Bản án số 153/2025/DS-PT ngày 15/05/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 153/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 153/2025/DS-PT ngày 15/05/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 153/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/05/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Giải quyết thanh lý hợp đồng giao, nhận khoán vườn cà phê số 16AT.10 ngày 30/4/2004, đồng thời buộc ông Thân Trọng C phải hoàn trả lại toàn bộ quyền sử dụng đất và vườn cây cho Công ty Cổ phần cà phê P đã giao diện tích Hợp đồng giao
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 153/2025/DS-PT
Ngày 15 - 4 - 2025
V/v Tranh chấp hợp đồng giao khoán
và yêu cầu bồi thường thiệt hại
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị My My.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Duy Thuấn
Bà Nguyễn Thị Hằng
- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Hà, Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk: Ông Nguyễn Chí Hiếu -
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 15 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tán nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc
thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 96/2025/TLPT-DS ngày 20/01/2025 về việc
“Tranh chấp hợp đồng giao khoán yêu cầu bồi thường thiệt hại”. Do Bản án dân
sự thẩm số: 36/2025/DS-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk
bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xphúc thẩm số: 164/2025/QĐ-PT ngày
17/3/2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Công ty cổ phần C2; địa chỉ: K, quốc lộ B, xã E, huyện K, tỉnh
Đắk Lắk;
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Huyền T Tổng giám đốc;
Người đại diện theo ủy quyền: Nguyễn Thị Nhị H; địa chỉ: Thôn A, xã E,
huyện K, tỉnh Đắk Lắk; có mặt
2. Bị đơn: Ông Thân Trọng C; địa chỉ: Thôn E, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk;
mặt
3. Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Lương Thị Mỹ T1; địa chỉ:
Thôn E, xã C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.
4. Người kháng cáo: Ông Thân Trọng C.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện ngày đề ngày 01/03/2024, trong quá trình giải quyết vụ
án nguyên đơn trình bày:
2
Ngày 30/4/2004, Công ty C2 (Bên giao khoán) ông Thân Trọng C (Người nhận
khoán) đã ký các Hợp đồng về việc giao nhận khoán vườn phê chi tiết như sau: Hợp
đồng số 16AT.10 lô: B15, B16, B19, Đơn vị: A, Vùng A, Diện tích: 1,55 ha. Thời
hạn Hợp đồng từ ngày 30/4/2004 đến ngày 31/3/2020. Trong suốt quá trình thực hiện
Hợp đồng, hai bên đã thực hiện nghiêm túc, đúng đủ toàn bộ quyền nghĩa vtheo
thỏa thuận tại Hợp đồng nêu trên. Ngày 26/3/2020, Hội đồng quản trị Công ty đã ban
hành Nghị quyết số 06-2020/NQ-HĐQT V/v Phê duyệt chủ trương thanh gia
hạn hợp đồng giao khoán vườn Cây phê tại vùng A. Theo đó, Công ty ban hành
thông báo 202/TB-CPPA ngày 27/3/2020 có 02 nội dung: Các hộ nhận khoán đến hạn
thanh Hợp đồng, nếu không nhu cầu tiếp tục nhận khoán thì liên hệ Đội trưởng
để làm thủ tục thanh lý Hợp đồng. Đối với các hộ nhu cầu tiếp tục nhận khoán vườn
cây phê, thì Phụ lục gia hạn Hợp đồng thêm 01 năm. Tiếp theo đó, Công ty C2
thực hiện các thủ tục như mời làm việc với ông Thân Trọng C đthỏa thuận gia hạn
Hợp đồng hoặc thanh Hợp đồng. Tuy nhiên, ông C không đồng ý các phương án
công ty đưa ra và không hợp tác để thanh lý Hợp đồng.
Từ ngày 31/3/2020 đến nay ông Thân Trọng C tiếp tục quản lý, sử dụng chiếm
giữ diện tích đất nhận khoán ờn cây trên đất, để chăm sóc hưởng lợi toàn bộ
100% giá trị vườn cây giao khoán. Vì nhận thức toàn bộ vườn cây là tài sản của mình
nên Công ty vẫn tiếp tục thực hiện việc tưới nước, bón phân mặc Ông C từ chối việc
nhận phân bón đầu vào vườn cây Công ty vẫn thực hiện nghĩa vụ nộp thuế sử
dụng đất cho Nhà nước.
Suốt thời gian ktừ khi hết hạn Hợp đồng, ông Thân Trọng C không nộp sản
lượng khoán, làm ảnh hưởng đến thực hiện quyền chủ sở hữu đối với diện tích đất
giá trị vườn cây, thực hiện quyền chủ sở hữu, quyền sử dụng đối với diện tích đất
giá trị vườn cây mà Công ty C2 đã giao khoán.
Để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nay Công ty C2 đề nghị Toà án
nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk:
+ Giải quyết thanh lý hợp đồng giao, nhận khoán vườn phê số 16AT.10 ngày
30/4/2004, đồng thời buộc ông Thân Trọng C phải hoàn trả lại toàn bộ quyền sử dụng
đất vườn cây cho Công ty Cổ phần C2 đã giao diện tích Hợp đồng giao, nhận khoán
vườn phê số 16AT.10 ngày 30/4/2004 với diện tích là 1,55ha. lô B19 - Thuộc
thửa đất số 59 ( diện tích 4.787,9 m2) - tờ bản đồ số 13, B16 Thuộc thửa đất
số 41( diện tích 6.399,2m2) đã thu hồi làm điện gió 3.002,5 m2 theo quyết định số
2869/QĐ- UBND ngày 13/11/2023 của UBND huyện K, diện tích còn lại 3.396.7 m2,
Mã lô B15 diện tích 5.457,3 m2 bao gồm thuộc thửa đất số 69 ( diện tích 4.904,1m2)
+ thửa đất số 72 ( diện tích 553,2m2) - tờ bản đồ số 14 đã thu hồi làm điện gió 441,6m2
yêu cầu hoàn trả 5.015,7m2, theo giấy chứng nhận QSDĐ số CM279613 do Sở TNMT
tỉnh Đ cấp ngày 03/4/2018.
+ Về hậu quả thanh lý hợp đồng giao khoán: Công ty thống nhất với kết quả xem
xét thẩm định tại chỗ và kết quả định giá tài sản, không yêu cầu định giá lại. Về giá trị
vườn cây công ty Cổ phần C2 thống nhất giá trị vườn cây mỗi bên được hưởng 50%
giá trị theo kết quả định giá tài sản. Về giá trị cây bơ bờ lô thì chia theo tỷ lệ gia đình
3
ông C được hưởng 80% giá trị, còn công ty được hưởng 20% giá trị. Về các loại cây
trồng phát sinh trên đất do gia đình tự trồng thì gia đình ông C được hưởng 100%.
+ Về sản lượng: Buộc ông Thân Trọng C phải bồi thường toàn bộ sản lượng
phê tương ứng với sản lượng nhận khoán phải nộp cho Công ty tngày 31/03/2020
đến nay cụ thể như sau:
+ Nợ sản lượng vụ 2020 2021 8.727 kg phê quả tươi, trong đó sản lượng
khoán 11.840 kg cà phê quả tươi – 3.113 kg cà phê quả tươi đã nộp;
+ Nợ sản lượng vụ 2021 2022 9.391 kg phê quả tươi, trong đó sản lượng
khoán 11.065 kg cà phê quả tươi – 1.673 kg cà phê quả tươi là sản lượng quy từ phân
bón
+ Nợ sản lượng vụ 2022– 2023 là 5.425 kg cà phê quả tươi,
+ Nợ sản lượng vụ 2023– 2024 5.425 kg phê quả tươi. (Ông C có nộp 419
kg cà phê quả tươi đã nộp tiền tưới nước).
Tại phiên toà nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu không yêu cầu buộc ông Thân
Trọng C có nghĩa vụ thường sản lượng vụ mùa năm 2023 – 2024, với sản lượng 5.425
kg cà phê quả tươi.
Tổng cộng ông Thân Trọng C phải bồi thường thiệt hại sản lượng cho công ty là
23.124 kg cà phê quả tươi.
+ Nợ tiền đầu tư cây bơ tính đến hét vụ mùa 2019: 6.630.192 đồng.
* Bị đơn ông Thân Trọng C trình bày:
Về lịch sử nguồn gốc của vườn cây được hình thành tồn tại: Năm 1997 gia đình
ông Thân Trọng C trực tiếp kết hợp đồng giao khoán vườn cây với Công ty C3, nay
ng ty cổ phần C2 từ đó đến nay không qua người nào khác. Sau khi ký kết bắt đầu
khai hoang, làm dọn đất để trồng mới cà phê, trong thời kỳ xây dựng kiến thiết cơ bản
là 04 năm kể từ năm 1995-1998. Hai bên cùng góp vốn là hộ gia đình (Bên B) và công
ty (Bên A) thời hạn hợp đồng liên kết là 25 năm được tính từ ngày trồng mới 1995, s
hữu đất là nhà nước. Trong thời kỳ xây dựng kiến thiết bản vốn đầu tư của bên A
bao gồm khỏa sát, thiết kế khai hoang, xây dựng các công trình và mua sắm các tài sản
cố định, trang thiết bị phục vụ sản xuất quản các loại phân bón, thuốc trừ sâu
bệnh, sữa chữa thường xuyên đập nước, tưới nước, quản bảo vệ sản xuất chung
trên toàn khu vực, nộp thuế nông nghiệp cho nhà nước. Đầu tư liên tục trong suốt thời
gian liên kết sản xuất kinh doanh. Vốn của bên A đầu tư trong suốt quá trình sản xuất
kinh doanh 60%. Vốn đầu của bên B bao gồm: Làm lán trại, chuẩn bị đất trồng,
trang thiết bị, công cụ lao động, phòng hlao động để sản xuất các khoản bảo hiểm
xã hội. Nhà nước quy định vật tư phân bón thuốc trừ sâu bệnh từ kho bên A để đầu tư
trên vườn cây. Thực hiện các khâu chăm sóc thường xuyên (làm cỏ, chồi cành, đầu tư
thâm canh thu hoạch, bảo vệ vận chuyển giao nộp sản phẩm vật tư phân bón trên diện
tích đất liên kết).
Vốn đầu bên B trong quá trình sản xuất kinh doanh là 40%. Sản phẩm được
chia theo tỷ lệ phần trăm góp vốn của các bên nội dung trên có thể hiện tại Điều III và
4
điều IV trang số 3 của hợp đồng liên kết sản xuất kinh doanh phê tại hợp đồng
năm 1997, hợp đồng với tính tnguyện dân chủ, được công chứng nhà nước. Hết
thời hạn hợp đồng sau 25 năm thì giá trị vườn cây còn lại được tính 50% bên A và 50
% Bên B, đất sở hữu nhà nước, thể hiện tại điều VII, trang 7 hợp đồng 1997. Trong
suốt 25 năm quá trình hợp đồng liên kết sản xuất kinh doanh gia đình ông C và các hộ
dân đã chấp hành đầu đủ, hoàn thành nghĩa vtrên vườn cây đang chăm sóc. Tuy nhiên
khi thời hạn hợp đồng kết thúc công ty cho rằng tiền thân ng ty TNHH C2 100%
vốn nhà nước nên dẫn đến không thống nhất việc thanh hợp đồng vào ngày
30/3/2020.
Về yêu cầu thanh lý hợp đồng ông Thân Trọng C đồng ý thanh lý hợp đồng giao
khoán theo yêu cầu khởi kiện của Công ty trả lại Quyền sử dụng đất cho Công ty,
bởi đất thuộc quyền sử hữu của nhà nước. Về diện tích đất trả lại do điện gió thu hồi
một phần diện tích đã hỗ trợ bồi thường cho gia đình ông C công ty nên không
đề nghị xem xét.
Về xác định giá trị vườn cây trồng như đại diện theo uỷ quyền của Công ty trình
bày thì ông C cũng thống nhất với ý kiến cụ thể như sau: Về giá trị vườn cây ng ty
Cổ phần C2 thống nhất giá trị vườn cây mỗi bên được hưởng 50% giá trị theo kết quả
định giá tài sản. Về giá trị cây thì chia theo tỷ lệ gia đình ông C được hưởng 80%
giá trị, còn công ty được hưởng 20% giá trị. Về các loại cây trồng phát sinh trên đất do
gia đình tự trồng thì gia đình ông C được hưởng 100%.
Về sản lượng cà pphải nộp theo đơn khởi kiện của Công ty thì ông Thân Trọng
C không đồng ý, chỉ đồng ý nộp sản lượng 50% đối với vụ mùa năm 2020 năm
2021, gia đình ông C là người trực tiếp kết với công ty, có nhiều đóng góp, tôn
tạo vườn cây, các khoản nộp sản lượng cho công ty, gia đình ông C cũng có thiện chí
nộp, hơn nữa thời điểm sau khi hợp đồng hết hiệu lực thì gia đình ông C vẫn có giá trị
vườn cây 50%; đối với vụ mùa năm 2022, năm 2023 thì công ty chỉ có tưới 01 đợt 08
sào, gia đình ông C đã trả lại tiền tưới cà phê cho công ty. Sau khi bản án của Toà án
tỉnh Đắk Lắk đối với các vụ án khác hiệu lực tviệc quản lý, gia đình tự đầu
chăm sóc vườn cây và nếu gia đình không đầu tư chăm sóc thì vườn cây sẽ không còn
giá trị như hiện nay, đnghị Toà án xem xét giải quyết theo quy định. Về tiền đầu tư
cây trước đây thì gia đình cũng đồng ý không ý kiến gì. Ông Thân Trọng C
không có yêu cầu phản tố.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Lương Thị Mỹ T1 trình bày:
Nhất tvới ý kiến trình bày cũng như yêu cầu của ông C, không ý kiến bổ sung
hay yêu cầu gì thêm. Bà T1 không có yêu cầu độc lập.
Tại Bản án dân sự thẩm số 36/2024/DS-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án
nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ khoản 3, 9 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35, Điểm a khoản 1 Điều 39
khoản 1 Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 203, Bộ luật ttụng dân sự; điểm c khoản
1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015; các Điều 224, 419, 388, 390, 392, 412, 414,
501,502, 503, 504, 505, 506, 507, 508, 509, 510, 511, 580, 581 Bộ luật dân sự năm
2005; Điều 224, Điều 419, Điều 580, Điều 581 Bộ luật dân sự năm 2015; Các Điều
5
8,9, 10 Nghị định số 135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 của Chính phủ; Thông tư số
102/2006/TT-BNN ngày 13/6 /2006 của Bộ N hướng dẫn một sđiều Nghị định số
135/2005/NĐ-CP ngày 08/11/2005 của Chính phủ; Luật đất đai năm 2003; Khoản 2
Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về mức thu miễn, giảm thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Tuyên xử: Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty Cổ phần
C2 đối với ông Thân Trọng C.
1.1. Chấm dứt hợp đồng giao khoán Hợp đồng số 16AT.10 lô: B15+B16+B19,
Diện ch: 1,55 ha, ngày 30/4/2004, buộc ông Thân Trọng C phải trả lại toàn bộ diện
tích đã nhận khoán có diện tích thực tế sau khi đã trừ đi diện tích thu hồi làm điện gió
có diện tích và tứ cận từng thửa cụ thể như sau:
- B19 - Thuộc thửa đất số 59 (diện tích 4.787,9 m2) - tờ bản đồ số 13,
tứ cận:
+ Phía Đông giáp lô ông T2
+ Phía Tây giáp lô ô Nam
+ Phía Nam giáp lô bà M
+ Phía Bắc giáp đường lô
- Mã lô B16 Thuộc thửa đất số 41( diện tích 6.399,2m2) đã thu hồi làm điện gió
3.002,5 m2 theo quyết định số 2869/QĐ- UBND ngày 13/11/2023 của UBND huyện
K, diện tích còn lại 3.396.7m2, có tứ cận
+ Phía Đông giáp trụ điện gió
+ Phía Tây giáp lô bà L
+ Phía Nam giáp lô ông C1
+ Phía Bắc giáp đường đi
- B15 diện tích 5.457,3 m2 bao gồm thuộc thửa đất số 69 ( diện ch
4.904,1m2) + thửa đất số 72 (diện tích 553,2m2) - tờ bản đồ số 14 đã thu hồi làm điện
gió 441,6m2 còn lại 5.015,7m2, có tứ cận:
+ Phía Đông giá đường lô
+ Phía Tây giáp đường lô
+ Phía Nam giáp đường đi
+ Phía Bắc giáp đường lô
Địa chỉ thửa đất: Thuộc C, huyện K, tỉnh Đắk Lắk theo giấy chứng nhận QSDĐ
số CM279613 do Sở TNMT tỉnh Đ cấp ngày 03/4/2018.
1.2. Công ty Cổ phần C2 trách nhiệm trhoàn trả cho ông Thân Trọng C giá
trị cây trồng trên đất bao gồm: Cà phê, B, muồng theo hợp đồng giá trị cây trồng
trên đất không trong hợp đồng với tổng giá trị là: 340.808.000 đồng (Ba trăm bốn
mươi triệu tám trăm linh tám nghìn đồng) (lấy tròn) .
6
1.3. Buộc ông Thân Trọng C nghĩa vụ bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi
chiếm gitrái phép đất vườn cây cho Công ty Cổ phần C2 gồm: Nợ sản lượng vụ
2020 2021 8.727 kg phê quả tươi, trong đó sản lượng khoán 11.840 kg phê
quả tươi – 3.113 kg cà phê quả tươi đã nộp; Nợ sản lượng vụ 2021 – 2022 là 9.391 kg
phê quả tươi, trong đó sản lượng khoán 11.065 kg phê quả tươi 1.673 kg
phê quả tươi sản lượng quy từ phân bón; Nợ sản lượng vụ 2022– 2023 5.425 kg
cà phê quả tươi. Tổng cộng nợ sản lượng là 23.124 kg cà phê quả tươi.
Buộc ông Thân Trọng C nghĩa vụ trả cho Công ty cổ phần C2 số tiền nợ đầu
tư bơ là 6.630.192 đồng.
Áp dụng Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015 trong giai đoạn thi hành án dân
sự.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí t tụng, án phí, quyền kháng cáo,
quyền thi hành án cho các đương sự theo quy định.
Ngày 14/10/2024, ông Thân Trọng C có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm
với nội dung: Đề nghị cấp phúc thẩm xem xét yêu cầu Công ty tiếp tục kết hợp
đồng; xem xét phần bồi thường sản lượng; xem xét cây bơ gia đình ông C tự trồng nên
được hưởng 100%.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện, bị đơn
giữ nguyên đơn kháng cáo.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu:
- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã tuân thủ đầy đủ thực hiện đúng
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Qua phân tích đánh giá các chứng cứ, tài liệu được thu thập
trong hồ vụ án, kết qutranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát cho rằng
kháng cáo của ông Thân Trọng C không căn cứ nên đề nghị HĐXX căn cứ khoản
1 Điều 308của Bộ luật tố tụng dân sự; Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Thân
Trọng C. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 36/2024/DS-ST ngày 30/9/2024 của
Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn
cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đcác tài liệu chứng cứ,
lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên, HĐXX nhận định:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn nộp trong hạn luật định, đã nộp tiền tạm
ứng án phí nên vụ án được giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về kháng cáo đề nghị Công ty cổ phần C2 sau khi thanh xong dứt điểm
các hợp đồng phải tiếp tục soạn thảo để kết hợp đồng mới cho hộ gia đình ông
C, HĐXX xét thấy: Vấn đề giữa Công ty cổ phần C2 và hộ gia đình ông C có tiếp tục
ký kết hợp đồng được hay không là phụ thuộc vào ý chí và sự thỏa thuận của hai bên,
nên nội dung kháng cáo này của ông C Tòa án không thể xem xét.
7
[2.2] Về kháng cáo sản lượng bồi thường 23.124kg phê quả tươi, HĐXX xét
thấy:
Khi hết thời hạn hợp đồng, ông Thân Trọng C không đồng ý thanh lý hợp đồng,
cũng không gia hạn hợp đồng tiếp tục quản lý, sử dụng chiếm giữ diện tích đất nhận
khoán vườn cây trên đất. Trong thời gian thực hiện Hợp đồng (từ năm 2004 đến
01/04/2020) hàng năm ông Thân Trọng C vẫn đóng sản lượng đầy đủ cho Công ty theo
hợp đồng khoán. Kể từ ngày 01/04/2020, ông C vẫn chiếm giữ và hưởng lợi trên vườn
cây và diện tích giao khoán. Ông Thân Trọng C cho rằng ông được hưởng 50% giá trị
của vườn cây nên chỉ chịu nộp sản lượng 50% là chưa phù hợp, bởi lhai bên vẫn chưa
thanh hợp đồng chưa bản án hiệu lực pháp luật về việc xác định 50% giá
trị của mỗi bên, đáng lẽ ra khi hết thời hạn hợp đồng ông C không tiếp tục gia hạn hợp
đồng thì phải khởi kiện công ty về việc thanh lý hợp đồng để xác định giá trị vườn cây
của mỗi bên nhưng ông C vẫn chiếm giữ và thu hoa lợi trên vườn cây là chưa phù hợp.
vậy, cấp thẩm buộc ông Thân Trọng C phải nộp sản lượng cho Công ty theo mức
sản lượng các hộ gia hạn hợp đồng đóng hàng năm từ niên vụ 2020 đến niên vụ
2023 là phù hợp.
[2.3] Về kháng cáo số lượng cây bơ do gia đình ông C tự trồng nên được hưởng
100% giá trị, HĐXX xét thấy: Năm 2014, Công ty phương án trồng thêm cây Bơ bờ
lô, theo thỏa thuận và phương án được lập, Công ty chịu trách nhiệm đầu tư cây giống,
phân bón, tưới nước, vật ..v.v, còn hộ nhận khoán chịu trách nhiệm đầu thâm canh
lao động trên diện ch nhận khoán theo tỷ lệ Công ty đầu 20%, hộ nhận khoán
đầu 80%. Quá trình giải quyết vụ án tại cấp thẩm nguyên đơn bị đơn thống
nhất về giá trị cây bơ bờ lô thì chia theo tỷ lệ gia đình ông C được hưởng 80% giá trị,
còn công ty được hưởng 20% giá trị. Tại thẩm ông C cũng không đề cập đến việc
cây bơ bờ do ông C tự trồng, nay cũng không cung cấp được chứng cứ chứng
minh việc ông C tự trng, tự đầu tư, tự chăm sóc cây Bơ nên không có căn cứ để chấp
nhận yêu cầu kháng cáo này của ông C.
Từ những phân tích trên Hi đồng xét xxét thấy không có căn cứ để chấp nhận
đơn kháng cáo của ông Thân Trọng C, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số
36/2024/DS-ST ngày 30/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
[3] Về án phí DSPT: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên ông Thân
Trọng C phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự phúc thẩm,
[4] Các quyết định của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị đã
hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 308 của B luật tố tụng dân sự;
Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông Thân Trọng C
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 36/2024/DS-ST ngày 30/9/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk.
8
[2]. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Thân Trọng C phải chịu 300.000 đồng tiền
án phí dân sphúc thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên
lai thu số 0006415 ngày 14/10/2024 của Chi cục THADS huyện K.
Các quyết định của bản án sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu
lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Krông Búk;
- Chi cục THADS huyện Krông Búk; (Đã Ký)
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ.
Nguyễn Thị My My
Tải về
Bản án số 153/2025/DS-PT Bản án số 153/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 153/2025/DS-PT Bản án số 153/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất