterprises under their respective management, submit them to the Prime Minister for approval and be responsible for organizing their implementation. Where they fail to materialize the already approved plans, the heads of the enterprises-managing agencies must be subject to various disciplining forms according to current regulations.

2. On the basis of the State enterprise-arrangement schemes already approved by the Prime Minister:

a/ The managing boards of State corporations shall direct the formulation of plans on the equitization of their corporations member enterprises, then report them to the ministers in charge of the relevant economic and technical branches or the presidents of the provincial/municipal People’s Committees for decision.

b/ The ministers, the heads of the ministerial-level agencies, the heads of the agencies attached to the Government and the presidents of the provincial/municipal People’s Committees shall decide on the equitization of enterprises under their respective management, organize the valuation of enterprises, decide on the value of enterprises, approve the equitization plans on transforming State enterprises into joint-stock companies under the guidance of the concerned agencies. Enterprises where the State needs to hold special shares, their equitization plans must be submitted to the Prime Minister for decision.

3. The ministers, the heads of the ministerial-level agencies, the heads of the agencies attached to the Government, and the presidents of the People’s Committees of the provinces and centrally-run cities shall decide on or adjust the values of enterprises. Where the actual value of the State capital portion at an enterprise is VND 500 million or more lower than the value recorded on accounting books, the written approval of the Finance Minister must be obtained before such decision is made.

4. The dossiers on the valuation of enterprises, the plans on the equitization of State enterprises and documents on equitization, made by the ministries, the ministerial-level agencies, the agencies attached to the Government, the provincial/municipal People’s Committees and State corporations, must be sent to the Steering Committee for the Renewal and Development of Enterprises, the Finance Ministry, for monitoring, summing up and reporting to the Prime Minister.

5. The Steering Committee for the Renewal and Development of Enterprises, the Finance Ministry, shall have to assist the Prime Minister in directing, inspecting, supervising and urging the ministries, the ministerial-level agencies, the agencies attached to the Government, the provincial/municipal People’s Committees and State corporations in implementing the equitization work according to law provisions and the already approved plans on the arrangement of State enterprises.

Article 31.-Business registration of joint-stock companies

After selling out shares and holding the shareholders’ general meetings under the provisions of the Enterprise Law, the State enterprises must make business registration under the provisions of the Government’s Decree No. 02/2000/ND-CP of February 3, 2000 on business registration and operate under the Enterprise Law after they are granted the business registration certificates.

Article 32.-Management of State capital portions at joint-stock companies

1. The State capital portions at joint-stock companies shall be managed under the provisions of the Government’s Decree No. 73/2000/ND-CP of December 6, 2000 issuing the Regulation on the management of the State capital portions at other enterprises. Those who are working at State enterprises at the time of equitization and assigned to directly manage the State capital portions at the joint-stock companies shall be entitled to buy shares like other laborers in the enterprises.

2. For equitized enterprises where the State does not need to hold dominant shares or special shares, the agencies representing the owners of the State capital amounts at the joint-stock companies shall be entitled to decide on the further sale of shares under the States ownership in the joint-stock companies three years after the joint-stock companies operate under the Enterprise Law.

Article 33.-The ministries, the ministerial-level agencies, the agencies attached to the Government, and the Peoples Committees of the provinces and centrally-run cities shall have to solve problems faced by the equitized enterprises according to their assigned competence within 15 days after receiving the full dossiers thereon. For any problems fall beyond their competence, they should promptly report them to the Prime Minister for consideration and decision.

Chapter VII

IMPLEMENTATION PROVISIONS

Article 34.-This Decree replaces the Government’s Decree No. 44/1998/ND-CP of June 29, 1998 and takes effect 15 days after its signing. All previous regulations on equitization which are contrary to this Decree shall be no longer effective.

Article 35.-The Ministry of Finance, the Ministry of Labor, War Invalids and Social Affairs, the State Bank of Vietnam, the State Securities Commission, the General Administration of Land, the other ministries and agencies shall have to guide the implementation of this Decree.

Article 36.-The ministers, the heads of the ministerial-level agencies, the heads of the agencies attached to the Government, the presidents of the People’s Committees of the provinces and centrally-run cities, and the managing boards of 91 corporations shall have to implement this Decree.

 

 

ON BEHALF OF THE GOVERNMENT
PRIME MINISTER




Phan Van Khai

 

 

Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Nâng cao để xem đầy đủ bản dịch.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

Lược đồ

Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

Văn bản đã hết hiệu lực. Quý khách vui lòng tham khảo Văn bản thay thế tại mục Hiệu lực và Lược đồ.
văn bản TIẾNG ANH
Bản dịch tham khảo
Decree 64/2002/ND-CP DOC (Word)
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiếng Anh hoặc Nâng cao để tải file.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

* Lưu ý: Để đọc được văn bản tải trên Luatvietnam.vn, bạn cần cài phần mềm đọc file DOC, DOCX và phần mềm đọc file PDF.

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên

TẠI ĐÂY

văn bản cùng lĩnh vực

Thông tư 12/2024/TT-BLĐTBXH của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội sửa đổi, bổ sung 10 Thông tư hướng dẫn thực hiện quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Quỹ Đầu tư phát triển địa phương, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước, Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã và hướng dẫn quản lý lao động, tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Mua bán nợ Việt Nam

Lao động-Tiền lương, Doanh nghiệp

văn bản mới nhất