Nghị quyết về tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
thuộc tính Nghị quyết 50-HĐBT
Cơ quan ban hành: | Hội đồng Bộ trưởng |
Số công báo: | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 50-HĐBT |
Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Nghị quyết |
Người ký: | Tố Hữu |
Ngày ban hành: | 17/05/1983 |
Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | Đang cập nhật |
Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Lĩnh vực: |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Nghị quyết 50-HĐBT
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 50-HĐBT NGÀY 17-5-1983
VỀ TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC XÂY DỰNG HUYỆN VÀ
TĂNG CƯỜNG CẤP HUYỆN
Thi hành các nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IV và lần thứ V của Đảng, trong những năm qua các ngành, các cấp đã làm được nhiều việc trong công tác xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện. Những cố gắng của các ngành, các cấp trong việc thực hiện nhiệm vụ có tính chiến lược này tuy chưa đáp ứng yêu cầu nhưng đã bước đầu đem lại sự chuyển biến trong tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở một số địa phương. Thực tiễn ngày càng chứng minh chủ trương xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện là rất đúng đắn, đồng thời cũng làm sáng tỏ thêm nội dung cụ thể của công tác này ở những vùng khác nhau của đất nước.
Bên cạnh những kết quả bước đầu, trong công tác xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện còn có những thiếu sót cần khắc phục:
Chất lượng quy hoạch huyện còn thấp, chưa thể hiện đầy đủ tính chất một quy hoạch kinh tế - xã hội, chưa phát huy thế mạnh của địa phương; chưa gắn chặt nông, lâm, ngư nghiệp với công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng; chưa gắn sản xuất với phân phối lưu thông, tổ chức đời sống dân cư về vật chất và văn hoá.
Công tác kế hoạch hoá ở huyện chưa được cải tiến, nhiều chính sách khuyến khích huyện mở rộng sản xuất, kinh doanh chưa được ban hành, bộ máy huyện chưa được phù hợp khiến cho huyện thiếu chủ động phát huy tiềm lực lao động và đất đai, còn nặng tư tưởng ỷ lại, trông chờ các điều kiện vật chất từ cấp trên giao xuống, chưa biết tự mình tìm ra các nguồn để tự cân đối các nhu cầu.
Việc phân cấp quản lý cho huyện chưa được thực hiện tốt, nhiều nơi làm hình thức, không đồng bộ.
Việc tăng cường bộ máy tổ chức và cán bộ cho huyện chưa đáp ứng yêu cầu. Các mối quan hệ giữa huyện với tỉnh và các ngành kinh tế kỹ thuật chưa thật phù hợp với vị trí chức năng của cấp huyện.
Nhìn chung nhận thức, quan điểm về xây dựng huyện của các ngành, các cấp chưa thật sâu sắc nên có ảnh hưởng đến việc chỉ đạo thực hiện công tác này.
Thi hành nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, V, nghị quyết của Ban chấp hành trung ương lần thứ ba (khoá 5), các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước đã ban hành về công tác xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện, Hội đồng bộ trưởng chủ trương tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện, coi đó là một trong những nhiệm vụ chủ yếu nhằm thúc đẩy sự lớn mạnh của các ngành, các địa phương và của toàn bộ nền kinh tế, tạo cơ sở thực hiện tốt kế hoạch kinh tế, xã hội năm 1983 và mục tiêu phấn đấu đến 1985 của Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Các ngành, các cấp phải nắm vững nội dung chủ yếu của công tác xây dựng huyện và phát huy quyền làm chủ tập thể của huyện và đơn vị cơ sở, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, lấy cách mạng khoa học kỹ thuật làm then chốt, thực hiện tổ chức lại sản xuất, phân bố lại lao động, xây dựng cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp huyện, làm cho huyện tự đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của đời sống nhân dân và làm nghĩa vụ đối với Nhà nước. Đi đôi với phát triển kinh tế, phải phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế, thể dục thể thao..., tổ chức tốt đời sống vật chất và văn hoá, xây dựng nông thôn mới, xây dựng con người lao động mới, bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội.
Phải quán triệt quan điểm huyện là địa bàn quan trọng để tổ chức lại sản xuất, phân công lại lao động và đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Kinh tế huyện gồm các cơ sở thuộc nhiều ngành sản xuất, nhiều thành phần (quốc doanh, hợp tác xã, cá thể) là bộ phận hợp thành kinh tế của tỉnh, thành, nằm trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất và phải đặt dưới sự chỉ đạo và quản lý của Nhà nước
Trong ba năm tới (1983 - 1985), các ngành, các cấp ngành chỉ đạo thực hiện tốt những công tác quan trọng sau đây.
Các cơ quan quản lý ngành ở tỉnh và trung ương phải hướng dẫn quy hoạch phát triển ngành mình trên địa bàn huyện, phù hợp với từng loại hình huyện và theo phương châm trung ương và địa phương cùng làm, Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Tỉnh phải chỉ đạo huyện thực hiện việc xây dựng hoặc bổ sung, hoàn chỉnh quy hoạch của xã, thị trấn, hợp tác xã và các cơ sở sản xuất khác của huyện.
Các tỉnh phải dựa theo cơ cấu kinh tế và trình độ phát triển mà phân loại hình huyện nhằm mục đích xác định đúng phương hướng đầu tư và đối tượng đầu tư thích hợp, sớm tạo nên thế phát triển đồng đều giữa các huyện, song cần tập trung trước hết vào những vùng trọng điểm có tiềm lực về kinh tế hàng hoá, đặc biệt là những huyện trọng điểm về lương thực, thực phẩm và cây công nghiệp, về sản phẩm xuất khẩu.
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước có trách nhiệm hướng dẫn về nội dung và phương pháp tính các cân đối, về tổ chức xây dựng kế hoạch từ cơ sở.
Để bảo đảm hiệu lực thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch cấp trên giao, phải sử dụng tốt hệ thống đòn bẩy kinh tế, đặc biệt phải mở rộng thực hiện chế độ ký kết hợp đồng kinh tế.
Trước hết cần sử dụng có hiệu quả những cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, tính toán kỹ hiệu quả kinh tế khi xây dựng các cơ sở mới, ưu tiên tập trung vào những công trình trực tiếp phục vụ cho sản xuất như hệ thống thuỷ nông; các trạm, trại giống cây trồng và con nuôi, thú y, bảo vệ thực vật; cơ sở chế biến nông, lâm thuỷ sản, chế biến thức ăn gia súc; trạm máy kéo, cơ sở sửa chữa và sản xuất các loại công cụ cho nông, lâm, ngư nghiệp; mạng lưới giao thông vận thải thuỷ, bộ; cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng; các kho tàng và cửa hàng thương nghiệp xã hội chủ nghĩa (bao gồm cửa hàng cung ứng vật tư, thương nghiệp quốc doanh, hợp tác xã mua bán). Đặc biệt coi trọng xây dựng những cơ sở chế biến và sản xuất những mặt hàng tiểu, thủ công nghiệp phục vụ cho sản xuất, đời sống ngay trên địa bàn huyện và phục vụ xuất khẩu. Phải trên cơ sở quy hoạch đã có, quán triệt phương châm trung ương và địa phương cùng làm, Nhà nước và nhân dân cùng làm; khắc phục tư tưởng ỷ lại trông chờ ở cấp trên. Đi đôi với coi trọng việc củng cố xây dựng cơ sở quốc doanh, phải hết sức chú ý xây dựng cơ sở kinh tế tập thể. Về trang bị, chú ý kết hợp thủ công với cơ giới.
Trong khi sắp xếp, phát triển các cơ sở vật chất kỹ thuật của huyện, phải chú trọng xây dựng các cụm kinh tế - kỹ thuật ở các vùng trên địa bàn huyện, với các cơ sở vật chất kỹ thuật (trạm máy kéo, xưởng sửa chữa cơ khí, trạm thú y và bảo vệ thực vật, cơ sở chế biến thức ăn gia súc, v.v..., các cửa hàng vật tư, cửa hàng thương nghiệp, trạm thu mua, các xí nghiệp chế biến nông sản, sản xuất vật liệu xây dựng, các cơ sở giáo dục, văn hoá, y tế, thể dục thể thao...) nhằm gắn liền huyện với xã, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, sản xuất với phân phối lưu thông, kinh tế quốc doanh với kinh tế tập thể, liên kết kinh tế giữa các hợp tác xã để cùng phát triển.
Phải có kế hoạch củng cố, sắp xếp lại các cơ sở kinh tế quốc doanh và tập thể để quản lý tốt hơn và đạt hiệu quả kinh tế cao.
Trong năm 1983, các tỉnh phải làm xong việc phân cấp cho huyện quản lý các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ trên địa bàn huyện; nơi chưa đủ điều kiện thì phải chuẩn bị và phân cấp từng bước.
Cùng với sự phát triển lực lượng kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, phát triển mạnh kinh tế gia đình (bao gồm cả chăn nuôi, trồng trọt, nghề rừng, nghề cá, tiểu, thủ công nghiệp, vận tải...) đưa kinh tế gia đình trở thành một bộ phận hỗ trợ của kinh tế hợp tác xã, có sự giúp đỡ hướng dẫn của hợp tác xã và gắn với kinh tế quốc doanh trên những mặt hàng cần thiết.
Giữa các huyện miền núi, trung du và các huyện miền xuôi, có thể hợp tác lao động nhằm đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp, xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật của địa phương.
Huyện có trách nhiệm thống nhất tổ chức việc thu mua các hàng hoá nông, lâm, thuỷ sản (trừ các vùng nông nghiệp chuyên canh tập trung, vùng trọng điểm nghề cá đã giao cho các xí nghiệp chế biến trực tiếp thu mua) và chấp hành nghiêm chỉnh các chỉ tiêu kế hoạch giao nộp các sản phẩm nói trên. Các cơ quan ở cấp trên có yêu cầu thu mua nông, lâm, thuỷ sản ở huyện, phải thông qua ký hợp đồng kinh tế cụ thể với cơ quan thu mua của huyện và giúp đỡ huyện thực hiện chỉ tiêu kế hoạch thu mua đã giao cho huyện. Đối với hàng bán ra, huyện được quyền chủ động bố trí kế hoạch bán theo đúng chính sách chế độ của Nhà nước quy định và chịu trách nhiệm về hiệu quả trao đổi thu mua sản phẩm hàng hoá thông qua hợp đồng kinh tế hai chiều.
Huyện có quỹ lương thực và được chủ động sử dụng quỹ lương thực của huyện để phân công lại lao động, tổ chức lại sản xuất, phát triển kinh tế... (Hội đồng Bộ trưởng sẽ có quy định cụ thể về nội dung của quỹ này).
Huyện có trách nhiệm đối với việc xây dựng thị trường xã hội chủ nghĩa của huyện trên cơ sở các quy định của Nhà nước.
Trong năm 1983, các ngành ở trung ương và tỉnh có trách nhiệm giúp các huyện xây dựng và củng cố các công ty:
- Công ty lương thực (thu mua, cung cấp, chế biến, bảo quản).
- Công ty thương nghiệp tổng hợp (cả mua và bán).
- Công ty cung ứng và thu mua vật tư, làm cả nhiệm vụ cung ứng và đại lý thu mua vật tư cho cấp trên.
Huyện nào có điều kiện có thể thành lập công ty vận tải thô sơ và cơ giới (kể cả vận tải đường bộ, đường thuỷ,...). Tuỳ theo thế mạnh và nhu cầu của sản xuất và kinh doanh, huyện có thể lập công ty chuyên làm việc thu mua hàng xuất khẩu.
Các công ty trên do Uỷ ban nhân huyện cùng các sở chủ quản quản lý, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế, có tư cách pháp nhân.
Trong việc phân cấp, cho huyện quản lý công tác phân phối lưu thông, các ngành ở trung ương và tỉnh phải tạo điều kiện cho huyện chủ động nắm được quỹ hàng hoá, sử dụng có hiệu quả cho sản xuất và đời sống. Cần giảm bớt cấp kinh doanh trung gian từ công ty cấp I xuống huyện. Các cơ quan thương nghiệp, vật tư ở huyện sau khi làm xong nhiệm vụ thu mua, giao nộp sản phẩm lên cấp trên, được phép lưu thông số hàng hoá, vật tư vượt kế hoạch ở thị trường huyện và trao đổi với các huyện khác trong tỉnh để có thêm tư liệu sản xuất (kể cả trâu, bò) và hàng tiêu dùng. Trong trường hợp cần bán những hàng thu mua của huyện vượt kế hoạch ra ngoài tỉnh, phải được sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh, và phải đưa vào kế hoạch sản xuất, phân phối lưu thông của huyện và thể hiện vào ngân sách huyện. Việc tiêu thụ hàng ra ngoài huyện đều phải chấp hành đúng chính sách, nhằm phục vụ cho kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể hoặc người sản xuất hàng hoá cho Nhà nước, không được để lọt vào tay kẻ đầu cơ trục lợi.
Các cơ quan quản lý vật tư, thương nghiệp cấp trên cần quy định tỷ lệ triết khấu hợp lý cho công ty cấp huyện, bảo đảm cho công ty cấp huyện bù đắp đủ chi phí lưu thông hợp lý và có lãi thích đáng để mở rộng kinh doanh. Tổ chức kinh doanh thương nghiệp và vật tư ở huyện phải hoạt động theo đúng các chế độ quản lý của Nhà nước, nhất là các quy định về quản lý thị trường, giá cả và phải nhằm mục đích phục vụ sản xuất, phục vụ đời sống nhân dân, tạo nguồn tích luỹ cho địa phương, hỗ trợ cho tỉnh và trung ương, chống xu hướng chạy theo cơ chế thị trường.
Về mặt tài chính, phải bảo đảm cho ngân sách huyện thật sự là kế hoạch tài chính cơ bản của chính quyền Nhà nước ở cấp huyện, là công cụ để xây dựng huyện vững mạnh. Kế hoạch tài chính đó phải trông vào nguồn lao động và tài nguyên do huyện quản lý và khai thác bằng mọi biện pháp được pháp luật cho phép. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản cho các công trình do huyện quản lý từ nay phải cân đối vào ngân sách huyện. Các tỷ lệ điều tiết các nguồn thu tài chính trên địa bàn huyện được giữ ổn định trong ba năm tới (1983-1985) và cứ mỗi kế hoạch 5 năm mới quy định tỷ lệ điều tiết một lần để khuyến khích huyện tăng nguồn thu ngân sách. Cần quy định chế độ trích để lại cho huyện một tỷ lệ thích đáng lợi nhuận của các xí nghiệp tỉnh hoặc trung ương nằm trên địa bàn huyện, các khoản thưởng về thu mua tính tỷ lệ theo giá trị hàng thu mua được để lại cho huyện để huyện kịp thời khen thưởng các đơn vị, cá nhân có thành tích và tăng cường trang bị mở rộng kinh doanh.
Để khuyên khích các huyện đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu, tạo điều kiện cho các huyện dựa vào nguồn xuất khẩu mà nhập khẩu tư liệu cần thiết, các tỉnh phải dành cho các huyện được tỉnh giao chỉ tiêu hàng xuất khẩu một tỷ lệ thích đáng trong số tiền thưởng xuất khẩu mà tỉnh được hưởng về những mặt hàng đã giao.
Mọi khoản thu, chi phải được phản ánh đẩy đủ vào ngân sách và phải chịu sự kiểm soát của ngành tài chính cấp trên.
Trong công tác đầu tư qua tín dụng ngân hàng, huyện có trách nhiệm vạch rõ phương hướng đầu tư và chỉ đạo thực hiện kế hoạch đầu tư. Kế hoạch tín dụng của ngân hàng ở huyện phải được Uỷ ban nhân dân huyện thông qua.
ở tất cả các huyện phải mở rộng hoạt động của các hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng ở nông thôn để hỗ trợ cho thương nghiệp quốc doanh trong việc mua và bán, phục vụ sản xuất, đời sống của xã viên, đấu tranh chống bóc lột, đầu cơ tích trữ.
Phải xây dựng mỗi huyện trở thành một pháo đài để giữ vững an ninh quốc phòng trong thời bình và đủ sức tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân khi có chiến tranh. Huyện phải có kế hoạch củng cố và nâng cao năng lực chiến đấu của các lực lượng vũ trang của huyện, xây dựng, rèn luyện lực lượng dân quân tự vệ và công an xã, chuẩn bị đầy đủ lực lượng dự bị để hoàn thành nhiệm vụ gọi thanh niên nhập ngũ hàng năm và động viên thời chiến. Giáo dục và bồi dưỡng nhân dân về tinh thần cảnh giác cách mạng, đoàn kết quân dân, về kiến thức quân sự cần thiết, về ý thức bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa và về chính sách hậu phương.
Quy hoạch và kế hoạch kinh tế của mỗi huyện, của từng ngành phải gắn với nhiệm vụ quốc phòng, bảo đảm sẵn sàng làm tốt nhiệm vụ hậu cần tại chỗ hoặc chuyển hướng sang kinh tế thời chiến khi cần thiết.
ở các vùng biên giới phía Bắc là nơi thường xuyên xảy ra các vụ khiêu khích, xâm lấn của bọn bành trướng Trung Quốc, huyện phải bảo đảm luôn sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới, giữ vững trật tự an ninh, đồng thời vẫn bảo đảm thực hiện tốt các nhiệm vụ sản xuất, xây dựng, phục vụ đời sống của địa phương.
Đối với công trình xây dựng, các tuyến đường, cầu cống, đường dây điện, đường điện thoại, ống dẫn dầu đi qua huyện, cần tổ chức kế hoạch bảo vệ chống các hoạt động phá hoại của địch và phần tử xấu.
Trong khi nghiên cứu cải tiến hệ thống tiền lương nói chung, cần cải tiến thang lương cán bộ huyện.
Các tỉnh, thành phố được lập Ban xây dựng huyện do đồng chí bí thư tỉnh uỷ hoặc đồng chí chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố làm trưởng ban. Ban náy đặt tại Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, ngoài các thành viên tham gia, có một phó ban và một số cán bộ chuyên trách.
Xây dựng huyện và tăng cường cấp huyện là một vấn đề lớn rất phức tạp, nhiều việc không phải chỉ làm ở cấp huyện, mà cùng một lúc phải làm ở cấp tỉnh và các ngành ở cấp trung ương. Vì vậy Hội đồng bộ trưởng yêu cầu thủ trưởng các Bộ, các ban, ngành, chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp phát huy trí tuệ tập thể thực hiện nghị quyết một cách khẩn trương, vững chắc; kịp thời đề xuất và xử lý cụ thể những vấn đề nảy sinh trong các mối quan hệ, tạo nên sự chuyển biến rõ rệt ở tất cả các huyện, nhất là những huyện quan trọng về kinh tế - quốc phòng, nhằm đạt và vượt các mục tiêu đã đề ra trong kế hoạch Nhà nước 1983 - 1985.
Lược đồ
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây