Nghị quyết 62/2007NQ-CP của Chính phủ về Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2007

thuộc tính Nghị quyết 62/2007/NQ-CP

Nghị quyết 62/2007NQ-CP của Chính phủ về Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 12 năm 2007
Cơ quan ban hành: Chính phủ
Số công báo:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Số công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Số hiệu:62/2007/NQ-CP
Ngày đăng công báo:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Ngày đăng công báo. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Loại văn bản:Nghị quyết
Người ký:Nguyễn Tấn Dũng
Ngày ban hành:26/12/2007
Ngày hết hiệu lực:Đang cập nhật
Áp dụng:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản để xem Ngày áp dụng. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Tình trạng hiệu lực:
Đã biết

Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây!

Lĩnh vực: Chính sách

TÓM TẮT VĂN BẢN

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

LuatVietnam.vn độc quyền cung cấp bản dịch chính thống Công báo tiếng Anh của Thông Tấn Xã Việt Nam.
Tình trạng hiệu lực: Đã biết

NGHỊ QUYẾT

CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 62/2007/NQ-CP NGÀY 26 THÁNG 12 NĂM 2007

PHIÊN HỌP CHÍNH PHỦ THƯỜNG KỲ THÁNG 12 NĂM 2007

 

Trong hai ngày 23 và 24 tháng 12 năm 2007, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 12 năm 2007, thảo luận và quyết nghị các vấn đề sau đây:

1. Chính phủ nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trình Báo cáo kiểm điểm sự chỉ đạo, điều hành năm 2007 và chương trình công tác năm 2008 của Chính phủ; Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Báo cáo tình hình kinh tế-xã hội tháng 12 và cả năm 2007, các giải pháp chủ yếu trong Quý I năm 2008; Bộ trưởng Bộ Công Thương trình Báo cáo tình hình thị trường trong nước tháng 12 và cả năm 2007; Bộ trưởng Bộ Tài chính trình Báo cáo về công tác điều hành giá cả năm 2007 và định hướng điều hành giá cả năm 2008; Bộ trưởng Bộ Nội vụ trình Báo cáo về công tác cải cách hành chính năm 2007 và nhiệm vụ trọng tâm năm 2008; Tổng Thanh tra trình Báo cáo tình hình thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng năm 2007.

Năm 2007, bên cạnh những thời cơ và thuận lợi mới, nước ta phải đương đầu với nhiều khó khăn: giá cả nhiều loại vật tư, hàng hóa thị trường thế giới tăng cao; hạn hán, bão lũ xảy ra liên tục; dịch bệnh ở người, cây trồng, vật nuôi diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân. Trong bối cảnh đó, Chính phủ đã bám sát các nghị quyết của Đảng và Quốc hội, quy định của pháp luật và Quy chế làm việc, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ để chỉ đạo, điều hành khẩn trương, nhạy bén, đồng bộ trên tất cả các mặt công tác; xử lý kịp thời, có hiệu quả các tình huống đột xuất, bất ngờ; tạo được chuyển biến tốt trong phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Trong chỉ đạo điều hành, tập thể Chính phủ đoàn kết, nhất trí, thực hiện tốt quan hệ phối hợp, tăng cường kiểm tra, giám sát với tinh thần tận tâm, tận lực vì sự nghiệp của đất nước, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân để đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ theo chương trình công tác đã đề ra.

Nền kinh tế đất nước tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng cao. Hầu hết các chỉ tiêu kinh tế-xã hội chủ yếu đều đạt và vượt mức Quốc hội đề ra; cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực, các cân đối lớn được bảo đảm; thương mại trong nước và dịch vụ tiếp tục phát triển, xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Các lĩnh vực khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường, giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa, thông tin, thể dục thể thao, dạy nghề, giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo và các lĩnh vực xã hội khác đều có chuyển biến theo chiều hướng tích cực; đời sống nhân dân được cải thiện. Cải cách hành chính được đẩy mạnh theo hướng công khai, minh bạch và đơn giản hóa thủ tục. Phòng, chống tham nhũng có chuyển biến tích cực, đạt được kết quả quan trọng bước đầu, được nhân dân đồng tình. Quốc phòng, an ninh được giữ vững, chính trị xã hội ổn định. Công tác đối ngoại và kinh tế đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế-xã hội được triển khai đồng bộ, thực hiện tốt các cam kết theo lộ trình gia nhập WTO và các bước chuẩn bị thực hiện vai trò Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Những thành tựu trên đã góp phần tạo thế và lực mới cho việc thực hiện nhiệm vụ năm 2008 và các năm tiếp theo, tăng lòng tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới đất nước.

Bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được của năm 2007, nước ta vẫn tiềm ẩn nhiều khó khăn, thách thức. Sự phát triển kinh tế, xã hội vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội có được; nền kinh tế còn nhỏ bé, trình độ, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh còn hạn chế trong điều kiện toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng. Trong khi đó, năng lực chỉ đạo điều hành còn bất cập, nhất là năng lực nắm bắt, dự báo tình hình chưa sát với diễn biến thị trường; một số lĩnh vực điều hành còn chậm, lúng túng, kém hiệu quả. Chất lượng, hiệu quả tăng trưởng kinh tế còn thấp, kém bền vững; chỉ số tăng giá, nhập siêu cao; khả năng kiểm soát dịch bệnh ở người, cây trồng, vật nuôi và phòng, chống thiên tai chưa cao; khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế còn thấp. Kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và quản lý nhà nước chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn phát triển đất nước. Cơ chế chính sách, thủ tục hành chính còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thông thoáng cho doanh nghiệp và nhà đầu tư. Sự phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương chưa thực sự thông suốt và còn kém hiệu quả. Công tác quản lý, điều hành của Chính phủ đang bộc lộ những mặt yếu kém trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Chất lượng xây dựng thể chế còn thấp, chưa phù hợp hoặc chưa đủ rõ, gây khó khăn cho quá trình thực hiện. Chất lượng quy hoạch, kế hoạch và dự báo không theo kịp với yêu cầu và tốc độ phát triển của nền kinh tế.

Năm 2008 là năm thứ ba thực hiện kế hoạch năm năm 2006-2010, quyết tâm của Chính phủ là phấn đấu hoàn thành về cơ bản một số chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch năm năm. Vì vậy, các bộ, ngành, địa phương cần quán triệt sâu sắc nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm là: Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao (phấn đấu đạt 9%), chú trọng kiểm soát kinh tế vĩ mô, nhất là tỷ lệ lạm phát theo mặt bằng giá mới, bảo đảm tốc độ tăng giá thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Cải thiện tốt hơn đời sống nhân dân, đặc biệt là các hộ nghèo, hộ chính sách, đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Phấn đấu hoành thành mục tiêu xóa đói giảm nghèo đã đề ra. Xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp nhằm khuyến khích mạnh các thành phần kinh tế trong, ngoài nước tham gia vào chủ trương xã hội hóa; tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ về huy động nguồn lực phát triển bền vững kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển y tế, giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là các thủ tục có liên quan đến người dân, doanh nghiệp và hoạt động đầu tư, xây dựng cơ bản. Tăng cường kiểm tra việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương hành chính; thực hiện nghiêm túc Quy chế làm việc và Chương trình công tác của Chính phủ; huy động lực lượng khoa học tham gia tích cực vào việc nghiên cứu, dự báo, đề xuất cơ chế chính sách của nhà nước. Tiếp tục đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng và giải quyết tốt, kịp thời những vấn đề xã hội bức xúc.

Trong Quý I năm 2008, Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương, đơn vị khẩn trương hoàn thành việc phân bổ kế hoạch và giao kế hoạch năm ngay từ những ngày đầu năm. Triển khai đồng bộ các giải pháp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, xuất khẩu. Thực hiện quyết liệt các giải pháp kiểm soát kinh tế vĩ mô, kiềm chế giá cả, cân đối cung cầu hàng hóa, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, không để khan hiếm hàng hóa dẫn đến tăng giá, sốt giá các mặt hàng thiết yếu đối với sản xuất và đời sống. Chăm lo ổn định đời sống nhân dân, nhất là nhân dân vùng bị thiên tai, hộ nghèo, gia đình chính sách, đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại; bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, nhất là trong dịp Tết Nguyên đán Mậu Tý sắp đến. Giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; phòng chống cháy nổ, nghiêm cấm đốt pháo và phát huy kết quả thực hiện Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP về một số giải pháp cấp bách kiềm chế tai nạn giao thông, ùn tắc giao thông; duy trì tốt việc bắt buộc đội mũ bảo hiểm của người tham gia giao thông bằng mô tô, xe máy.

Giao Văn phòng Chính phủ tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh Báo cáo kiểm điểm sự chỉ đạo, điều hành năm 2007 và chương trình công tác năm 2008 của Chính phủ để ban hành; Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Thanh tra Chính phủ tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, hoàn chỉnh các báo cáo có liên quan để trình Hội nghị của Chính phủ với lãnh đạo các địa phương triển khai thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2008.

2. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải trình Đề án khắc phục ùn tắc giao thông tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

Chính phủ đồng ý về cơ bản nội dung của Đề án. Giao Bộ giao thông vận tải chủ trì, tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, hoàn chỉnh Đề án và dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về một số giải pháp cấp bách từng bước khắc phục ùn tắc giao thông tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, gửi lấy ý kiến các thành viên Chính phủ, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định ban hành.

Giao Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh chủ trì, phối hợp với Bộ Giao thông vận tải, các cơ quan liên quan tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết và Đề án trên sau khi được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Giao các Bộ, ngành có liên quan chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh nghiên cứu, trình cấp có thẩm quyền ban hành chính sách đặc thù thuộc lĩnh vực có liên quan nhằm từng bước khắc phục có hiệu quả tình trạng ùn tắc giao thông tại hai thành phố.

3. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Nội vụ trình dự án Luật Công vụ; nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo tổng hợp ý kiến các thành viên Chính phủ về dự án Luật.

Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998, Pháp lệnh Cán bộ, công chức sửa đổi, bổ sung năm 2000, 2003 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức, quản lý công chức, công vụ và từng bước đổi mới cơ chế quản lý công chức, công vụ phù hợp với nền hành chính phục vụ nhân dân. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành chưa phân biệt rõ: mối quan hệ giữa hành chính với sự nghiệp, dịch vụ công; giữa hoạt động quản lý nhà nước với hoạt động sản xuất kinh doanh; chưa phân định rõ sự khác biệt về phân loại công chức nhà nước, công chức cơ sở, trình độ chuyên môn, chế độ tuyển dụng, bố trí, sử dụng, quy hoạch, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển công chức giữa cơ quan hành chính nhà nước với doanh nghiệp nhà nước, tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội. Các quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức còn gắn với chỉ tiêu biên chế, không phù hợp với yêu cầu quản lý, sử dụng lao động của nền kinh tế thị trường và thực hiện chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa.

Việc ban hành Luật Công vụ nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý, đẩy mạnh cải cách nền công vụ và khắc phục những tồn tại trên. Luật Công vụ cần phân biệt rõ các loại công chức, những đặc thù riêng về trình độ chuyên môn, quyền lợi và trách nhiệm công vụ, cách thức tuyển dụng, bố trí, sử dụng và luân chuyển công chức trong cơ quan hành chính, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công của nhà nước, tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu quản lý, sử dụng lao động của nền kinh tế thị trường và tạo thuận lợi cho việc thực hiện chủ trương đẩy mạnh xã hội hóa.

Giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với Bộ Tư pháp và Văn phòng Chính phủ phải tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, hoàn chỉnh dự án Luật Công vụ, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét.

4. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Y tế trình dự án Luật Bảo hiểm y tế, nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ báo cáo tổng hợp ý kiến các thành viên Chính phủ về dự án Luật.

Những năm qua, thực hiện chủ trương bảo hiểm y tế toàn dân, số người tham gia bảo hiểm y tế tăng nhanh cả về số lượng và loại hình; quỹ bảo hiểm y tế đã đóng góp tỷ trọng đáng kể trong tổng chi cho khám, chữa bệnh của người tham gia bảo hiểm y tế; tạo điều kiện thuận lợi cho người bệnh tiếp cận, lựa chọn cơ sở khám, chữa bệnh; thúc đẩy việc nâng cao chất lượng phục vụ của các cơ sở y tế. Tuy nhiên, phạm vi bảo hiểm y tế còn hẹp; chính sách bảo hiểm y tế tự nguyện chưa sát với thực tiễn, thiếu tính ổn định; mức đóng bảo hiểm y tế bắt buộc chậm thay đổi; quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế chưa tương ứng với mức đóng; thủ tục khám, chữa bệnh, thanh toán đối với người tham gia bảo hiểm y tế còn phiền hà; chất lượng khám, chữa bệnh theo bảo hiểm y tế chưa cao; một số nơi có hiện tượng người bệnh tham gia bảo hiểm y tế bị phân biệt đối xử.

Việc ban hành Luật Bảo hiểm y tế nhằm tạo hành lang pháp lý cho việc phát triển bảo hiểm y tế toàn dân, góp phần hình thành và phát triển mạnh mẽ hệ thống an sinh xã hội vững chắc ở nước ta. Phát triển bảo hiểm y tế toàn dân với mục tiêu từng bước đạt tới công bằng trong chăm sóc sức khỏe, thực hiện chia sẻ gánh nặng chi phí khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe giữa người khỏe mạnh với người ốm; người giàu với người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn; người trong độ tuổi lao động với trẻ em, người già. Quỹ bảo hiểm y tế phải hoạt động trên nguyên tắc lấy số đông bù số ít; bảo đảm cân đối, ổn định và bền vững quỹ.

Giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, hoàn chỉnh dự án Luật Bảo hiểm y tế, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc đưa ra thảo luận tại phên họp Chính phủ trong thời gian sắp tới./.

 

TM. CHÍNH PHỦ

   THỦ TƯỚNG

Nguyễn Tấn Dũng

 

Để được hỗ trợ dịch thuật văn bản này, Quý khách vui lòng nhấp vào nút dưới đây:

*Lưu ý: Chỉ hỗ trợ dịch thuật cho tài khoản gói Tiếng Anh hoặc Nâng cao

Lược đồ

Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.

Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây

Văn bản này chưa có chỉ dẫn thay đổi
* Lưu ý: Để đọc được văn bản tải trên Luatvietnam.vn, bạn cần cài phần mềm đọc file DOC, DOCX và phần mềm đọc file PDF.

Để được giải đáp thắc mắc, vui lòng gọi

19006192

Theo dõi LuatVietnam trên

TẠI ĐÂY

văn bản cùng lĩnh vực

Quyết định 2612/QĐ-BKHĐT của Bộ Kế hoạch và Đầu tư sửa đổi, bổ sung Quyết định 2010/QĐ-BKHĐT ngày 29/8/2024 ban hành Kế hoạch hành động của Bộ kế hoạch và đầu tư thực hiện Nghị quyết 111/NQ-CP ngày 22/7/2024 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Chính sách

Quyết định 2633/QĐ-BTC của Bộ Tài chính ban hành Kế hoạch hành động của Bộ Tài chính thực hiện Nghị quyết 111/NQ-CP ngày 22/7/2024 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Tài chính-Ngân hàng, Chính sách

văn bản mới nhất

Quyết định 3514/QĐ-BYT của Bộ Y tế bãi bỏ Quyết định 5086/QĐ-BYT ngày 04/11/2021 của Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành Danh mục dùng chung mã hãng sản xuất vật tư y tế (Đợt 1) và nguyên tắc mã hóa vật tư y tế phục vụ quản lý và giám định, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế và Quyết định 2807/QĐ-BYT ngày 13/10/2022 của Bộ trưởng Bộ Y tế sửa đổi, bổ sung Quyết định 5086/QĐ-BYT

Y tế-Sức khỏe