Nghị quyết về chủ trương, phương hướng và biện pháp giải quyết việc làm trong các năm tới
- Tổng hợp lại tất cả các quy định pháp luật còn hiệu lực áp dụng từ văn bản gốc và các văn bản sửa đổi, bổ sung, đính chính…
- Khách hàng chỉ cần xem Nội dung MIX, có thể nắm bắt toàn bộ quy định pháp luật hiện hành còn áp dụng, cho dù văn bản gốc đã qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung.
thuộc tính Nghị quyết 120-HĐBT
Cơ quan ban hành: | Hội đồng Bộ trưởng |
Số công báo: | Đang cập nhật |
Số hiệu: | 120-HĐBT |
Ngày đăng công báo: | Đang cập nhật |
Loại văn bản: | Nghị quyết |
Người ký: | Phan Văn Khải |
Ngày ban hành: | 11/04/1992 |
Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | Đang cập nhật |
Tình trạng hiệu lực: | Đã biết Vui lòng đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Tình trạng hiệu lực. Nếu chưa có tài khoản Quý khách đăng ký tại đây! |
Lĩnh vực: |
TÓM TẮT VĂN BẢN
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
tải Nghị quyết 120-HĐBT
NGHỊ QUYẾT
CUẢ HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 120-HĐBT NGÀY 11-4-1992 VỀ CHỦ TRƯƠNG, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRONG CÁC NĂM TỚI
Trong mấy năm vừa qua do đổi mới cơ chế quản lý, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi và nhân tố mới đa dạng để các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở, các tổ chức xã hội và toàn dân chủ động tạo chỗ làm việc mới, đã giải quyết được một bước yêu cầu về việc làm và đời sống của người lao động, góp phần ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, do dân số nước ta tăng nhanh, hàng năm có trên một triệu người đến tuổi lao động cần việc làm, đồng thời một số không nhỏ lao động dôi thừa do sắp xếp lại tổ chức sản xuất và bộ máy trong khu vực Nhà nước, bộ đội xuất ngũ, học sinh tốt nghiệp các trường chuyên nghiệp và dạy nghề, lao động đi làm việc ở nước ngoài trở về... đang có nhu cầu bố trí việc làm, dẫn đến sức ép về việc làm ngày càng tăng và bức bách hơn.
Xuất phát từ tầm quan trọng và tính bức xúc của vấn đề giải quyết việc làm đối với các mặt đời sống kinh tế - xã hội, xuất phát từ nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của người lao động, Hội đồng Bộ trưởng quyết định một số chủ trương, phương hướng và các biện pháp giải quyết sau đây:
Uỷ ban nhân dân địa phương và Bộ chủ quản cần tổ chức đánh giá tình hình sử dụng đất đai của từng nông, lâm trường; có kế hoạch chuyển giao cho các hộ gia đình hoặc đưa dân từ nơi khác đến sử dụng phần đất chưa được sử dụng. Các Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm, Lâm nghiệp phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và các Bộ, Ngành liên quan sớm trình Hội đồng Bộ trưởng tổ chức hội nghị toàn quốc để tổng kết, rút kinh nghiệm và phổ biến các cơ chế, chính sách và các mô hình hoạt động có hiệu quả của các nông, lâm trường quốc doanh.
+ Vùng đồng bằng đông dân ít đất (đặc biệt là đồng bằng Sông Hồng) chủ yếu là phát triển kinh tế hộ gia đình, thu hút lao động vào thâm canh, nâng hệ số sử dụng đất lên trên 2 vòng năm, tận dụng các mảnh đất trũng, đất sình lầy, gò đồi cải tạo thành đất nông nghiệp để tạo thêm việc làm tại chỗ, phát triển chăn nuôi (nhất là chăn nuôi cho xuất khẩu), phát triển ngành nghề ở nông thôn, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ sinh học để nuôi trồng đặc sản xuất khẩu có giá trị cao.
+ Vùng núi trung du phía Bắc, Tây Nguyên, miền Đông nam Bộ, ven biển có tiềm năng lớn nhưng điều kiện khó khăn, thông qua các dự án khai hoang, lấn biển, trồng rừng, di dân, định canh định cư đồng bào dân tộc ít người.
+ Vùng đồng bằng sông Cửu Long thông qua các chương trình phối hợp khai thác tiềm năng các vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên, tây Sông Hậu, bán đảo Cà Mâu.
+ Chương trình đào tạo, đào tạo lại và dạy nghề gắn với dịch vụ việc làm (giới thiệu, tư vấn, cung ứng lao động...) thông qua các dự án phát triển các trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc làm, trung tâm áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ ở một số địa phương và thành phố lớn, ở các tổ chức xã hội (Đoàn thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân...).
+ Chương trình kết hợp việc chữa bệnh, giáo dục với dạy nghề và tạo việc làm cho các đối tượng tệ nạn xã hội (xì ke, ma tuý, lang thang bụi đời, gái mãi dâm...) thông qua các dự án phát triển các trung tâm xã hội.
+ Chương trình giải quyết việc làm cho người lao động ở nước ngoài trở về, đồng thời tiếp tục tìm và mở rộng thị trường đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Quỹ được sử dụng trên nguyên tắc bảo tồn và tăng lên; trước hết, cho vay với lãi suất nâng đỡ hoặc bảo tồn giá trị cho vay đối với hộ tư nhân, hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp tạo được chỗ làm việc mới hoặc thu hút thêm lao động; trợ giúp cho các chương trình, dự án tạo việc làm; các trung tâm dạy nghề và dịch vụ việc làm; trung tâm áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ sử dụng nhiều lao động. Hàng năm Bộ Lao động - Thương binh và xã hội cùng Bộ Tài chính, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước tính toán nguồn quỹ trình Hội đồng Bộ trưởng quyết định.
Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổ chức nghiên cứu và trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quyết định trong quý II năm 1992.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo xây dựng quy chế dạy nghề và dịch vụ việc làm, hướng dẫn và chỉ đạo hệ thống các trung tâm này, đồng thời tăng cường liên kết với các trường đào tạo và dạy nghề để sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất hiện có và bảo đảm chất lượng dạy nghề; mở rộng quan hệ và tham gia vào các tổ chức lao động, xã hội quốc tế và khu vực để phát triển công tác quản lý lao động và các vấn đề xã hội.
Lược đồ
Vui lòng Đăng nhập tài khoản gói Tiêu chuẩn hoặc Nâng cao để xem Lược đồ.
Chưa có tài khoản? Đăng ký tại đây