Quyết định về chính sách, biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu và tăng cường quản lý xuất nhập khẩu
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
thuộc tính Quyết định 177-HĐBT
Cơ quan ban hành: | Hội đồng Bộ trưởng |
Số công báo: | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 177-HĐBT |
Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Quyết định |
Người ký: | Tố Hữu |
Ngày ban hành: | 15/06/1985 |
Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | |
Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Lĩnh vực: |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Quyết định 177-HĐBT
QUYẾT ĐỊNH
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 177-HĐBT NGÀY 15 THÁNG 6 NĂM 1985 VỀ CHÍNH SÁCH, BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU VÀ TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ XUẤT NHẬP KHẨU
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng Bộ trưởng ngày 4-7-1981;
Căn cứ Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng trong phiên họp ngày 5-4-1985;
Để thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 và thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá V; Nghị quyết của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng số 19-NQ-TƯ ngày 17-7-1984 về quan hệ kinh tế giữa nước ta với nước ngoài; và hệ thống hoá các chính sách quản lý xuất nhập khẩu bảo đảm các nguyên tắc Nhà nước độc quyền ngoại thương, thống nhất quản lý ngoại hối;
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Ngoại thương,
QUYẾT ĐỊNH
Các kế hoạch phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, kế hoạch xuất khẩu và nhập khẩu là một bộ phận của kế hoạch phát triển kinh tế của Bộ, tỉnh, huyện, đơn vị sản xuất và phải được trình duyệt cùng với kế hoạch phát triển kinh tế.
Các kế hoạch sản xuất hàng xuất khẩu và kế hoạch thu mua hàng xuất khẩu 5 năm và hàng năm phải thể hiện bằng cả hiện vật và kim ngạch. Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước cố gắng bảo đảm cân đối đủ các điều kiện cho kế hoạch sản xuất hàng xuất khẩu như tiền vốn, vật tư, nguyên liệu, điện... và cho kế hoạch thu mua (nếu là hàng do khu vực tập thể và cá thể sản xuất); phải bố trí ít nhất 50% số ngoại tệ hoặc vật tư do xuất khẩu đem lại để tái sản xuất và thu mua hàng xuất khẩu. Đồng thời, các ngành, các cấp, các đơn vị phải cố gắng khai thác các nguồn khả năng của mình ngoài phần vật tư Nhà nước cân đối.
Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm dành vốn trong nước để ưu tiên cho vay phát triển sản xuất hàng xuất khẩu và bảo lãnh cho các địa phương và tổ chức kinh tế vay vốn nước ngoài để đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu.
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước chủ trì cùng Bộ Ngoại thương nghiên cứu trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành các quy định cụ thể.
Phần xuất khẩu của các Bộ và các tỉnh vượt chỉ tiêu pháp lệnh hoặc ngoài chỉ tiêu pháp lệnh được coi là xuất khẩu của Bộ và tỉnh. Bộ và tỉnh được trực tiếp xuất khẩu hoặc uỷ thác xuất khẩu, và được hưởng quyền sử dụng ngoại tệ theo quy định ở Điều 15 dưới đây. Trường hợp Nhà nước yêu cầu Bộ và tỉnh tập trung sản phẩm cho Trung ương xuất khẩu thì Bộ và tỉnh được hưởng quyền lợi như hàng uỷ thác xuất khẩu.
Các cơ quan cung ứng vật tư có trách nhiệm thực hiện chế độ ưu tiên cung ứng đủ số lượng, đúng quy cách, chất lượng, đúng địa điểm và thời gian, đúng giá cả Nhà nước (đối với những vật tư Nhà nước thống nhất quản lý giá) cho các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu thuộc diện ưu tiên.
Uỷ ban Khoa học và kỹ thuật Nhà nước phối hợp với Bộ Ngoại thương và các Bộ hữu quan soát xét lại hệ thống các tiêu chẩn chất lượng hàng xuất khẩu, trước tiên là những hàng xuất khẩu quan trọng, có kim ngạch lớn; trình Hội đồng Bộ trưởng ban hành quy chế quản lý chất lượng nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu.
Các Bộ, tỉnh và đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu có trách nhiệm bảo đảm sản xuất và giao nộp hàng xuất khâủ đúng tiêu chuẩn chất lượng quy định và chấp hành đúng quy chế quản lý chất lượng hàng xuất khẩu.
Giá thu mua phải bảo đảm bù đắp các chi phí vật chất và lao động theo định mức kinh tế kỹ thuật hợp lý để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao; lợi nhuận định mức được cao hơn so với sản phẩm tiêu dùng trong nước 10 - 20%.
Trên cơ sở định mức mới về lợi nhuận, xác định rõ mức chênh lệch về phẩm cấp nhằm khuyến khích mạnh sản phẩm xuất khẩu có chất lượng đạt hoặc cao hơn tiêu chuẩn quốc tế.
Uỷ ban Vật giá Nhà nước cùng với Bộ Ngoại thương, Bộ Tài chính quy định cụ thể và hướng dẫn thực hiện quy định này.
Bộ Tài chính chủ trì cùng Bộ Ngoại thương xây dựng chế độ cụ thể trình Hội đồng Bộ trưởng.
Về thưởng bằng tiền Việt Nam.
Các đơn vị sản xuất tập thể (hợp tác xã, tổ hợp và tập đoàn sản xuất) hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước về sản xuất và giao hàng xuất khẩu được thưởng tiền (tiền Việt Nam) bằng từ 4 đến 5% giá trị hơp đồng (trừ giá trị vật tư Nhà nước cung ứng cho sản xuất).
Về thưởng quyền sử dụng ngoại tệ.
Các đơn vị quốc doanh Trung ương và địa phương hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước về sản xuất và giao hàng xuất khẩu, thực hiện đầy đủ hợp đồng giao hàng xuất cho Trung ương được sử dụng 10% ngoại tệ thực thu, sau khi tính trừ khoản ngoại tệ để chi nhập khẩu vật tư, nguyên liệu trực tiếp cho đơn vị làm hàng xuất khẩu. Hàng hoá xuất khẩu sang khu vực thị trường nào thì được thưởng quyền sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá của khu vực thị trường đó.
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Ngoại thương, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm hướng dẫn cụ thể việc thực hiện quy định này.
Các tỉnh miền núi phía Bắc, các tỉnh Tây Nguyên, các huyện miền núi của các địa phương khác được miễn kết hối phần ngoại tệ cho Trung ương trong 5 năm kể từ khi bắt đầu có sản phẩm xuất khẩu. Các tỉnh, huyện có nhiều khó khăn về kinh tế và đời sống cũng có thể được Hội đồng Bộ trưởng xét giảm hoặc miễn kết hối phần ngoại tệ cho Trung ương trong một thời gian nhất định tuỳ tình hình cụ thể của từng địa phương.
Nếu Bộ, tỉnh không bảo đảm nghĩa vụ giao nộp sản phẩm xuất khẩu theo chỉ tiêu pháp lệnh hoặc không kết hối đủ ngoại tệ thì Ngân hàng Ngoại thương được phép trích tài khoản ngoại tệ tự có của Bộ, tỉnh nộp vào quỹ ngoại tệ của Trung ương; nếu không đủ thì năm sau phải bù cho đủ. Sau hai năm không bù đủ thì không được phép tiếp tục trực tiếp xuất nhập khẩu.
Nếu các tổ chức xuất khập khẩu trung ương vay ngoại tệ của Ngân hàng Ngoại thương hoặc của nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu thì sau khi hoàn trả vốn và lãi, được sử dụng 70% số ngoại tệ thu được.
Các tổ chức xuất khập khẩu gửi vốn ngoại tệ thuộc quyền sử dụng của mình vào tài khoản riêng tại Ngân hàng Ngoại thương và được sử dụng vốn ấy vào mục đích mở rộng kinh doanh xuất khập khẩu.
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Ngoại thương quy định mức bán thưởng cụ thể cho từng mặt hàng theo nhu cầu đầu tư phát triển sản xuất của từng ngành và địa phương và hướng khuyến khích của Nhà nước.
Bộ và Uỷ ban nhân dân tỉnh căn cứ vào tỷ lệ vật tư bán thưởng cho từng mặt hàng xuất khẩu và nhu cầu đầu tư phát triển nguồn hàng xuất khẩu, quyết định phân phối một phần vật tư bán thưởng đó cho xí nghiệp, công ty, hoặc cho huyện và xã cung ứng hàng xuất khẩu.
- Các tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu trục tiếp thuộc Bộ hoặc Uỷ ban Nhân dân tỉnh, được cấp có thẩm quyền (theo quy định của Hội đồng Bộ trưởng) quyết định thành lập và cho phép trực tiếp kinh doanh xuất khập khẩu với thị trường bên ngoài.
- Các liên hiệp xí nghiệp hoặc xí nghiệp lớn do Bộ chủ quản cùng Bộ Ngoại thương đề nghị, được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cho phép trực tiếp xuất khập khẩu.
Nghiêm cấm các tổ chức quốc doanh tuỳ tiện nâng giá thu mua hoặc dùng các biện pháp khác để tranh nhau mua hàng xuất khẩu. Nghiêm cấm tư thương cạnh tranh mua hàng xuất khẩu với các tổ chức quốc doanh;
Cấm các tổ chức kinh doanh xuất khập khẩu của tỉnh, thành phố này tổ chức việc mua hàng xuất khẩu ở tỉnh, thành phố khác, trừ trường hợp được Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố sở tại cho phép.
Bộ Ngoại thương trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định các hình thức liên kết, liên doanh thích hợp, tổ chức việc tập trung đầu mối xuất nhập khẩu một số mặt hàng xuất khẩu nhập khẩu chính để rút kinh nghiệm; trên cơ sở đó ban hành danh mục các mặt hàng hoặc nhóm hàng xuất khẩu, nhập khẩu cần thống nhất việc kinh doanh xuất nhập khẩu vào một đầu mối trong cả nước.
Bộ trưởng các Bộ, Chủ nhiệm các Uỷ ban Nhà nước, Thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng và Chủ tịch Uỷ ban Nhân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương có trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Lược đồ
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây