Bản án số 46/2025/DS-PT ngày 14/03/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 46/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 46/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 46/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 46/2025/DS-PT ngày 14/03/2025 của TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu |
Số hiệu: | 46/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 14/03/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chấp nhận yêu cầu của người nhận chuyển nhượng đất. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 46/2025/DS-PT
Ngày: 14-3-2025
V/v “Tr/c hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Đào Thị Huệ
Các Thẩm phán: Ông Trịnh Hoàng Anh
Bà Bùi Thị Thương
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Vũ Vân Thủy – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bà
Rịa – Vũng Tàu.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu: Bà Bùi Thị
Doan – Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Trong các ngày 07-3 và 14-3-2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 250/2024/TLPT-DS
ngày 06 tháng 11 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 66/2024/DS-ST ngày 20-6-2024 của Tòa án nhân
dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bị kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án
ra xét xử số 07/2025/QĐ-PT ngày 13-01-2025, Quyết định hoãn phiên tòa phúc thẩm
số 19/2025/QĐ-PT ngày 10-02-2025, Quyết định thay đổi Thẩm phán tham gia Hội
đồng xét xử số 39/QĐ-TA ngày 07-3-2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị K, sinh năm 1992; Địa chỉ Khu phố A, phường
L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1988; Địa chỉ Số E
N, phường L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu – theo Giấy ủy quyền số 01802
ngày 11-9-2020 (có mặt).
2. Bị đơn: Bà Huỳnh Thị L, sinh năm 1940; Địa chỉ Thôn C, xã L, thành phố
V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu (vắng mặt).
2
Người đại diện hợp pháp: Ông Phạm Ngọc T1, sinh năm 1984; Địa chỉ Số F
đường số B, phường L, thành phố T, thành phố Hồ Chí Minh – theo Giấy ủy quyền
số 08441 ngày 10-8-2020 (có mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Văn phòng công chứng L1 (nay là
Văn phòng công chứng N); Địa chỉ Số A đường N, thị trấn L, tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu (vắng mặt).
4. Người kháng cáo: Bà Huỳnh Thị L – là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn phản tố và các lời khai tại Toà án, nguyên đơn là bà Nguyễn
Thị K thông qua người đại diện hợp pháp là ông Nguyễn Văn T trình bày:
Ngày 08-8-2016, bà Huỳnh Thị L và bà Nguyễn Thị K thỏa thuận bà L chuyển
nhượng cho bà K quyền sử dụng đất 6.403m
2
thuộc các thửa đất số 10, 12, 13, 30,
31, 32, 50, 51, 52, 108, 109, 812 tờ bản đồ số 25 tại thôn C, xã L, thành phố V, tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu. Giá chuyển nhượng là 700.000.000đ (Bảy trăm triệu đồng). Hai
bên có lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (gọi tắt là HĐCNQSDĐ) số
1082 do Văn phòng công chứng L1, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu công chứng ngày 08-8-
2016.
Quá trình thực hiện hợp đồng, bà K đã thanh toán đủ số tiền 700.000.000đ
(Bảy trăm triệu đồng) theo “Giấy xác nhận nhận tiền mua bán đất” ngày 08-8-2016,
có chữ ký của bà Huỳnh Thị L, có sự xác nhận làm chứng của con gái bà L là bà Lê
Thị Bé T2. Đồng thời, bà L có viết giấy xác nhận với nội dung bà L xác nhận đã
chuyển nhượng đất cho bà K, đã nhận đủ số tiền chuyển nhượng, đã bàn giao đất và
các giấy tờ có liên quan cho bà K.
Tại đơn phản tố đề ngày 28-12-2020, bà Nguyễn Thị K yêu cầu bà Huỳnh Thị
L phải giao trả diện tích đất 6.403m
2
nêu trên và toàn bộ công trình, vật kiến trúc có
trên đất cho bà Nguyễn Thị Kiều .
Tại đơn phản tố bổ sung nộp ngày 25-4-2022, bà K yêu cầu công nhận
HĐCNQSDĐ số 1082 do Văn phòng công chứng L1, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu công
chứng ngày 08-8-2016 được ký kết giữa bà Huỳnh Thị L và bà Nguyễn Thị K có
hiệu lực pháp luật, đồng thời công nhận quyền sử dụng diện tích đất chuyển nhượng
6.403m
2
cho bà Nguyễn Thị K.
Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị K là
ông Nguyễn Văn T thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, yêu cầu công nhận cho bà
Nguyễn Thị K quyền sử dụng đất 6.113,2m
2
theo sơ đồ vị trí thửa đất do Trung tâm
Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lập ngày 10-10-2022,
có các điểm tọa độ 1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-17-18-19-20-21-22-23-
24-25-1. Đối với thửa 812 (diện tích 272m
2
, trong đó đất ở 180m
2
; đất nông nghiệp
3
92m
2
) do không xác định được vị trí cụ thể nên bà K không yêu cầu công nhận quyền
sử dụng đất đối với thửa này, tuy nhiên yêu cầu bà Huỳnh Thị L thanh toán diện tích
thửa 812 bằng giá trị theo biên bản định giá do Hội đồng định giá lập ngày 24-8-
2022.
Tuy ban đầu bà K là bị đơn có yêu cầu phản tố nhưng do nguyên đơn là bà L
cũng như người đại diện vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm 02 lần mà không có lý do
chính đáng nên bị đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện, trở thành bị đơn theo yêu
cầu phản tố của bà K và bà K trở thành nguyên đơn.
Bị đơn là bà Huỳnh Thị L và người đại diện theo ủy quyền là ông Phạm
Ngọc T1 trình bày:
Diện tích đất 6.403m
2
thuộc các thửa đất số 10, 12, 13, 30, 31, 32, 50, 51, 52,
108, 109, 812 tờ bản đồ số 25 tại thôn C, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
thuộc quyền sử dụng của bà Huỳnh Thị L theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(gọi tắt là GCNQSDĐ) số M 147658 do Ủy ban nhân dân (gọi tắt là UBND) thành
phố V cấp ngày 27-6-1998.
Bà L đã đưa GCNQSDĐ nói trên cho bà Triệu Thị Ngọc H để đi vay tiền và
mang về cho vay lại lấy tiền lãi tiêu xài hàng tháng. Bà H cam kết chỉ mượn giấy tờ
đất trong một thời gian ngắn sẽ trả lại. Do tuổi cao, không hiểu biết nên bà H yêu cầu
bà L ký một số giấy tờ thì bà L ký theo, sau này bà L mới biết đã ký HĐCNQSDĐ
số 1082 do Văn phòng công chứng L1, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chứng nhận ngày 08-
8-2016 để chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất 6.403m
2
nêu trên cho bà Nguyễn Thị
K. Tuy nhiên trên thực tế, bà L không biết bà K là ai, không giao dịch chuyển nhượng
đất với bà K và cũng không có việc bàn giao nhà đất như khi mua bán thông thường,
gia đình bà L vẫn sử dụng nhà và đất từ trước cho đến nay.
Nay, bà Huỳnh Thị L yêu cầu Tòa án giải quyết những vấn đề sau:
Tuyên HĐCNQSDĐ số 1082 ngày 08-8-2016 được ký kết giữa bà Huỳnh Thị
L và bà Nguyễn Thị K do Văn phòng công chứng L1, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu công
chứng là vô hiệu do giả tạo.
Buộc bà Nguyễn Thị K trả lại bản chính của GCNQSDĐ số M 147658 do
UBND thành phố V cấp ngày 27-6-1998 cho bà Huỳnh Thị L.
Tuy ban đầu bà L là người khởi kiện nhưng do bà L cũng như người đại diện
vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm 02 lần mà không có lý do chính đáng nên bị đình chỉ
giải quyết yêu cầu khởi kiện nêu trên và trở thành bị đơn theo yêu cầu phản tố của
bà K.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Văn phòng công chứng L1 (nay
là Văn phòng công chứng N) thông qua người đại diện hợp pháp trình bày:
Ngày 08-8-2016 Văn phòng công chứng L1 có tiếp nhận yêu cầu công chứng
4
HĐCNQSDĐ được ký kết giữa bà Huỳnh Thị L và bà Nguyễn Thị K đối với diện
tích đất 6.403m
2
thuộc các thửa đất số 10, 12, 13, 30, 31, 32, 50, 51, 52, 108, 109,
812 tờ bản đồ số 25 tại thôn C, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, có người
làm chứng là ông Lê Tấn H1. Sau khi kiểm tra các giấy tờ mà hai bên cung cấp, gồm:
Giấy chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu, giấy xác nhận tình trạng hôn nhân,
GCNQSDĐ... Văn phòng công chứng nhận thấy hồ sơ, giấy tờ hai bên yêu cầu công
chứng cung cấp hoàn toàn đầy đủ, hợp pháp nên đã tiến hành công chứng theo yêu
cầu công chứng, theo HĐCNQSDĐ số 1082, quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD ngày
08-8-2016.
Việc công chứng HĐCNQSDĐ nêu trên hoàn toàn tự nguyện, công khai, minh
bạch, đúng trình tự thủ tục đúng pháp luật, đúng ý chí và nguyện vọng của các bên
tham gia giao kết hợp đồng. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật và
Văn phòng công chứng xin được vắng mặt các buổi làm việc, xét xử tại Tòa án.
Bản án dân sự sơ thẩm số 66/2024/DS-ST ngày 20-6-2024 của Tòa án nhân
dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã tuyên xử:
Đình chỉ giải quyết toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị L đối với bà
Nguyễn Thị K.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị K đối với bà Huỳnh
Thị L về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
- Công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký kết giữa bà
Huỳnh Thị L và bà Nguyễn Thị K ngày 08-8-2016 có hiệu lực pháp luật.
- Công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 6.113,2m
2
theo sơ đồ vị trí
thửa đất do Trung tâm Kỹ thuật Tài nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
lập ngày 10-10-2022 được đánh điểm theo số thứ tự từ 1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-
13-14-15-16-17-18-19-20-21-22-23-24-25-1.
Các đương sự được quyền liên hệ với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.
- Buộc bà Huỳnh Thị L thanh toán cho bà Nguyễn Thị K giá trị tương đương
quyền sử dụng đất đối với thửa 812 với tổng số tiền là 495.000.000đ (Bốn trăm chín
mươi lăm triệu đồng).
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm trả, chi phí tố tụng, án phí
và quyền kháng cáo của các đương sự.
Kháng cáo: Ngày 22-7-2024, bị đơn là bà Huỳnh Thị L kháng cáo toàn bộ
Bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
5
- Bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
- Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu phát biểu quan
điểm về việc giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến
thời điểm xét xử thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng các
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các đương sự có mặt tại phiên tòa phúc thẩm
chấp hành tốt quy định pháp luật tố tụng.
Về nội dung vụ án:
Ngày 08-8-2016, tại Văn phòng công chứng L1, bà Huỳnh Thị L đã lập
HĐCNQSDĐ số 1082 cho bà Nguyễn Thị K. Ngoài sự thừa nhận của bà Triệu Thị
Ngọc H thì bà L không cung cấp được chứng cứ để chứng minh việc ký HĐCNQSDĐ
chỉ nhằm mục đích đảm bảo cho bà H vay 700.000.000 đồng. Bà K đưa ra các chứng
cứ đều có chữ ký xác nhận của bà L và thể hiện quá trình chuyển nhượng đất như bà
K trình bày. Đối với lý do hai bên lập “Hợp đồng ủy quyền” ngày 20-10-2017, bà K
cho rằng do toàn bộ diện tích đất nói trên đã có quyết định thu hồi nên cơ quan có
thẩm quyền không làm thủ tục đăng ký biến động sang tên cho bà K, điều này hoàn
toàn phù hợp với Quyết định về việc thu hồi đất số 01/QĐ-UBND ngày 05-01-2009
của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Hơn nữa, khi làm việc với Cơ quan cảnh sát
điều tra Công an thành phố V, bà L xác nhận trước khi ký có được Công chứng viên
đọc toàn bộ nội dung hợp đồng và biết nội dung hợp đồng là sang nhượng đất nhưng
vẫn đồng ý ký. Vì vậy, căn cứ quy định pháp luật, HĐCNQSDĐ nói trên có hiệu lực
đối với quyền sử dụng 6.113,2m² đất thuộc các thửa 10, 12, 13, 30, 31, 32, 50, 51,
52, 108, 109, tờ bản đồ 25, xã L, thành phố V.
Đối với thửa 812, tờ bản đồ 25, diện tích ký chuyển nhượng cho bà K là 272m².
Nay các đương sự không xác định được và cũng không có căn cứ để xác định diện
tích còn lại của thửa 812 nằm ở vị trí nào trên thực địa. Do đó, đề nghị Hội đồng xét
xử tuyên vô hiệu đối với nội dung chuyển nhượng thửa 812 của HĐCNQSDĐ nói
trên. Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bà K yêu cầu bà L
trả 250.000.000 đồng tương ứng với giá trị quyền sử dụng đất thửa 812 là có lợi hơn
cho bà L nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.
Vì lẽ trên, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Huỳnh
Thị L, ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị K, sửa Bản án sơ thẩm như đã phân
tích ở trên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
6
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận
định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về tư cách tham gia tố tụng: Do nguyên đơn và người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa xét xử sơ thẩm mà không
có lý do chính đáng, do đó Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ
luật Tố tụng dân sự, đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là
có cơ sở. Bị đơn giữ nguyên yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nên Tòa án cấp sơ
thẩm áp dụng Điều 245 Bộ luật Tố tụng dân sự để thay đổi địa vị tố tụng trong vụ
án, bà Nguyễn Thị K trở thành nguyên đơn, còn bà Huỳnh Thị L trở thành bị đơn là
đúng, tuy nhiên phần thông tin của nguyên đơn, bị đơn tại phần mở đầu của Bản án
sơ thẩm vẫn không thay đổi là chưa phù hợp, Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉnh sửa
lại phần này của Bản án sơ thẩm theo Điều 245 Bộ luật Tố tụng dân sự, bà K là
nguyên đơn, bà L là bị đơn.
[1.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện của bà L cho rằng cần hủy Bản
án sơ thẩm vì Tòa án không đưa người làm chứng vào tham gia tố tụng; không đồng
ý việc tách tranh chấp HĐCNQSDĐ ký giữa bà L với bà Lâm Thị Thu T3 ra khỏi vụ
án này thành vụ án khác. Hội đồng xét xử thấy rằng tất cả những người làm chứng
cũng như nội dung liên quan đến việc chuyển nhượng đất giữa bà L và bà K đã được
cơ quan công an lấy lời khai trong thời gian điều tra theo đơn yêu cầu của bà L,
những lời khai đó cũng là chứng cứ được sử dụng trong vụ án này; Việc tách vụ án
đối với tranh chấp của bà L và bà T3 ra khỏi vụ án này không vi phạm quy định pháp
luật vì bà T3 và bà K là hai chủ thể khác nhau, ký các hợp đồng khác nhau, diện tích
đất nhận chuyển nhượng cũng khác nhau. Do vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận
yêu cầu nêu trên của phía bà L.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét yêu cầu Công nhận HĐCNQSDĐ được ký kết giữa bà Huỳnh Thị L
và bà Nguyễn Thị K ngày 08-8-2016:
Diện tích đất hai bên ký HĐCNQSDĐ nêu trên là 6.403m
2
thuộc các thửa đất
số 10, 12, 13, 30, 31, 32, 50, 51, 52, 108, 109, 812 tờ bản đồ số 25, thôn C, xã L,
thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thuộc quyền sử dụng của bà Huỳnh Thị L, theo
GCNQSDĐ số M 147658 do UBND thành phố V cấp ngày 27-6-1998 (BL 306 – 307
tập 18).
HĐCNQSDĐ ngày 08-8-2016 nêu trên được lập thành văn bản, do hai bên tự
nguyện ký kết, có người làm chứng cùng ký, được công chứng chứng thực đúng quy
định pháp luật, đảm bảo về hình thức của giao dịch theo quy định tại Điều 119 Bộ
luật Dân sự (BL 123 – 125 tập 9).
7
Tại HĐCNQSDĐ ngày 08-8-2016, hai bên thỏa thuận giá chuyển nhượng cho
toàn bộ 6.403m
2
đất là 700.000.000đ (Bảy trăm triệu đồng). Quá trình tố tụng, bà K
xuất trình các chứng cứ sau đây:
- Giấy xác nhận nhận tiền mua bán đất ngày 08-8-2016, có chữ ký của bà
Huỳnh Thị L là bên nhận tiền đủ 700.000.000đ, có sự xác nhận làm chứng của con
gái bà L là chị Lê Thị Bé T2 (BL 304 tập 18).
- Giấy xác nhận đề ngày 08-8-2016, nội dung bà L sẽ giao nhà đất cho bà K
chậm nhất là ngày 15-9-2017, có chữ ký của bà L (BL 308 – 309 tập 18).
- Hợp đồng thuê nhà ngày 08-8-2016, bà L thuê nhà đất đã ký chuyển nhượng
cho bà K trong thời hạn 3 tháng, mỗi tháng 1.000.000đ, có chữ ký của hai bên (BL
305 tập 18).
- Hợp đồng ủy quyền ngày 20-10-2017, giữa bên ủy quyền là bà Huỳnh Thị L
và bên được ủy quyền là bà Nguyễn Thị K (BL 302 tập 18).
[2.2] Kết quả giám định số 20/KL-KTHS-TL ngày 17-3-2023 của Phòng kỹ
thuật Hình sự Công an tỉnh Bà Rại – Vũng Tàu kết luận chữ ký, chữ viết trong các
tài liệu trên đều là chữ ký, chữ viết của bà Huỳnh Thị L, đồng thời bà L và người đại
diện cũng xác nhận bà có ký, viết đúng như kết quả giám định (BL 312 tập 18). Bên
cạnh đó, do toàn bộ diện tích 6.403m
2
trong HĐCNQSDĐ ngày 08-8-2016 đã có
Quyết định số 01/QĐ-UBND ngày 05-01-2009 của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
về việc thu hồi đất nên bà L ký Hợp đồng ủy quyền ngày 20-10-2017 nói trên cho bà
K được toàn quyền đối với đất, bao gồm cả quyền nhận tiền đền bù giải tỏa, đồng
thời bà L đã giao toàn bộ giấy tờ pháp lý của các thửa đất cho bà K. Như vậy, không
có cơ sở để cho rằng bà L không ký HĐCNQSDĐ cho bà K.
[2.3] Bà L và bà Triệu Thị Ngọc H cho rằng bà L chỉ ký HĐCNQSDĐ ngày
08-8-2016 nhằm mục đích đảm bảo cho bà H được vay tiền của bà K, không phải là
giao dịch chuyển nhượng đất thật sự, bà H là người nhận số tiền 700.000.000đ do bà
K giao chứ không phải bà L nhận, do bà H không trả được nợ cho bà K nên bà K
kiện đòi đất của bà L (BL 244 tập 16). Tuy nhiên bà K không thừa nhận tất cả những
lời khai trên của bà L và bà H, người làm chứng là ông Trần Đắc T4 khai ông chứng
kiến bà L nhận tiền của bà K, chứng kiến việc công chứng viên đã đọc kỹ và giải
thích từng ý cho bà L và con gái trước khi ký vào HĐCNQSDĐ (BL 215 tập 12), bà
L và bà H cũng không có chứng cứ nào khác chứng minh cho những lời khai của
mình, đồng thời với những tài liệu bà L đã ký nêu trên thì Tòa án cấp sơ thẩm quyết
định không chấp nhận ý kiến của bà L mà chấp nhận một phần yêu cầu của bà K là
có căn cứ. Quyền lợi và nghĩa vụ giữa bà H và bà L, nếu có yêu cầu, sẽ được giải
quyết bằng vụ án khác.
[2.4] Đối với thửa đất 812 tờ bản đồ số 25, thôn C, xã L, thành phố V, sau khi
bà L đã chuyển nhượng và sang tên cho các con, cháu của bà và những người đó đã
8
xây 03 căn nhà, diện tích còn lại mà bà L ký hợp đồng chuyển nhượng cho bà K chỉ
còn 272m
2
, trong đó 180m
2
đất ở và 92m
2
đất nông nghiệp, người đại diện của bà K
cho rằng khi chuyển nhượng thì bà L có chỉ ranh đất và vị trí 04 căn nhà trên đất là
không đúng với quyền sử dụng đất còn lại của bà L, đồng thời nay có tranh chấp thì
bà K không xác định được ranh giới chính xác của thửa đất. Cơ quan đo vẽ đồng thời
là một trong số cơ quan quản lý đất đai tại địa phương là Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai thành phố V có Văn bản số 2697/CNVPĐK-KTĐC ngày 08-5-2024 xác
định chưa có cơ sở phát hành sơ đồ vị trí thửa 812 vì đối chiếu kết quả đo đạc theo
sự chỉ ranh của các đương sự có sự biến động, sai lệch lớn, vị trí đất thực tế sử dụng
không phù hợp với giấy chứng nhận đã được cấp (BL 365 tập 21). Như vậy, với tình
trạng trên thì thửa đất này nay không thể bàn giao, công nhận cho bà K, cần phải vô
hiệu một phần của HĐCNQSDĐ ngày 08-8-2016 đối với thửa 812 theo quy định tại
Điều 408 Bộ luật dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, phía bà K cũng đồng
ý không yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất thửa 812 mà yêu cầu được nhận lại
bằng giá trị dựa trên kết quả định giá.
[2.5] Về hậu quả của việc vô hiệu một phần hợp đồng đối với việc chuyển
nhượng thửa 812, hiện nay giá thị trường của diện tích đất thuộc thửa 812 theo kết
quả định giá của cấp sơ thẩm là 496.000.000đ. Do khi chuyển nhượng, hai bên không
có thỏa thuận giá riêng cho từng thửa đất, chỉ thỏa thuận giá chuyển nhượng toàn bộ
các thửa đất là 700.000.000đ, trong khi đó thửa đất này có phần lớn là đất ở, còn lại
các thửa đất khác đều là đất nông nghiệp nên không thể áp dụng cách tính bình quân
theo mét vuông, hai bên không tự thỏa thuận xác định giá của thửa này. Do vậy không
xác định được giá tiền gốc của thửa 812 để trừ vào trong giá đất định giá hiện nay.
Tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm, phía bà K tự nguyện chỉ nhận lại 250.000.000đ
trong tổng giá trị 496.000.000đ theo định giá. Hội đồng xét xử xét thấy việc không
thực hiện được một phần HĐCNQSDĐ ngày 08-8-2016 đối với thửa 812 có lỗi của
cả bà L và bà K do khi chuyển nhượng các bên không đo đạc nên không phát hiện
có sự khác biệt vị trí đất giữa thực tế với giấy chứng nhận đã được cấp, nay bà L
không đồng ý việc chuyển nhượng đất nên dẫn đến tranh chấp. Thiệt hại của việc vô
hiệu một phần hợp đồng là có xảy ra trên thực tế, vì giá đất hiện nay đã tăng nên cả
hai bên đều phải chịu. Xét thấy sự tự nguyện của phía bà K nêu trên là phù hợp với
thực trạng của vụ án cũng như lỗi của từng bên nên Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết
định sửa một phần Bản án sơ thẩm, trong giá trị quyền sử dụng đất thửa 812 thì bà L
phải hoàn trả cho bà K là 250.000.000đ, những thửa đất còn lại theo HĐCNQSDĐ
ngày 08-8-2016 có tổng diện tích 6.113,2m
2
công nhận quyền sử dụng cho bà K.
[2.6] Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện của bà K xác nhận bà K đang
giữ bản chính của GCNQSDĐ số M 147658 do UBND thành phố V cấp cho bà
Huỳnh Thị L ngày 27-6-1998. Do đó, khi cần thiết bà K có trách nhiệm phải giao
nộp cho cơ quan có thẩm quyền để thực hiện các thủ tục về đất đai.
9
[3] Các chi phí tố tụng:
- Chi phí giám định là 11.650.000đ, do bà L cho rằng không ký giấy tờ liên
quan trong việc chuyển nhượng đất, yêu cầu giám định và kết quả giám định xác
định các chữ ký là của bà L nên bà L phải chịu toàn bộ.
- Chi phí đo vẽ, xem xét thẩm định tại chỗ và định giá lại tại Tòa án cấp sơ
thẩm là 20.800.000đ. Yêu cầu khởi kiện của bà K không được chấp nhận một phần
đối với giá trị của thửa đất số 812 nên bà K và bà L mỗi bên phải chịu 10.400.000đ.
Tổng cộng bà L phải chịu 22.050.000đ, bà K phải chịu 10.400.000đ. Bà K đã
nộp tạm ứng là 20.000.000đ, bà L đã nộp tạm ứng là 12.450.000đ. Do đó bà L còn
phải trả cho bà K 9.600.000đ.
[4] Án phí sơ thẩm: Do sửa Bản án sơ thẩm nên án phí được tính lại cho phù
hợp; bà K phải chịu án phí 5% đối với số tiền 246.000.000đ không được chấp nhận
yêu cầu, bà K phải chịu án phí là 12.300.000đ. Bà L phải chịu án phí, tuy nhiên là
người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí nên thuộc trường hợp được miễn án phí
theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
[5] Án phí phúc thẩm: Kháng cáo của bà L được chấp nhận một phần nên bà
L không phải chịu.
Vì các lẽ trên, căn cứ khoản 2 Điều 308 B luật T tụng dân s;
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng Điều 26, 157, 158, 161, 162, 165, 166; điểm c khoản 1 Điều 217,
điểm a khoản 2 Điều 227, 245, 296, 313 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 117, 119,
408, 500 Bộ luật Dân sự; Điều 167, 168, 188 Luật Đất đai năm 2013; điểm đ
khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần nội dung kháng cáo của bị đơn là bà Huỳnh Thị L, sửa
một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 66/2024/DS-ST ngày 20-6-2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, như sau:
1. Đình chỉ giải quyết toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị L đối với
bà Nguyễn Thị K. Thay đổi tư cách tố tụng: Bà Nguyễn Thị K là nguyên đơn; bà
Huỳnh Thị L là bị đơn.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị K đối với bà
Huỳnh Thị L về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”, như
sau:
10
2.1. Công nhận hiệu lực một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất ký giữa bà Huỳnh Thị L và bà Nguyễn Thị K, số công chứng 1082, quyển số 01
TP/CC-SCC/HĐGD ngày 08-8-2016 tại Văn phòng công chứng L1 (nay là Văn
phòng công chứng N), tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đối với diện tích đất 6.113,2m
2
thuộc
các thửa đất số 10, 12, 13, 30, 31, 32, 50, 51, 52, 108, 109 tờ bản đồ số 25, thôn C,
xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
2.2. Bà Huỳnh Thị L phải giao cho bà Nguyễn Thị K diện tích đất 6.113,2m
2
đất thuộc các thửa đất số 10, 12, 13, 30, 31, 32, 50, 51, 52, 108, 109 tờ bản đồ số 25,
thôn C, xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đất có Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất số M 147658 do Ủy ban nhân dân thành phố V cấp cho bà Huỳnh Thị L
ngày 27-6-1998; vị trí đất theo các điểm 1-2-3-4-5-6-7-8-9-10-11-12-13-14-15-16-
17-18-19-20-21-22-23-24-25-1 tại Sơ đồ vị trí thửa đất do Trung tâm Kỹ thuật Tài
nguyên và Môi trường tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ký ngày 10-10-2022 kèm theo Bản
án này.
2.3. Bà Nguyễn Thị K được quyền sử dụng diện tích đất 6.113,2m
2
tại mục
2.2 nêu trên, được quản lý, sử dụng đất, được hưởng chính sách khi Nhà nước thu
hồi đất. Trường hợp diện tích đất nói trên không bị thu hồi, bà Nguyễn Thị K được
quyền liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để đăng ký biến động đất đai theo quyết
định của Bản án này và theo quy định của pháp luật. Trường hợp diện tích đất nói
trên bị thu hồi, bà Nguyễn Thị K có trách nhiệm giao nộp bản chính Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số M 147658 do Ủy ban nhân dân thành phố V cấp cho bà Huỳnh
Thị L ngày 27-6-1998 để cơ quan có thẩm quyền thực hiện các thủ tục liên quan theo
quy định pháp luật. Trường hợp bà Nguyễn Thị K không giao nộp bản chính Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên thì cơ quan có thẩm quyền thực hiện thủ tục
thu hồi, hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để thực hiện theo quyết định của
Bản án này và theo quy định của pháp luật.
3. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị K đối với
bà Huỳnh Thị L về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”,
như sau:
3.1. Vô hiệu một phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký giữa
bà Huỳnh Thị L và bà Nguyễn Thị K, số công chứng 1082, quyển số 01 TP/CC-
SCC/HĐGD ngày 08-8-2016 tại Văn phòng công chứng L1 (nay là Văn phòng công
chứng N), tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đối với thửa đất số 812 tờ bản đồ số 25, thôn C,
xã L, thành phố V, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
3.2. Bà Huỳnh Thị L phải trả cho bà Nguyễn Thị K 250.000.000đ (Hai trăm
năm mươi triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với
các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
11
bên phải thi hành án còn phải chịu mức lãi suất 10%/năm của số tiền còn phải thi
hành án, tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
4. Chi phí tố tụng gồm giám định, đo vẽ, xem xét thẩm định tại chỗ và định
giá lại là 32.450.000đ (Ba mươi hai triệu, bn trăm năm mươi ngàn đồng), bà Nguyễn
Thị K phải chịu 10.400.000đ (Mười triệu, bn trăm ngàn đồng), bà Huỳnh Thị L
phải chịu 22.050.000đ (Hai mươi hai triệu, không trăm năm mươi ngàn đồng). Bà L
còn phải trả cho bà K số tiền là 9.600.000đ (Chín triệu, sáu trăm ngàn đồng).
5. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà Nguyễn Thị K phải chịu 12.300.000đ (Mười hai triệu, ba trăm ngàn đồng)
nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên
lai thu số 0007542 ngày 29-12-2020 và 600.000đ (Sáu trăm ngàn đồng) theo Biên
lai thu số 0002231 ngày 25-4-2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà K còn phải nộp 11.400.000đ (Mười mt triệu, bn trăm ngàn
đồng).
- Bà Huỳnh Thị L được miễn án phí.
6. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Huỳnh Thị L không phải chịu.
7. Trường hợp Bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
thi hành án dân sự.
Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (14-3-2025).
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh BR-VT; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND TP. V;
- Chi cục THADS TP. V;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Đào Thị Huệ
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 12/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 08/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 07/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 06/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 05/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 25/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 24/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 23/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 22/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 21/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 17/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm